ĂN CHAY - MÙA CHAY
Hầu
như mọi tôn giáo đều coi trọng việc ăn chay, coi đó như là điều không thể thiếu
trong đời sống của các tín hữu. Ý nghĩa và mục đích của việc ăn chay có phần
giống nhau, nhưng lại cũng khác nhau tùy theo lý tưởng tôn giáo và cùng đích
của đời sống mà họ đang hướng tới. Khi nói về Ăn chay – Mùa chay, ta cũng cần tìm
hiểu và rút tỉa “những gì là chân thật và
thánh thiện nơi các tôn giáo” (NA 2), để làm phong phú hơn cho đời sống tâm
linh của mình.
I. ĂN
CHAY THEO QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ TÔN GIÁO
1. Ăn chay
ĂN CHAY, do chữ Hán là
Trai. Trai có nghĩa là thanh tịnh, sạch sẽ. Ăn chay là ăn các loại thực phẩm
phát xuất từ thảo mộc hay được chế biến từ thảo mộc, như: rau cải, hoa quả,
ngũ cốc, các loại đậu, tàu hủ, tương chao… Người ăn chay thường dùng nước chấm
là nước tương, được làm bằng đậu nành hay xác đậu phọng. Do đó, người bình dân
gọi ăn chay là ĂN TƯƠNG.
Ăn chay còn được gọi là
ĂN LẠT. Ăn lạt không có nghĩa là ăn những món ăn lạt lẽo, mà nói như vậy để đối
nghĩa với ĂN MẶN. Ăn mặn không có nghĩa là ăn những món ăn được nêm muối cho
mặn, mà là ăn các loại thực phẩm xuất phát từ động vật hay được chế biến từ
thịt động vật, như: cá, thịt, tôm, cua, sò, ốc, ba-tê, lạc xưởng,.... Vậy, ăn
chay, ăn tương hay ăn lạt đều như nhau.
Người ăn chay trường
lâu năm thì tạo được vừng hào quang trong sáng nơi đỉnh đầu, chân thần cũng
được trong sáng, tinh tấn, nên nhẹ nhàng hơn không khí. Ðến kỳ thoát xác, chân
thần xuất ra khỏi thể xác một cách dễ dàng và bay khỏi bầu không khí, đến các
cõi thiêng liêng.
II. ĂN CHAY THEO KITÔ GIÁO
Kitô giáo
quan niệm rằng ăn chay là rèn luyện cho bản thân cách chống lại những ham muốn
xác thịt và nhất là tỏ lòng sám hối tội lỗi đối với Thiên Chúa. Cần phân biệt giữa "giữ chay" và "kiêng thịt" (nhưng hai
việc này lại thường đi đôi với nhau), thông thường được hiểu như sau:
·
Giữ chay (jejunium) có nghĩa là giới hạn lượng lương thực được tiếp nạp vào cơ thể. Cụ thể, giữ
chay là không được ăn và uống những thứ gì ngoài bữa ăn chính trong ngày (như bánh, kẹo, nước ngọt, cà phê, trái cây...).
·
Kiêng thịt (abstinentia) có nghĩa là từ bỏ một thức ăn khoái khẩu thường ngày, cụ thể, cấm ăn thịt
nhưng lại cho phép ăn cá, các sinh vật biển hay động vật máu lạnh (tôm, cua,
ếch...). Trứng, sữa và
các chế phẩm từ trứng, sữa (như bơ,
pho mát,
sữa chua...)
không thuộc danh mục những thứ buộc phải kiêng. Tuy nhiên, xét cho cùng, chúng
lại "vướng" vào quy định của "giữ chay".
·
Luật chỉ buộc giữ chay kiêng - thịt vào Thứ tư Lễ
Tro và Thứ sáu Tuần Thánh, còn tất cả các ngày thứ sáu trong tuần khuyên các tín hữu phải giữ chay và kiêng thịt.
·
Điều 1252: "Ai đã trọn 14 tuổi buộc phải giữ luật
kiêng thịt; còn luật ăn chay buộc tất cả những người thành niên cho đến khi bắt
đầu 60 tuổi. Tuy nhiên, các vị chủ chăn và cha mẹ phải lo sao để cả những người
vị thành niên không buộc ăn chay kiêng thịt cũng phải được thấm nhuần tinh thần sám hối đích thực."
·
Điều 1253: "Hội đồng Giám mục có thể ấn định rõ
hơn luật giữ chay và kiêng thịt, cũng như có thể thay thế toàn phần hay một
phần việc kiêng thịt và ăn chay bằng những hình thức sám hối khác, nhất là bằng
những việc bác ái và việc đạo đức."
Ăn chay bên ngoài nhắc nhở việc ăn chay trong lòng.
Ăn chay trong lòng giúp ta tập làm chủ đời sống mình để luôn biết qui hướng về
Chúa và mở lòng ra với tha nhân. Điều quan trọng hơn nữa là sống ý nghĩa Mùa
Chay như Giáo Hội mong muốn, đó là sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô trong
cuộc đời mình.
III. MÙA CHAY
1. Lịch sử Mùa Chay
Trong thế kỷ II các tân tòng[1]
ăn chay hai ngày trước khi được Rửa Tội trong Đêm Vọng Phục Sinh. Dần dần thời gian chuẩn bị và ăn chay kéo dài 2, 3 và 4 tuần. Trong thế kỷ V Giáo
Hội thêm lễ Tro là một nghi thức dành cho tội nhân đang hoán cải
và sẽ được hòa giải ngày thứ Năm Tuần Thánh.
- Ý nghĩa “Tro”
Từ thời Cựu Ước, “tro”
đã mang hai ý nghĩa: tượng trưng cho “sự
thống hối ăn năn” và “đời sống khiêm
nhường.” Trong sách Sáng Thế 18, 27, chúng ta nghe Abraham tự thú nhận: “Này tôi quả đường đột thưa với Chúa tôi –
tôi chỉ là tro bụi.”
Đến thế kỷ thứ 5, Giáo
Hội mới bắt đầu dùng tro trong các nghi thức phụng vụ. Trong thời điểm này,
những kẻ tội lỗi và hối nhân rắc tro trên thân mình. Họ bị trục xuất ra khỏi
cộng đoàn trong một thời gian ngắn, để thống hối ăn năn vì những trọng tội họ
đã phạm – như tội phản đạo, chối đạo, sát nhân và ngoại tình.
Đến thế kỷ thứ 7, nghi
thức thống hối này đã biến dạng và được áp dụng vào ngày Thứ Tư Lễ Tro. Kẻ có
tội phải mặc áo nhặm và xức tro trên mình. Đồng thời, phải sống xa gia đình
suốt cả Mùa Chay. Những người này không được bước vào Nhà Thờ và cũng không
được nói chuyện với bất cứ một ai. Họ phải làm việc đền tội, cầu nguyện và ngủ
dưới đất hoặc trên rơm và cũng không được tắm rửa hoặc cắt tóc cạo râu. Vào
ngày Thứ Năm Tuần Thánh, những hối nhân này được ban ơn xá giải và trở về với
gia đình. Truyền thống này bắt đầu phổ biến và được áp dụng cho toàn thể Giáo Hội
vào thế kỷ thứ 11, dưới triều đại của Đức Thánh Cha Urbanô đệ II.
Ngày nay, vào mỗi Thứ
Tư Lễ Tro, các linh mục dùng tro gạch dấu Thánh Giá trên trán của bản thân mình
và từng Giáo hữu. Tro này chính là tro của những chiếc lá vạn tuế của Lễ Lá năm
trước đã được đốt đi. Tro nhắc nhở các giáo hữu về thân phận con người. Con
người được dựng nên từ bụi tro. Tro được sức lên trán để khắc ghi vào tâm trí
thực tại cát bụi của con người chúng ta. Vì vậy, khi dùng tro ghi dấu Thánh Giá
trên trán, linh mục sẽ đọc: “Ta là thân
cát bụi – sẽ trở về cát bụi” (St 3,19) hoặc “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng” (Mc 1,15).
- Ý nghĩa liên lệ giữa
“Mùa Chay” và “Lễ Tro”
Lá vạn tuế năm trước
được đốt đi thành tro là một dấu chỉ thích đáng cho ý nghĩa của Mùa Chay. Điều
đó có ý mời gọi mỗi tín hữu phải nhìn lại cuộc sống của mình trong năm qua. Ta
phải thiêu đốt tất cả những gì xấu xa tội lỗi của ta thành tro bụi, và quyết
tâm lên đường theo Chúa Giêsu bước vào sa mạc để đối diện với lòng mình, với
chính kẻ thù của mình là Satan. Satan hằng luôn xúi dục ta chiều theo tính đam
mê xác thịt, ham hố quyền hành và tham lam tiền của. Nhìn nhận mình là bụi cát,
ta noi gương Chúa Giêsu sống khiêm nhu, kính sợ và tín thác vào Thiên Chúa. Chỉ
lúc đó, Thiên Chúa mới “cất nhắc tôi lên
từ đống phân tro.” (TV 113, 7)
Như vậy các tân tòng và tội nhân là nhân vật quan
trọng hàng đầu trong
Mùa Chay. Lời nguyện và bài đọc của Mùa Chay thường nhắc đến tân tòng đang
chuẩn bị chịu phép Rửa Tội và tội nhân đang xin được hòa giải. Thực sự mọi Kitô
hữu đã là ‘tân tòng’ cần đi lại và đào sâu con đường dẫn đến Rửa Tội; vẫn là
‘tội nhân’ được mời xức tro và tích cực tham gia vào Mùa Chay để ăn năn sám hối
và chuẩn bị lập lại lời hứa khi chịu Phép Rửa Tội.
Công Đồng Vat II muốn đem lại đặc tính đích thực cho
Mùa Chay: “Hai đặc tính của mùa Chay là
việc sám hối và nhất là việc nhớ lại hoặc dọn mình chịu phép Rửa Tội, chuẩn bị
các tín hữu cử hành mầu nhiệm phục sinh, bằng sự nhiệt thành nghe lời Chúa và
chuyên chăm cầu nguyện hơn… Trong Mùa Chay, việc sám
hối không những chỉ ở trong lòng và có tính cách cá nhân, mà còn phải tỏ lộ ra
bên ngoài và có tính cách xã hội. Vậy hãy khuyến khích việc thực hành sám hối
tùy theo khả năng của thời đại ta, của các miền khác nhau cũng như tùy hoàn
cảnh các tín hữu.” (SC 109-110).
2. Chủ đích của Mùa
Chay
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để đón nhận
ân sủng của Chúa, giúp cho các tín hữu ý thức tình yêu và kế hoạch Thiên Chúa trên cuộc đời mình; là thời gian nhớ lại ngày được Rửa Tội, là biến cố được
“dìm xuống” trong Đức Kitô để hoán cải và sống thực sự theo vết chân Ngài. Đó cũng là thời gian tìm lại gốc rễ của đời sống đích thực nơi mỗi người. Gốc rễ là Đức Kitô đã
chết và sống lại để ban cho nhân loại sự sống mới.
Gốc rễ là hành động của Thần Khí nối kết chúng ta với Thiên Chúa và với anh em
trong tình yêu.
Mùa Chay là một hành trình tập luyện thiêng liêng dẫn đến Phục Sinh. Trước
khi xức tro có lời nguyện: “Lạy Chúa,
ngày hôm nay, tất cả chúng con ăn chay hãm mình, để bước vào mùa tập luyện
chiến đấu thiêng liêng. Xin giúp chúng con hằng biết sống khắc khổ, để ngày
thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần”.
Như vậy, Mùa Chay là mùa
phục hồi và bồi dưỡng tâm linh.
Nói đúng hơn là chuẩn bị tín hữu tham dự
trọn vẹn hơn vào mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, giúp cho tín hữu thực hiện
sự phục sinh tâm linh của chính mình.
Mùa Chay không có ý nghĩa tự thân. Nó lệ thuộc vào Lễ Phục Sinh, được lập
ra vì Lễ Phục Sinh. Không có Lễ Phục Sinh thì cũng sẽ không có Mùa Chay. Mùa Chay chỉ thực sự có ích nếu giúp ta hồi sinh từng bước, nâng cao phẩm
chất đời sống tâm linh, để chính chúng ta cũng sống lại cùng với
Chúa.
3. Phục hồi và bồi dưỡng tâm linh trong Mùa Chay
Không thể sống Mùa Chay
mà lại thiếu nỗ lực phục hồi và bồi dưỡng tâm linh. Nỗ lực này là điều kiện
thiết yếu của đời sống Kitô hữu. Kinh nghiệm hiển
nhiên cho thấy, trong mọi lãnh vực, thời gian và hoàn cảnh luôn làm tiêu hao và bào mòn mọi sự. Ngay cả tình yêu thắm thiết ban đầu rồi sẽ
phai dần: Dầu rằng hẹn núi thề non, nhưng rồi có lúc héo
mòn nhạt phai. Vì thế, trong bất cứ lãnh vực nào cũng có nhu
cầu phục hồi, tân trang, nâng cấp…để ngăn chặn sự thoái hóa. Đời sống tâm linh cũng không thể khác được.
Trên
đường đi theo Chúa rất dễ xảy ra hiện tượng tiêu hao, xuống cấp. Hiện tượng này
có khi còn trầm trọng hơn trong các lãnh vực khác. Cám dỗ ngày càng tăng; sức kháng cự ngày càng yếu; lòng sốt sắng ban đầu suy giảm dần; tội lỗi ngày càng tăng áp lực, nên đời sống tâm linh cạn kiệt và tê liệt
dần, vì xa rời với nguồn suối linh thiêng.
Trong
khi đó, Thiên Chúa lại chờ đợi chúng ta tăng trưởng, tiến tới, vươn lên. Chúa Giêsu luôn bảo các môn đệ của Ngài : “Hãy theo Ta”. Càng ngày càng phải theo Chúa sâu sát hơn
trên con đường Chúa đi: con đường thập giá, từ bỏ, hy sinh, quên mình, để tiến
đến sự phục sinh. Phải dám khước từ những con đường dễ dãi, hưởng thụ, lạc thú, phú quí, danh lợi… là những con đường đưa ta vào ảo mộng, nửa tỉnh nửa mê, dở sống dở chết. Bởi
thế, thánh Phaolô đã phải đánh thức các tín hữu của ngài : “Hãy chỗi dậy những ai ngủ mê, hãy chỗi dậy từ cõi chết. Chúa Kitô sẽ chiếu
sáng trên ngươi”.
Chúng ta hãy phác họa
cho mình một chương trình và cách thức cụ thể để sống Mùa Chay: sống yếu tố Mầu
Nhiệm của đời mình trong Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, để Chúa là tất cả
trong tất cả cuộc đời chúng ta.
Lm. Thái Nguyên
[1] ‘Tân tòng’ (Catechumen) bằng tiến Hy lạp là kẻ “lắng
nghe” (katejei), tức là kẻ nhận ra tiếng kêu của Thiên Chúa. Kinh nghiệm căn
bản của tân tòng là ‘nghe Thiên Chúa nói’. Khi đọc Kinh Thánh,
thắc mắc chính của con người không phải là Thiên Chúa ‘có thật’
không, mà là Ngài ‘có nói’ thực sự chăng. Những thắc mắc về đức
tin không được đáp lại bằng những lý luận rất giỏi mà bằng đức tin, khi chúng
ta nhận thấy và nghe Thiên Chúa nói với mình.