ĐỜI SỐNG TRONG THÁNH THẦN
“Thánh thần là bảo chứng
phần gia nghiệp của chúng ta.”
(Ep 1,14)
Đời sống thiêng liêng là
đời sống trong Chúa Thánh Thần, hay nói cách sâu sát hơn, là đời sống của Chúa
Thánh Thần trong ta. Điều quan trọng trong đời ta không phải là những gì mình
muốn làm nên cho Chúa, mà là những gì Chúa muốn làm nên cho ta. Cuộc sống như
thế đòi ta phải hoàn toàn tùy thuộc vào Thánh Thần trong mọi sự. Càng sống theo
Thánh Thần, càng để cho Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta càng trở nên chính mình,
càng biết sáng tạo đời mình theo định hướng của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta chỉ
có thể bước theo Thánh Thần, sống dưới tác động thâm sâu của Ngài, khi nhận biết
sự hiện diện huyền diệu của Ngài trong chương trình tạo dựng và cứu độ của Thiên
Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, trong Giáo Hội, và cách riêng là có kinh nghiệm sống
động về hoạt động tình yêu của Ngài trong cuộc đời mỗi người chúng ta.
Thánh Thần tuy tràn lan
trong vũ trụ, nhưng lại hiện diện tràn đầy nhất trong tâm hồn ta: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ
của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên
Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3,16); “Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần mà chính Thiên Chúa đã
ban cho anh em” (1Cr 6,19).
Để nhận biết cụ thể và cô
đọng về Chúa Thánh Thần, ta có thể dựa trên ba từ ngữ cơ bản: Ektasis (xuất thần), Kenosis (tự hạ) và Synthesis (kết hợp)[1].
Đây là một trong nhiều cách diễn đạt về Thánh Thần, không chỉ giúp ta khám phá
ra cách thức hiện diện và hành động của Ngài, mà còn giúp ta biết cách bước
theo Ngài, sống trong Ngài, để Ngài tự do hoạt động và điều hướng cuộc đời ta,
làm cho ta lớn lên trong ân sủng, như một công trình tình yêu của Thiên Chúa.
a. Ektasis (έκστασις): Xuất Thần
Đặc tính “xuất thần” của
ngôi vị và hoạt động của Chúa Thánh Thần được diễn tả trong chữ Thần Khí (ruah,
pneuma). Thánh Thần là gió, là hơi thở, là khí, là hương thơm, là thực tại sống
động luôn ra khỏi chính mình. Mạc khải thường liên kết Thánh Thần với sự can thiệp
của Thiên Chúa trong lịch sử.
Cựu Ước khởi đầu với Thần Khí của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước (x. St
1,2). Nhờ Thần Khí mà sự tạo dựng bắt đầu từ hư vô, và sự sống tràn lan trên mặt
đất. Tất cả công trình tạo dựng như một khai mở xuất thần. Sự khai mở đó đi vào
lịch sử cứu độ khi Thần Khí xuống trên các lãnh đạo của dân Chúa (x. Tl 3,12;
6,34; 13,25), trên các ngôn sứ (x. Ed 3,12; 8,3; 11,1).
Tân Ước cũng khai trương với
việc Thánh Thần xuống trên Trinh Nữ Maria (x. Lc 1,35), trên Đức Giêsu (x. Mc
1,10), trên các tông đồ (x. Cv 2,4). Thánh Thần là quyền năng đưa sự sống đến
cho tạo dựng, đưa ân sủng đến cho lịch sử. Chúng ta tin rằng trong vũ trụ có một
năng lực không ngừng quy tụ và thăng tiến, đó là Thần Khí Đức Kitô hiện diện và
nội tại trong toàn thể muôn vật được tạo thành. Chúng ta không nhắm mắt trước tội
lỗi, nhưng tin tưởng vào Thánh Thần, Đấng không loại trừ sự chết, nhưng biến đổi
thành kinh nghiệm phục sinh.
Thần học Đông Phương nhìn Chúa Thánh Thần như sự khai mở của Thiên Chúa ra khỏi chính mình để
đi đến với con người, làm cho con người ra khỏi mình để gặp gỡ Thiên Chúa. Nơi
Đức Giêsu, Thánh Thần làm cho Thiên Chúa và con người kết hợp với nhau. Chúa
Giêsu là khuôn mặt thần linh của con người, và là khuôn mặt con người của Thiên
Chúa. Ngài là Thiên Chúa mang lấy xác thể để con người mang lấy thần linh. Nhờ
Chúa Giêsu, Thiên Chúa tự hiến mình trong Chúa Thánh Thần để cứu độ chúng ta.
Truyền thống Tây phương vẫn quen nhìn Chúa Thánh Thần là chiều sâu của Thiên Chúa, là Tình Yêu
nối kết Chúa Cha và Chúa Con (vinculum amoris). Thánh Thần vừa là Đấng Bên
Trong (Intimum Dei), vừa là Đấng Mút Cùng (Extremum Dei), Đấng nội tại nhất lại
là Đấng siêu việt nhất. Tình yêu tự hiến giữa Chúa Cha và Chúa con cô đọng
trong ngôi vị Thánh Thần. Thánh Thần như sự xuất hành trọn vẹn của Chúa Cha và
của Chúa Con.
b. Kenosis
(κένωσις): Tự Hạ
Truyền thống Đông
phương và Tây phương đều nhận ra sự hạ mình sâu thẳm của Chúa Thánh Thần. Thiên
Chúa vựợt trên chính mình bằng cách hạ mình. Sự xuất ngoại của Thánh Thần là một sự hạ mình, để yêu thương và tự hiến
(x. Ga 12,24 ; Mc 8,35). Sự tự hạ đó được diễn tả như sau:
-
Chúa
Thánh Thần gần như không có danh xưng riêng biệt. Hai chữ Thánh và Thần ghép lại để làm danh xưng cho Ngài, là những từ ngữ chỉ các ưu
phẩm chung cho Chúa Cha và Chúa Con. Thánh Tôma nghĩ rằng sự “phát xuất” của Thánh
Thần không có tên riêng. Theo E. Brunner, sự độc đáo của Thánh Thần là hiện hữu cho. Mức độ hiện hữu cho cao đến gần như làm lu mờ chính
chủ vị của Ngài.
-
Sự
ẩn khuất của Ngôi Vị Thánh Thần. Ngôi vị Chúa Cha và Chúa
Con được mạc khải khá rõ ràng. Chúa Cha được Chúa Con mạc khải, Chúa Con được
Thánh Thần mạc khải. Còn ngôi vị Thánh Thần như ẩn khuất sau hai ngôi vị kia.
Thánh Thần như hơi thở trong tiếng nói
của Cha: “Con là Con Cha, hôm nay Cha
sinh ra Con” (Tv 2,7); và như hơi thở trong tiếng nói của Con hướng về Cha:
“Abba, Cha ơi!”.
-
Chúa
Thánh Thần như không sử dụng chữ “Tôi”. Ngài là “sự phong nhiêu
của Thiên Chúa”, nhưng chẳng có ngôi vị nào phát xuất từ Ngài. Ngài là chìa
khóa để mở ra mầu nhiệm Thiên Chúa, nhưng chính Chúa Con được sinh ra và nhập
thể; và thế giới được tạo dựng theo hình ảnh Chúa Con. Ngài là sự hiệp thông,
phục vụ cho sự gặp gỡ vĩnh hằng giữa Chúa Cha và Chúa Con, là dây liên kết giữa
Cha và Con.
-
Ngay cả trên bình diện lịch sử cứu độ, Thánh Thần vẫn
luôn hạ mình. Trong cựu ước, Ngài biểu lộ như là sức
mạnh của Thiên Chúa, được diễn tả bằng những hình ảnh vô chủ vị, như hơi thở,
nước và lửa. Trong Tân ước, Chúa Thánh Thần hạ mình trong biến cố Ngũ Tuần,
ngôi vị của Ngài ẩn dấu đằng sau thần tính.
-
Chúa Thánh Thần luôn hướng về Chúa Kitô. Vai trò của Ngài là tháp nhập các tín hữu vào Chúa Kitô, tạo nên cho
Chúa Cha những người con. Thánh Thần làm cho chúng ta thuộc về Chúa Kitô (Rm
8,9), và hướng về Chúa Cha (x. Rm 8,15 ; Gl 4,6). Ngài cầu nguyện cho chúng ta
và trong chúng ta, nhưng không làm cho chúng ta ngỏ lời với Ngài, trái lại ngỏ
lời với Chúa Cha qua lời cầu của Chúa Con, và hướng dẫn chúng ta tuyên xưng
Chúa Con (x. 1Cr 12,3).
-
Ngài
hành động trong chúng ta cách kín đáo, làm như hành động chỉ
là của riêng ta, làm cho chúng ta trở nên chính mình. Ngài chấp nhận trở nên “Ơn tha tội” của Thiên Chúa dành cho những
tội nhân. Trong Thánh Thần, Thiên Chúa như tự hủy để cho con người được sống.
-
Việc của Chúa Thánh Thần là việc âm thầm cho đến tận thế. Ngài không bao giờ nói gì về chính mình, nhưng chỉ nói về Chúa Cha và
Chúa Kitô; cũng không tự động nói điều gì, mà mọi sự đều do Chúa Kitô (x. Ga
16,13-15). Ngài không làm vinh danh chính mình, nhưng làm vinh danh Chúa Kitô. Ngài
vẫn là Đấng không được biết đến bên kia Ngôi Lời.
-
Ngày cánh chung khi
Chúa Cha trở nên mọi sự trong mọi nguời, Chúa Thánh Thần sẽ như ánh sáng chiếu
soi gương mặt Chúa Kitô và gương mặt các thánh, nhưng Ngài vẫn như không có
gương mặt riêng, Ngài tự biểu lộ nơi những con người được thần hóa, là Thánh Thần
trong các thánh.
c. Synthesis
(σύνθεσις): Kết Hợp
Thông
điệp về Chúa Thánh Thần của Đức Gioan Phaolo II cho biết: “Trong Thánh Thần, đời sống thân mật của Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi
hoàn toàn trở thành ân huệ, và qua Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa “hiện hữu” dưới hình
thức ân huệ” (DEV 10).
Theo thánh Augustinô, Ngôi
Ba là Tình Yêu cao vời nối kết Chúa Cha và Chúa Con, và nối kết chúng ta với các
Ngài. Trong Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa ban cho chúng ta Hồng Ân không thấp hơn
chính mình Ngài. Thánh Thần là hồng ân của Thiên Chúa được ban cho những ai nhờ
đó mà yêu mến Thiên Chúa. Thánh Tôma dành cho Chúa Thánh Thần một danh xưng kép:
“Tình yêu” và “Hồng Ân” (Amor-Donum).
Thần
học Hy Lạp cũng gặp gỡ thần học La Tinh, khi bàn đến Thánh Thần như là cùng đích,
là sự hoàn tất trong Ba Ngôi[2]:
“Mỗi hành động đều phát sinh từ Chúa Cha,
tiến hành nơi Chúa Con và hoàn tất trong Chúa Thánh Thần”[3].
Chúa Cha sinh ra Ngôi Lời
vừa nên một với Ngôi Lời trong Thánh Thần là Tình Yêu kết hợp. Sự kết hợp giữa
Cha và Con mật thiết và cụ thể đến nỗi làm thành một Ngôi Vị là Ngôi Ba. Các
ngôi vị không chướng ngại cho sự duy nhất, nhưng là nguồn gốc của sự duy nhất,
vì các ngôi vị có tương giao trọn vẹn và trao ban toàn vẹn sự sống thần linh
viên mãn của mình cho nhau.
Nhờ
sự nội tại của Thánh Thần, vừa là của Cha, vừa là của Con, mà Cha hiện diện
trong Con nhờ Thần Khí của Cha; Con hiện diện trong Cha nhờ Thần Khí của Con.
Như vậy Thần khí chính là sự hiệp thông sâu thẳm nhất giữa Cha và Con. Chức
năng của Thần Khí trong lịch sử cứu độ là nối kết tất cả và đưa tất cả vào Tình
Yêu Vĩnh Hằng là sự hiệp thông Ba Ngôi.
Mọi
tương quan nhân loại phải trở thành tương quan tình yêu, thì bấy giờ nhân loại
mới thực sự là nhân loại. Nhân loại chỉ thực sự trở nên chính mình nhờ Đức Kitô
và trong Chúa Thánh Thần.
Qua Giao Ước cứu độ, chúng
ta lại hiểu biết cụ thể hơn về Chúa Thánh Thần trong đời sống mình như sau:
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa xuất hiện như Đấng bảo vệ dân chống
lại kẻ thù, giải thoát dân khỏi những nguy hiểm và dẫn đến tự do. Thiên Chúa là
Thiên Chúa-vì-chúng ta.
Đến Tân Ước, Thiên Chúa đã mạc khải một chiều kích mới của
giao ước. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa được sinh hạ, lớn lên, sống ẩn dật, chịu
đau khổ và chết giống như ta. Thiên Chúa là Thiên
Chúa-ở-với chúng ta. Khi Chúa Giêsu về Trời, Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần.
Trong Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa mạc khải chiều sâu trọn vẹn của giao ước.
Thiên Chúa muốn gần gũi ta như hơi thở của ta. Ngài muốn hít thở trong ta, để tất
cả những gì ta nói năng, suy nghĩ và thực hiện hoàn toàn do sự linh hứng của
Chúa Thánh Thần.
Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nói về hơi thở của
Thiên Chúa đang hít thở trong ta. Thần Khí trong tiếng Hy lạp là pneuma (πνεύμα),
nghĩa là “hơi thở”. Thần Khí Thiên Chúa giống như hơi thở của ta, nghĩa thiết
thân với ta hơn cả ta thiết thân với chính mình. Chúa Thánh Thần làm nên nền tảng
“đời sống thiêng liêng” của ta, vì Ngài cầu nguyện trong ta, đem lại cho ta những
hoa trái của lòng yêu mến, tình thương tha thứ, những gì tốt lành, bình an và
vui mừng. Thánh Thần tình yêu sống động ở trong ta là như vậy. Chính Ngài ban cho ta sự sống mà cái chết không thể
hủy diệt.
Những ai sống đời cầu nguyện luôn sẵn sàng đón nhận “hơi thở” của Thiên Chúa, để Ngài canh tân và mở rộng cuộc sống mình. Nhờ Thần Khí, ta có thể kêu lên Thiên Chúa khi cầu nguyện: “Abba!”, Cha ơi! Chính trong ý nghĩa này mà ta nhận ra cội nguồn sự sống và căn tính đích thực của mình là con cái Thiên Chúa. Chính từ nhãn giới này mà ta cảm nhận về thế giới này, và được mời gọi để nhìn thế giới như Thiên Chúa nhìn.
3. Đời sống trong Chúa Thánh Thần
Sống trong Chúa Thánh Thần đòi ta luôn ý thức về sự hiện diện sống động của
Ngài trong từng giây phút, từng biến chuyển bên trong cũng như bên ngoài mình. Sống
trong Chúa Thánh Thần thì phải luôn đặt mình dưới sự soi sáng và thúc đẩy của
Ngài, dám nương theo và buông mình theo sự lôi cuốn của Ngài. Ba phẩm tính thâm
sâu và huyền diệu của Thánh Thần là chuẩn mực lý tưởng để ta định hướng và hiện
thực hóa đời mình trong tương quan với Thiên Chúa, tha nhân và chính mình.
a. Sống xuất thần: ra khỏi mình, hướng tới, gặp gỡ, hòa hợp.
Đời sống trong Thánh Thần là do Thánh Thần làm nên, nhưng
đòi ta phải có tâm hồn mềm mại để Ngài làm nên. Xuất thần ở đây không phải là
sự ngất ngây mơ hồ nào đó, mà là nhằm đến một thái độ sống tích cực, hoàn toàn
mở ra cho Thánh Thần hành động:
- Ra khỏi mình: là biết thắng vượt những
chướng ngại do lòng ích kỷ gây ra; đừng quá nặng
lòng với những lo toan tính toán lợi lộc cho bản thân mình; đừng kềm giữ mình trong
cái nhìn thành kiến hay mặc cảm; đừng chặng đứng mình trước những hoàn cảnh khó
khăn hay tâm địa xấu xa của người khác; đừng quay quắt với những buồn thương
hay thất bại. Hãy cho mình được tự do thanh thoát để ra khỏi mình. Lúc đó, ta mới
có niềm vui đích thực: niềm vui được lớn lên và tìm gặp lại bản thân mỗi ngày phong phú hơn.
- Hướng tới: ra khỏi mình để hướng tới Thiên Chúa và tha nhân cách trọn vẹn hơn. Cuộc
sống là một hành trình hướng tới để triển nở và hoàn thiện chính mình trong định
hướng của Thiên Chúa. Thiên Chúa là khởi điểm
vừa là đích điểm, tha nhân là tâm điểm, và bản thân ta là giao điểm. Sự hướng tới đòi ta bắt đầu từ
chính Chúa, gắn liền với tâm điểm và đích điểm của đời mình trong sự liên kết. Sự
hướng tới cho thấy rằng, kho tàng của ta ở đâu thì lòng trí ta hướng về
nơi đó
(x. Mt 6,21). Điều này giúp ta dám coi nhẹ những điều thuộc trần gian, để
tâm hồn được luôn hướng về Chúa trong bình an.
- Gặp gỡ: khi đã ra khỏi mình và
hướng tới, nghĩa là không còn nặng lòng với danh, lợi, sắc; không còn cản trở bởi tham, sân, si, hay bất kỳ điều gì không thuộc về Chúa. Nhờ vậy, ta
mới có thể gặp Chúa trong sâu thẳm lòng mình và trong mọi người, mọi việc. Câu chuyện sau đây cho ta hiểu được ý nghĩa trên[4]:
“Có một
vị ẩn sĩ khao khát được thấy Chúa, nhưng không bao giờ được toại nguyện. Vẫn còn
có một cái gì vướng mắc trong cái nhìn khiến ông không thể thấy Chúa được. Càng
cố gắng đọc kinh cầu nguyện, càng ăn chay hãm mình, ông càng thất vọng. Ông vẫn
không biết đâu là chướng ngại khiến ông không thể thấy Chúa.
Thế rồi một buổi sáng nọ, ông
bỗng reo hò sung sướng vì đã tìm được lý do: đó là một cái tách nhỏ rất đẹp, là
kỷ niệm duy nhất của gia đình mà ông cố gắng gìn giữ như một báu vật. Đây cũng là
của cải duy nhất mà vị ẩn sĩ còn bám víu vào. Không một chút do dự luyến tiếc, vị
ẩn sĩ cầm lấy chiếc tách thân yêu ném xuống nền nhà. Từng mảnh vụn vỡ ra, từng luyến
tiếc tan vỡ. Vị ẩn sĩ ngước nhìn lên và sáng hôm đó là lần đầu tiên ông đã nhìn
thấy Chúa”.
- Hòa hợp: là đỉnh cao của việc gặp gỡ, là
niềm vui sâu xa vì được sống với Chúa và với nhau trong tình yêu. Chỉ có sự hòa
hợp hoàn toàn khi không còn ham muốn theo ý riêng, để sống theo ý Chúa trong mọi
hoàn cảnh. Từ sự hòa hợp với Chúa ngay trong lòng mình, ta mới có thể đi vào sự
hòa hợp với mọi người, không còn chấp mê trước những hình thức, tiểu tiết và
cách thế bên ngoài. Sự bình an nội tâm và hạnh phúc chân thực hệ tại mức độ của
sự hòa hợp từ chính tâm hồn ta.
b.
Sống tự hạ: khiêm nhu, quên mình, phục vụ, hiện hữu
cho.
Để sống tự hạ theo cách thức của Thánh Thần, ta hãy để cho mình
chìm sâu vào trong Ngài bằng tâm tình “tự hủy”, “tự hiến” của Đức
Giêsu. Tâm tình này khiến ta thực sự muốn quên
mình, xóa bỏ mình trước Thiên Chúa và tha nhân, không còn quan trọng hóa bản
thân mình, ý riêng mình, và những gì là của mình.
Thật ra, thân phận ta
cũng chỉ là bèo bọt hư không, cát bụi hư vô, chẳng cao cả gì để nói hai
tiếng “tự hạ”. Nhưng rồi do tham vọng
và ảo tưởng về chính mình, nên ta thường tự mãn, thích tự cao, hay đánh bóng bản
thân nên dễ đánh mất sự thật về mình. Tuy ơn cứu độ đã nâng ta lên, thần hóa ta, nhưng bản thân ta luôn dễ bị
tục hóa. Vì thế cần đặt mình trong
tâm tình “tự hủy” để phục vụ mọi
người như Đức Giêsu, để sẵn sàng làm tất cả những gì Thánh Thần thúc đẩy hầu
mang lại an vui và hạnh phúc cho mọi người.
Đời mỗi người chúng ta là
một hiện hữu cho, vì mọi sự nơi ta đều
được lãnh nhận từ Thiên Chúa cách nhưng không, nên phải cho đi cách nhưng không
(x. Mt 10,8). Thánh Thần là quà tặng được trao ban cho ta, để trong Ngài ta trở
nên quà tặng được trao ban cho người khác. Quà tặng đầu tiên cần trao ban là một
đời sống thánh thiện, làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, bằng
cách hiến dâng chính mình không hạn chế cho Thiên Chúa và cho tha nhân.
c. Sống kết hợp: yêu thương, hiệp thông, hiệp nhất, nên một.
Sống kết hợp là đỉnh cao của yêu thương, hiệp thông, làm nên
sự hiệp nhất. Tuy nhiên, chính “cái tôi” lại luôn tạo nên khoảng cách, tách rời
chính mình với Thiên Chúa. Vì thế, chỉ có sự “tự hủy” nhờ Thánh Thần làm nên
trong ta, mới giúp ta đạt tới sự kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa, và trong Thiên
Chúa, ta mới có khả năng sống kết hợp với mọi người trong tình yêu của Ngài.
Cần phải xóa bỏ “cái tôi” bề ngoài
của mình thì “Cái Tôi” đích thực của ta trong Chúa mới hiển hiện. Đây chính là
kinh nghiệm về trạng thái kết hợp với Chúa của thánh Phaolô: “Tôi sống
nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Khi không còn lo thể hiện “cái tôi” riêng tư của mình nữa, ta mới lo thể hiện ý
Chúa, để Ngài sống và hành động trong ta.
Trong sự kết hiệp với Thiên Chúa, ngụ ngôn sau đây trong
Ấn Độ giáo có một ý nghĩa sâu xa:
Xưa có một linh hồn tu
nhiều kiếp đến gõ cửa Thiên Đàng. Thượng Đế hỏi:
- Ai đó?
- Linh hồn trả lời: Con.
- Thượng Đế hỏi lại: Con là ai?
- Linh hồn đáp:
Con là con.
- Thượng Đế nói: Ở đây không đủ chỗ cho Ta và con
cùng ở, con hãy đi nơi khác!
- Linh hồn ấy trở lại trần
gian tu luyện thêm 1000 năm nữa, sau đó lên trời gõ cửa lại. Thượng Đế hỏi: Ai đó?
- Linh hồn trả lời: Con.
- Thượng Đế hỏi lại: Con là ai?
- Linh hồn đáp:
Con là Ngài.
- Thế là cửa Thiên Đàng mở ra cho linh hồn ấy
vào.
Dụ ngôn
trên dưới cái nhìn của Kitô giáo, muốn nhấn mạnh rằng: để kết hợp với Thiên
Chúa, con người phải xóa mình đi, đừng quan trọng hóa bản thân mình nữa. Lúc
ấy, “cái tôi” bên ngoài như bị mất cái vỏ che chắn, chỉ còn cái cốt tủy bên
trong là chính sự hiện diện của Thiên Chúa, làm nên “cái tôi” đích thực của
mình.
Đối với tha
nhân cũng thế, khi ta đã xóa mình hoàn toàn, thì tự động ta có khả năng nối kết
tất cả mọi người trong sự kết hợp hài hòa, để đưa tất cả vào tình yêu của Chúa
Ba Ngôi. Chính thánh Inhaxiô đã mạnh mẽ khẳng định rằng: dấu chỉ đích thực của mức trưởng thành thiêng liêng không phải là kinh
nguyện thể thức, cũng chẳng phải là cầu nguyện chiêm niệm, nhưng là từ bỏ chính
mình (x. LT 189). Thánh nhân hiểu từ
bỏ chính mình trước hết là hớn hở tiếp nhận những nhọc nhằn và thử thách,
vì tùng phục cũng như vì bác ái, để nói lên lòng yêu mến đối với Thiên Chúa và
tha nhân.
Cũng vậy, tiêu đích của Linh Thao không phải là mức hoàn thiện
trong cầu nguyện, nhưng là nỗ lực để trả lại tự do cho bản ngã bằng cách giải
phóng nó khỏi những khuynh hướng ích kỷ của cái tôi, để tìm gặp ý Chúa (x. LT
1). Có những chỗ khác, thánh Inhaxiô chỉ
đơn giản nói rằng, chủ đích của Linh Thao là cuộc chinh phục chính mình (x. LT
21). Đó là điều làm cho cầu nguyện nên dễ dàng và mọi hành động của ta trở thành
trạng thái kết hợp với Chúa.
4.
Những đặc điểm nơi con người của Thánh Thần
Kitô hữu là con người của Thánh Thần, nhưng đó là một tiến trình rộng mở
suốt đời. Trong tiến trình này luôn có những cám dỗ bên trong và lôi kéo bên
ngoài khiến ta lạc bước, dễ suy thoái và trở lại với kiểu “sống tự nhiên không có Thần Khí” (Gd 1,19). Cần kiểm tâm và phân định
từng ngày để được làm mới lại trong Thánh Thần. Con người của Thánh Thần có những
đặc điểm sau:
a.
Là con người tự do (x. 2Cr 3,
17)
Vì đã để cho Thánh Thần hướng dẫn (x. Gl 5,18), nên con người được giải thoát khỏi chính mình, trở thành con cái tự do của
Thiên Chúa. Khi đó, luật của Thiên Chúa chính là luật của tình yêu và tự do. Tự
do vì không còn bị chế ngự bởi các đam mê của xác thịt (x. Gl 5,16); không còn
nô lệ tội lỗi, không còn bị ràng buộc bởi những chuyện phù phiếm và lối sống trần
tục, để sống “công chính, bình an và hoan
lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Cuộc đời như vậy giống bức thư của Chúa
Kitô viết bằng mực Thần Khí, gửi đến những người chung quanh (x. 2Cr 3, 3).
b.
Là người có não trạng thiêng liêng (x. Rm 8,5; 1Cr 10,15)
Người
của Thánh Thần thường nghĩ đến những thực tại thần thiêng (x. Cl 3,1-4): thích những
điều thuộc về Thiên Chúa, ham mê đọc Thánh Kinh để đào luyện bản thân, biết lắng
nghe Lời, đón nhận Lời và thực thi Lời, vì người ấy đã trưởng thành trong Đức
Kitô (x. Dt 5,13-14). Chính Thánh Thần luôn soi sáng mở lòng, khiến tâm hồn dễ
nhạy cảm với những giá trị thiêng liêng, với ý muốn của Thiên
Chúa. Trong hướng này, người của Thánh Thần luôn đặt trọng
tâm là tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hết (x. Mt 6,33) và mọi thứ khác thành phụ
thuộc, và việc chủ yếu là tìm cách loan báo Đức Kitô và trở nên chứng tá Tin Mừng
(x.1Cr 9,16).
c. Là người nhiệt tình dấn thân phục vụ (1Cr 12,4-11)
Phục
vụ là thái độ nền tảng chi phối toàn bộ cuộc sống của con người thuộc về Thánh
Thần, Đấng tự hiến cho sự kết hợp yêu thương giữa Chúa Cha và Chúa Con, cũng
như kết hợp mọi người trong Thiên Chúa. Phục vụ cũng là một lựa chọn cơ bản và
là mục tiêu để sống cho Thiên Chúa và tha nhân như Đức Kitô, Đấng trao ban Thần
Khí của Ngài cho chúng ta (x. Mt 20,28). Sự phục vụ trong Thánh Thần chủ yếu là
xây dựng nhiệm thể Đức Kitô (x. Ep 4,12), tất cả đều phải nhằm vào việc xây dựng
Hội Thánh (x. 1Cr 14,26), không như những hình thức phục vụ khác của thế gian
(x. Mt 20,24-28). Sự phục vụ theo Thánh Thần là:
-
Phục vụ trong tinh thần hiệp nhất: người của Thánh Thần luôn cảnh giác tối
đa trước những hành vi và lời nói của mình cũng như của tha nhân, để tránh sự
phân rẽ hay phân hóa trong nội bộ Hội Thánh. Mọi tranh chấp, bất hòa, chia rẽ đều
do sự xúi giục của ma quỉ mà ra. Vì thế người của Thánh Thần luôn “theo đuổi những gì đem lại bình an và những
gì xây dựng cho nhau.” (Rm 14,19).
-
Phục vụ vô vị lợi vì
lòng mến: Thánh Thần là ngôi vị biểu lộ sự tự
hiến. Ngài luôn thúc giục ta phục vụ vì lòng mến, không đòi hỏi, không chờ đợi
đáp trả, không lo sợ thiệt thòi, không khép lại trước một vô ơn, không chán nản
trước một lãnh đạm, “vui lòng phục vụ như
thể phục vụ Chúa chứ không phải người ta” (Ep 6,7).
-
Phục vụ khiêm tốn và âm thầm: Thánh
Thần được ví như chiều sâu của Thiên Chúa, nên không chấp nhận việc phô trương
bề mặt, không thích kiểu bày tỏ bản thân qua những việc tốt lành. Ngài luôn ẩn
mặt mà vẫn hoạt động thâm sâu nơi mỗi người cách âm thầm, nhẹ nhàng, không áp đặt.
Phục vụ là thái độ của người tôi tớ chứ không phải tính cách của kẻ cả, nên
luôn nhận mình “là đầy tớ vô dụng, chỉ
làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
-
Phục vụ trong tinh thần từ bỏ: từ
bỏ là điều kiện tiên quyết của người môn đệ Đức Kitô, và cũng là tiêu điểm cuối
cùng để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài (x. Mc 10,45). Không thể phục vụ
theo cảm tính hay sở thích cá nhân, vì như vậy là phục vụ cách tùy tiện và ngẫu
hứng. Cũng không thể phục vụ với tính cách bài bác, phê phán, chống chõi, đòi
được theo ý mình. Nói thế không có nghĩa là không góp ý xây dựng, không bộc lộ
quan điểm đúng đắn, không đánh giá và xét lại… Nhưng điều quan trọng là biết
mình phải từ bỏ những gì để Thánh Thần có thể đem lại sức sống mới cho bản thân
và cộng đoàn.
Phục vụ trong tinh thần
từ bỏ cũng là phục vụ trong sự nghèo khó như Chúa Giêsu (Lc 9, 58), Đấng đã chọn con
đường thập giá. Bản thân Ngài cương quyết từ chối con đường thành công, quyền lực,
ảnh hưởng và thế lực. Ngài chọn con đường thấp kém, hèn mọn, xem ra bất lực, là
con đường của những người nghèo khổ. Đặc điểm rất riêng nơi người của Thánh Thần
là con người nghèo khó: chọn sự thất thế chứ không phải quyền thế; chọn
việc bị coi thường chứ không phải sự nổi tiếng; chọn sự sinh hoa kết trái âm thầm,
chứ không phải những lời tán dương ca ngợi, chỉ để Thiên Chúa được nhận biết và
yêu mến.
e.
Là người mang hoa trái của Thánh Thần (Gl 5, 22-23)
Như nhựa sống trong thân cây mang lại hoa
quả đúng mùa, Thánh Thần hoạt động trong tâm hồn Kitô hữu cũng mang đến những mùa
gặt thiêng liêng với nhiều hoa trái thánh thiện. Hoa trái đó là: “bác ái,
hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ”. Chúng ta cần đi vào chiều sâu nội dung của từng từ
ngữ này:
-
Bác ái (agape): là lòng nhân từ
không lay chuyển; là tình yêu thương cho đến cùng; luôn làm những điều tốt lành
cho người khác, dù họ có đối xử tệ bạc hoặc làm tổn thương ta. Đó là tình yêu
đem đến tự do và sức mạnh, có thể hàn gắn và chữa lành mọi vết thương. Đó chính
là tình yêu của Thánh Thần thể hiện nơi ta, để sự yếu đuối trong ta trở nên mạnh
mẽ; sự nghèo khó của ta trở nên giàu có; tính hay thay đổi của ta trở nên kiên
định; tính hèn nhát nơi ta trở nên can đảm…
-
Hoan lạc (chara): từ này trong tiếng Hy Lạp dùng để diễn tả niềm vui sâu xa trong Chúa (Tv
30,11; Rm 14,17; 15,13). Đó là niềm vui được sống kết
hợp với Thiên Chúa, hòa hợp với
bản thân, tương hợp với tha nhân, dung hợp với thiên nhiên. Đó là
sự sống tươi mới từng ngày bừng lên trong tâm hồn do Thánh Thần mang lại.
-
Bình an (eirene): từ này trong tiếng Hy Lạp chỉ sự an cư lạc nghiệp dưới một chế độ công
bình bác ái của một vị minh quân, vừa có nghĩa tương đương với chữ Shalom trong tiếng Do Thái: là đem lại tất
cả những gì lợi ích và tốt đẹp nhất cho con người. Đây là sự bình an của một tâm
hồn ý thức sâu xa rằng, cuộc đời mình ở trong tay Chúa. Có những đau thương và
những tối tăm trong cuộc đời, nhưng trong Thánh Thần, linh hồn vẫn sống bình an,
vì đã tin tưởng và phó thác mọi sự cho Chúa. Đó chính là sự bình an mà Chúa Giêsu
trao ban cho các môn đệ ngày phục sinh, và hôm nay cho những ai sống trong Thần
Khí của Ngài.
-
Nhẫn nhục (makrothumia): Trong
1Macabêô 8,4 cho thấy nhẫn nhục là sự
chiến thắng của tinh thần ngay trong thất bại, không bao giờ chịu khuất phục hoặc
thất chí nản lòng trước mọi gian nan khốn khó. Tân Ước cũng đã nhiều lần dùng từ
nhẫn nhục này để chỉ tấm lòng của
Thiên Chúa đối với chúng ta (x. Rm 2,4; 9,22; 1Tm 1,18; 1Pr 3,20). Chính qua sự
nhẫn nhục này mà ta thấy được nội lực thâm sâu của một con người chân chính, nhờ
vào sức mạnh của Thánh Linh.
-
Nhân hậu
(chrestoter): từ này được dùng trong Tân
Ước thường được dịch là hiền lành hay
ngọt ngào (x. Tt 3,4; Rm 2,4). Rượu lâu
năm được gọi là chrestos: ngọt dịu. Ách
của Đức Kitô được gọi là chrestos (Mt
11,30). Những ai mang hoa trái của Thánh
Thần cũng nhân hậu ngọt ngào như Đức Kitô.
-
Từ tâm (agathosune): Thánh Phaolô dùng từ này chỉ có trong
Thánh Kinh chứ không có trong Hy văn (x. Rm 15,14; Ep 5,9; 2Tx 1,11). Từ agathosune chỉ sự tốt lành, nhưng mang
tính sửa dạy và đưa con người vào sự đúng đắn, chẳng hạn trường hợp Chúa Giêsu
thanh tẩy đền thờ. Kitô hữu là người có tâm tính tốt lành, nhưng cũng mạnh mẽ
chứ không yếu nhược trước những sai lệch của đời sống con người.
-
Trung tín: là một lòng một
dạ không thay đổi. Từ ngữ này được dùng rất nhiều trong Kinh Thánh, để chỉ trước
tiên đến Thiên Chúa “là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời” (Tv 146, 6). Người sống
trung tín là người thể hiện được tấm lòng cao cả của Thiên Chúa.
-
Hiền hòa (praotes): từ này có ba
nghĩa:
+ Tuân
phục ý Chúa (x. Mt 5,5; 11,29; 21,5).
+ Dễ
dạy, biết tự hạ để học hỏi (x. Gc 1,21).
+ Là người thông hiểu, khôn
khéo (x. 1Cr 4,21; 2Cr 10,1).
Hiền hòa theo nghĩa Thánh Kinh là phẩm hạnh cao quí mà chỉ Chúa
mới có thể ban cho.
- Tiết độ (egkrateia): Platon
thường dùng từ này với nghĩa “tự chủ”, làm chủ mọi ước vọng và đam mê thể chất
(x. 1Cr 7,9); có kỹ luật bản thân (x. 1Cr 9,25), không chạy theo sở thích.
Nhiều chỗ khác trong Tân Ước cũng nói tới hoa quả công chính
và thánh thiện mà đời sống trong Thánh Thần mang lại (x. Ga 15,2; Ep 5,9; Pl
1,11; Gc 3,17; Cl 3,12).
Thánh Phaolô cho thấy Kitô hữu là người đã chết với Chúa Kitô,
và đã sống lại với sự sống mới tinh sạch, không còn những thói hư tật xấu của
con người cũ. Tâm hồn họ đã trở thành vùng đất tốt để các hoa trái của Thánh Thần
phát sinh dồi dào.
Dựa trên đức tin, Lời Chúa và Bí tích
thì Kitô hữu đã là người của Thánh Thần, nhưng thực tế vẫn chưa, vì tội lỗi và
hoạt động của ma quỉ vẫn còn xâm nhập dưới mọi hình thức, nên còn phải phấn đấu
và vươn lên mỗi ngày cho đến suốt đời.
Kết luận
Mỗi ngày sống, mỗi biến cố, cần đặt
mình lại trong Chúa Thánh Thần, là Đấng đang hiện diện trong tâm hồn ta; là Đấng
đang điều khiển Giáo Hội và canh tân đời sống nhân loại; là Đấng đang làm nên trời
mới đất mới, đang điều hướng con người và vũ trụ qui tụ về nguồn sống vĩnh hằng
là chính Đức Kitô, cho Thiên Chúa.
Cần tha thiết đặt mình trong Chúa
Thánh Thần để lắng nghe được tiếng thì thầm của Ngài; để được thấy mọi cái
trong ánh sáng của Ngài; để hiểu được ước muốn và hành động của Ngài; để cảm nhận
tình yêu và sức sống của Ngài đang tràn dâng trong tâm hồn; để ta được sống trọn
vẹn mọi giây phút của đời mình trong Ngài, hầu trở nên con người đích thực của
Ngài, mang lại hoa trái thiêng liêng phong phú cho cuộc sống hôm nay mà Thiên
Chúa đang mong đợi nơi mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa là Thần Khí, là Sự
Sống và là Tình Yêu!
Xin cho con được ở trong
Ngài,
Để con sống vì tình yêu, để
con yêu vì cuộc sống.
Biết yêu những gì tốt đẹp,
biết ghét những điều xấu xa.
Xin cho con biết đưa tình
yêu vào cuộc sống,
Biết đưa cuộc sống vào tình
yêu.
Để từng giây phút con yêu,
làm nên cuộc đời con sống,
Hòa nhập cả hai nên một: sống
là yêu, yêu là sống.
Xin cho con lắng nghe Ngài
trong từng ngày con sống, từng lời con nói, từng việc con làm, từng điều con thực
hiện.
Xin cho con luôn sống theo
từng tác động của tình yêu Chúa, không làm gì mà không phải bởi tình yêu, để
Chúa luôn sống động trong con, và con luôn sống động trong Chúa. Amen.
[1] GM Phaolô Bùi Văn Đọc Suy tư thần học về Chúa Thánh Thần, chương VII.
[2] Basile, De spiritu S. 18, 45.
[3] Grégoire de Nysse, Quod non sint tres dii, P.G 45.129.
[4] Thánh Phanxicô Assisi, nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết “Người nghèo của Thiên Chúa” do văn sĩ Hy lạp Nikos Kasantzakis biên soạn.