MÙA VỌNG CỦA THIÊN CHÚA VÀ CON NGƯỜI
Mùa vọng là thời gian mong chờ Chúa đến,
nhưng đừng quên Chúa là Đấng đã chờ đợi ta trước khi ta chờ đợi Ngài; Đấng đã
hy vọng về ta, để nhờ đó ta biết hy vọng vào Ngài. Mọi sự đều là sáng kiến và
khởi đầu của Thiên Chúa, Đấng quyền năng vô biên và yêu thương ta vô bờ. Quyền
năng và tình yêu Ngài là sự bảo đảm duy nhất cho niềm hy vọng của chúng ta.
Ngoài Chúa ra, mọi hy vọng vào trần thế này hay bất cứ thần tượng nào cũng sẽ
là vô vọng.
I. MÙA VỌNG : THIÊN
CHÚA HY VỌNG VỀ CON NGƯỜI.
1. Do hy vọng và cho hy vọng
Do hy vọng, Thiên Chúa đã tác
sinh con người giống hình ảnh Ngài, cho họ bước vào vận hành sự sống của chính
Ngài.
Cho hy vọng, Thiên Chúa đã không
ngừng hứa hẹn và kết ước yêu thương với loài người, dù cho họ có ngàn lần sa
ngã lỗi phạm và xa bỏ Ngài.
- Ngay từ Cựu
Ước, Thiên Chúa đã phán qua tiên tri Ezekiel : “Ta không muốn kẻ gian ác
phải chết, nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống”.
- Qua dân
Vì vậy, Mùa Vọng là mùa qua đó Giáo Hội
muốn khắc họa rõ hơn dung mạo của Thiên Chúa: Đấng đã hy vọng về con người qua
lịch sử dân Chúa; Đấng vẫn hy vọng về con người trong lịch sử Giáo Hội; và Đấng
mãi hy vọng về con người trong chính cảnh huống cụ thể của từng đời người.
Dung mạo Thiên Chúa ấy được thể hiện nơi
Đức Kitô Đấng đã đến viếng thăm nhân loại lần thứ nhất trong mầu nhiệm Nhập
Thể. Ngài đã đến cách lặng lẻ và sống âm thầm giữa mọi người, đã đảm nhận lấy
thân phận con người cho đến tột cùng bằng cái chết để rồi Phục Sinh mở ra con
đường cứu độ cho những kẻ tin. Và Ngài hứa sẽ đến lần thứ hai vào ngày cánh
chung, để đặt mỗi người đối diện với chính Ngài như chuẩn mực phân chia đôi bờ
thiện ác, và đặt mỗi người đối diện với chính mình như trách nhiệm cuối cùng
đối với ơn cứu rỗi. Ngày đó là ngày thiết lập công bình tuyệt đối, nên: “Thiện
ác đối đầu chung hữu báo”.
Lần thứ nhất do hy vọng, Chúa đến
gieo mầm cứu rỗi. Lần thứ hai cho hy vọng, Người đến thu hoa lợi từ
những gì đã gieo. Tuy nhiên, giữa hai lần đến chính thức ấy thì Đức Kitô vẫn âm
thầm đến với chúng ta qua từng biến cố, từng con người, từng hoàn cảnh, từng sự
việc... Nhưng bất ngờ lớn nhất giữa những cái bất ngờ vẫn là giờ và cách Chúa
đến với mỗi cá nhân trong cảnh tranh sáng tranh tối của cuộc đời. Chúa đến bất
ngờ không phải để bắt chợt chúng ta, nhưng muốn thấy được tình yêu của chúng ta
đã triển nở và đang sinh hoa kết trái như lòng ước mong.
2. Thiên Chúa – Người Cha luôn hy vọng
về con cái
Việc Thiên Chúa hy vọng vào con người
được mạc khải rõ nhất qua dụ ngôn Người Cha nhân hậu (Lc 15,11-32). Thiên Chúa
qua hình ảnh người Cha chấp nhận cho con mình tự do ra đi, chấp nhận cho con
mình từ bỏ mình, để rồi từ đó trông ngóng, chờ mong và hy vọng không ngừng ngày
nó trở về… Khi đứa con ngông cuồng
dở sống dở chết trở về thì từ ở đàng xa người Cha đã thấy, ông vô cùng vui mừng
chạy ra đón con...
Quả thực, Thiên Chúa đã tự xóa mình trước
con người. Ngài là Đấng quyền năng vô biên, nhưng cũng là Đấng khiêm hạ vô
ngần. Hy vọng có một danh xưng khác là sự khiêm hạ. Jean Tauler cho
biết: “Sự khiêm hạ là nhân đức ẩn tàng nơi sự sâu thẳm của Thiên Chúa”.
Mặc dù là Thiên Chúa
toàn năng, nhưng Ngài không muốn chiếm giữ hay chiếm hữu tình yêu của con người
nếu họ không muốn. R. Tagore đã nghiệm ra chân lý này, và ông diễn đạt lời của
Đấng Toàn Năng như sau: “Ta
yêu người và xin người cho lại một tấm tình. Chúng ta khao khát tình yêu, vì cả
hai cùng thiếu thốn. Ta là Tạo hóa, có thể tạo ra tất cả, trừ tình yêu tự
nguyện, tình yêu tận hiến”.
Đó
không phải là điều mà Chúa Giêsu nói lên trên Thập giá sao? “TA KHÁT”. Khát
điều gì? Chẳng lẽ Ngài khát một chút nước trước khi chết? Cái khát tận cùng đó
không gì khác hơn là khát tình yêu của con người.
Do
đâu mà chúng ta có thể nói về niềm hy vọng của Thiên Chúa về con người? Thưa do
tình yêu vô hạn của Thiên Chúa là Cha. Trong tiếng Dothái, có hai từ để chỉ
tình yêu của Thiên Chúa: Hesed và Rachamim.
- Hesed nói lên một tình yêu có màu sắc nam
tính, cho thấy một Thiên Chúa uy dũng và tín thành, là sự bảo đảm cho ta.
- Rachamim được Cựu Ước sử dụng, có nghĩa đen là “lòng dạ
người mẹ”, nói lên một tình yêu có màu sắc nữ tính: tình yêu của một người mẹ,
không phải vì công trạng nào của con, nhưng chỉ vì nó là con mình (x. Is
49,14-16 ; 63,16 ; Gr 31,20 ; Tv 131). Tình yêu phát xuất từ lòng dạ người mẹ
là một tình yêu đầy lòng trắc ẩn (compassion). Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn nên
hằng chờ mong và hy vọng nơi con cái mình. Ngài yêu thương như một người mẹ,
bằng một tình yêu nhưng không, một tình yêu trung tín dù con người bất tín bất
trung.
Dù mọi người đã hoàn toàn thất vọng về ta, và dù chính ta
cũng đã thất vọng về mình, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn hy vọng vào ta. Chính tình
yêu vô biên của Thiên Chúa làm cho Ngài hy vọng về chúng ta, và rồi cũng chính
tình yêu đó mà Ngài cho chúng ta hy vọng vào Ngài. Chính vì lạ lùng trước một
Thiên Chúa hy vọng về con người, khiến con người hy vọng vào Thiên Chúa.
II. MÙA
VỌNG : CON NGƯỜI HY VỌNG VÀO THIÊN CHÚA
1.
Tỉnh thức trong hy vọng
Tỉnh
thức trong hy vọng là nhận thức rằng đời mình có một Thiên Chúa là Cha yêu
thương chí tình, nên đời mình có một vận mệnh tương lai sáng ngời. Nếu dụ ngôn
người Cha nhân lành cho thấy Thiên Chúa hy vọng về con người, thì cũng chính dụ
ngôn ấy cho thấy con người hy vọng vào Thiên Chúa. Tiếc thay, đứa con quay về
trước tiên không phải vì yêu thương Cha nó, mà chỉ vì đói rách, khốn cùng, nhục
nhã, tuyệt vọng trước thế thái nhân tình, và nhất là đứng trước một tương lai
bế tắc không lối thoát. Dù vậy người Cha vẫn vui mừng khôn tả để đón nhận con
mình, vì nó là con, thế thôi.
Ngạo
nghễ thay khi đứng trước ngưỡng cửa của văn minh tiến bộ của thế kỷ 19, với
nhiều thành tựu khoa học và kỹ thuật lớn lao, người ta đã trương ra khẩu hiệu: “Con
người là tương lai của con người’’. Điều này có nghĩa là con người bất
cần đến Thiên Chúa, hay chẳng có Thiên Chúa nào khác ngoài chính con người là
chủ vận mệnh tương lai của mình. Nhưng tương lai ngay sau đó là gì? Thưa là hai
cuộc thế chiến đẩm máu, đem lại tang thương khốn cùng và để lại những hậu quả
thảm khốc trên đời sống con người.
Chỉ
hy vọng vào con người thôi là sự hão huyền trên mọi hão huyền. Nói như thế
không phải ta thất vọng về con người, nhưng phải nhận ra sự giới hạn của khả
năng con người và lòng người, để đừng rơi vào ảo tưởng. Chẳng ai và chẳng có cơ
cấu hay chế độ nào có thể bảo đảm tương lai cho loài người ngoài một mình Thiên
Chúa. Đó là kinh nghiệm của nhân loại trong nhiều sự kiện lịch sử của xã hội
cũng như cá nhân. Thánh Kinh cũng cho thấy: “Không gì nham hiểm và bất trị
như lòng người, ai dò thấu được?” (Gr 17, 9).
Trong
Thánh Kinh, sự kiện sụp đổ tháp Babel cũng chính là biểu tượng sụp đổ niềm hy
vọng của con người vào con người mà không cần đến Thiên Chúa. Đó cũng là kinh
nghiệm sống chết của người con hoang đàng trước tình cảnh bi đát bị đồng loại
bỏ rơi, đến nỗi muốn ăn chút cám heo thừa thãi mà người khác cũng không cho.
Kết
cục chỉ có một mình “Thiên Chúa là tương lai của con người”. Theo
nghĩa này, đúng là những ai không biết đến Thiên Chúa, cho dù người ấy có bao
thứ hy vọng, thì cuối cùng cũng chỉ là vô vọng (x. Ep 2,12). Niềm hy vọng
vững vàng, bất chấp mọi thất vọng chỉ có thể là Thiên Chúa – Đấng đã yêu thương
chúng ta và yêu thương “đến cùng” (x Ga 13:1; 19, 30). Chỉ tình yêu Ngài mới
ban cho chúng ta khả năng kiên vững ngày qua ngày, mà không đánh mất đi nhiệt
tình của niềm hy vọng trong một thế giới không hoàn thiện tự bản chất [Đức Bênêđictô, Thông Điệp Spe
Salvi, số 27].
Chỉ
tình yêu của Thiên Chúa mới bảo đảm cho sự hiện hữu đích thực, là sự sống “viên
mãn” mà ta vẫn trông đợi. Dù con đường chúng ta đi hôm nay phải ù qua bao thung
lũng âm u, thì vẫn là con đường hy vọng. Niềm hy vọng vào Thiên Chúa cho ta
vượt vượt qua mọi biên giới của sự thất vọng.
2.
Ba tiêu chí để sống niềm hy vọng
“Người
hy vọng là người cầu nguyện. Đối tượng của cầu nguyện cũng là đối tượng của
niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa. Ngài tìm gọi họ để
hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài” (ĐHV
964). Để sống niềm hy vọng vững vàng vào Thiên Chúa, trong Thông điệp Spe
Salvi, Đức Bênêđictô đưa ra ba tiêu chí: Cầu nguyện; dám dấn thân và chịu
đau khổ; hướng đến cuộc phán xét.
- Cầu
nguyện như trường học của niềm hy vọng. Con người đã được dựng nên cho
Thiên Chúa, nhưng tâm hồn con người lại quá hẹp hòi, nhỏ bé để đón nhận Ngài.
Vì thế, cầu nguyện là tập mở rộng lòng mình ra với Thiên Chúa, và nhờ đó cũng
mở rộng lòng ra với đồng loại. Nhờ cầu nguyện, ta biết thanh luyện ước muốn và
hy vọng của mình. Cầu nguyện làm thức tỉnh lương tâm ta, cho ta khả năng xóa mờ
cái “tôi” ảo tưởng của mình, để có thể lắng nghe chính Chúa và vững tâm hy vọng
vào Ngài.
- Đau
khổ như những môi trường học hỏi hy vọng. Thánh Phêrô đã nói với chúng
ta: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng
bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ”
(1Pr 4, 13). Nhờ kết hợp với Đức Kitô trong đau khổ mà ta được tinh luyện để
sống đức tin trưởng thành hơn, góp phần làm cho thế giới này được tươi sáng và
nhân bản hơn. Đau khổ vì lòng yêu mến đem lại cho ta niềm hy vọng mạnh mẽ hơn.
- Hướng đến cuộc phán xét như phương cách sống
hy vọng. Từ thời xa xưa, viễn ảnh cuộc phán xét đã ảnh hưởng đến các
Kitô hữu trong cuộc sống hằng ngày. Họ coi cuộc phán xét như là tiêu chuẩn
để tổ chức lại đời sống hiện tại của mình; như một sự mời gọi hoán cải tâm hồn;
và như niềm hy vọng vào sự công bình của Thiên Chúa.
Như
vậy hy vọng vào Thiên Chúa là cách sống rất hiện sinh và cụ thể để làm đẹp cuộc
sống mỗi người hôm nay.
3.
Mẹ Maria - Ngôi sao hy vọng
Bằng
một thánh thi được viết vào khoảng Thế kỷ IX, Giáo Hội đã chào mừng Đức Maria,
Mẹ Thiên Chúa như “Ngôi sao biển”: Ave maris stella [Kính Chào Mẹ là Sao Bắc
Đẩu (Ave Maris Stella). Bài này được dùng trong Phụng Vụ Giờ Kinh Chiều II các
ngày lễ Đức Mẹ: Kính Chào Mẹ là Sao Bắc Đẩu, Đấng mệnh danh Hiền Mẫu Chúa
Trời. Chói lòa trinh khiết gương soi, Cửa vào cõi phúc tuyệt vời thiên cung…].
Cuộc
đời như hành trình trên đại dương lịch sử, lắm khi u tối và đầy bão táp, cần có
những ngôi sao đích thực dẫn đường cho cuộc đời ta. Chắc hẳn Đức Kitô là ánh
sáng chính danh, là mặt trời chính ngọ bừng sáng trên mọi bóng tối của lịch sử.
Nhưng để đi tới Ngài, chúng ta cần đến những điểm sáng gần gũi, là những người
đang phản ảnh ánh sáng của Đức Kitô, để giúp ta dễ định hướng cho lộ trình của
mình. Vậy ai có thể hơn Đức Maria, là ngôi sao hy vọng cho chúng ta.
Đức
Maria là con người tuyệt vời, vì đã sống niềm hy vọng tuyệt hảo. Mẹ tuyệt trần
vì đã tin vào lời hứa của Thiên Chúa tuyệt đối. Mẹ tuyệt mỹ vì đã được cưu mang
và sinh hạ Đấng là niềm hy vọng tuyệt luân của Israel và nhân loại.
Đẹp thay hình ảnh một Từ Mẫu đã vững vàng đứng dưới chân
thập giá của con mình, và đã trở thành Mẹ của những kẻ tin. Lưỡi gươm đâm thâu
qua trái tim Chúa Giêsu cũng là đâm thâu qua lòng Mẹ để niềm hy vọng cứu độ lan
tràn tới mọi tâm hồn. Niềm hy vọng đó đã đạt tới đích điểm là niềm vui Phục
Sinh của ngày thứ nhất trong tuần, để Mẹ thành Mẹ Thiên Chúa.
Đức
Maria quả thật là Ngôi sao hy vọng, là Mẹ của hy vọng, là mẫu mực của chúng ta,
những người gieo hy vọng vào đời sống nhân loại.
III.
SỐNG MÙA VỌNG, CHÚNG TA TRỞ NÊN NHỮNG NGƯỜI GIEO HY VỌNG
Đức
Hồng Y Px. Nguyễn Văn Thuận đã xác định như sau: “Người Kitô hữu là ánh sáng
giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, và là một hy vọng giữa một nhân loại
thất vọng”. (954). Chắc chắn câu này ngài họa lại lời Chúa Giêsu: “Chính
anh em là muối cho đời” (Mt 5, 13). “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 14).
Thánh Phaolô cũng đã
kêu gọi: “Giữa một thế hệ gian tà và sa đọa, anh em hãy chiếu sáng như những
vì sao trên vòm trời” (Pl 2, 15). Bởi vậy, “Không thể quan niệm được một
Kitô hữu mà không say mê đem niềm hy vọng ngập tràn thế giới.” (ĐHV 972).
Chị Chiara Lubich với kinh nghiệm nội
tâm, cũng nói với chúng ta rằng: “Với hy vọng, các bạn sẽ luôn luôn hạnh
phúc, và các bạn sẽ làm cho mọi người hạnh phúc”. Nên nhớ đây là kinh
nghiệm sống niềm hy vọng và rắc gieo niềm hy vọng, chứ không phải là hiểu biết
suông về niềm hy vọng. Chúng ta có thể hiểu biết rất nhiều khi nói về niềm hy
vọng, nhưng hiểu biết đó sẽ trở thành hư không, nếu nó không được kinh nghiệm,
cảm nghiệm, chứng nghiệm, để trở thành sức sống cho tâm hồn mình và cho mọi
người chung quanh.
Gieo hy vọng không chỉ là gieo tư tưởng
hay ý thức cho người khác, mà chính yếu là gieo hạt mầm sự sống cho một tâm
hồn, nên đòi hỏi hy sinh, quên mình. Câu chuyện ngắn sau đây của O Henry cho ta
thấy được tâm tình cao thượng và hy sinh cao cả của người gieo niềm hy vọng:
Có một nữ bệnh nhân chỉ còn biết đếm
ngày sống thoi thóp của mình bằng những chiếc lá rụng dần từ một cành cây nhìn
thấy qua khung cửa sổ. Đến khi trên cành chỉ còn chiếc lá duy nhất, thì cô nói
với người thân rằng: “Nếu đêm nay, chiếc lá cuối cùng không còn nữa, em sẽ
chết”. Niềm hy vọng của cô gái đang tắt dần, chỉ còn lại những giây phút
tuyệt vọng. Ở phòng trọ bên dưới có một họa sĩ tình cờ nghe được. Thế là nữa
đêm, giữa trời tuyết lạnh, người họa sĩ bắc thang leo lên vẽ một chiếc lá vàng
ở bức tường sát cành cây khô khi chiếc lá thật đã rụng xuống. Sáng hôm sau,
người bệnh thức giấc, vội nhìn ra ngoài, thấy chiếc lá vàng vẫn còn đó. Thế là
cô an tâm và bảo: “Em vẫn còn có thể sống thêm ngày nữa”.
Chiếc lá vàng được vẽ đã cứu mạng sống
người con gái đang thoi thóp chờ chết. Không biết cô còn sống thêm được bao
lâu, nhưng cô có ngờ đâu mạng sống của cô đã được đánh đổi bằng mạng sống của
người họa sĩ, vì anh ta đã bị lạnh cóng giữa trời đêm băng giá, và đã âm thầm
từ giã cõi đời.
Kitô hữu không phải là người vẽ lên cho
đời chiếc lá hy vọng sao? Vì chúng ta là hiện thân của Đấng là niềm hy vọng cho
sự sống bất diệt của nhân loại. Do đó, người gieo hy vọng không thể mang tính
cách nào khác ngoài tính cách của Đức Kitô: là con người dấn thân phục vụ và hy
sinh chính mình vì tha nhân.
Trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, chúng ta
hãy làm sáng lên niềm hy vọng cho thế giới hôm nay, một thế giới còn đang bị
bao phủ bởi bóng đêm sự chết.
Kìa! Đức Kitô đang đến, hãy ra đón
Người. (x.
Mt 25, 6)
Lm.
Thái Nguyên [gpcantho.com 07/12/2012]