ÁNH SÁNG CHO CUỘC ĐỜI
“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”
(Mt 5,14)
“Thiên Chúa là ánh sáng; nơi Ngài,
không có một chút bóng tối nào” (1Ga 1, 5). Thiên Chúa là Ánh Sáng có nghĩa Thiên Chúa là Chân Lý, là nguồn
Suối Mạc Khải, là nguồn ơn cứu độ, “là nguồn
mọi sự thánh thiện”[1].
Ðối ngược với ánh sáng là tối tăm, biểu tượng cho sự sai lầm,
sự dữ hay tội ác. Thế giới tối tăm là thế giới của sự chết, của thần dữ. Nơi
Thiên Chúa không có một chút bóng tối nào,
nghĩa là hoàn toàn rực rỡ và vinh hiển. Ngài là ánh sáng vô biên, siêu phàm, là
nguồn sáng của mọi ánh sáng, và là ánh sáng chiếu soi của sự sống muôn đời (x.
Kh 22,5).
Bản chất con người được xác định bởi bản chất của vị thần
mà họ tôn thờ. Những ai đón nhận Thiên Chúa thì để ánh sáng Ngài chiếu dọi lên toàn
thể cuộc sống mình, không còn những ngõ ngách tăm tối trong tâm hồn. Để mình ở
ngoài ánh sáng của Thiên Chúa, con người sẽ rơi vào tình trạng mê lầm và hỗn loạn,
đánh mất sự sống ngàn đời là chính Thiên Chúa, nên thánh Phaolô khuyên chúng ta
hãy vứt bỏ những việc làm tối tăm (x. Rm 13,2).
Theo sách Sáng
Thế, ánh sáng là nguyên tố cao siêu và đơn thuần nhất, được tạo dựng trước
tiên, là khởi điểm của trật tự giữa vùng hỗn mang và tăm tối (x. St 1,2-5). Ánh
sáng đã hiện thể hóa mọi sự và khai nguyên thế giới. Ánh sáng này không gắn liền
với mặt trời (ngày thứ tư mới có), và người Cận Đông coi ánh sáng là một thực tại
riêng biệt với mặt trời, mặt trăng: các tinh tú này chỉ là chỗ chứa đựng ánh
sáng.
Từ ánh sáng tiên
khởi, ánh sáng thiên nhiên đã được làm nên (x. St 1, 14-19). Ánh sáng là yếu tố
tối cần cho đời sống nhân loại, không có ánh sáng thì không thể có sự sống. Ánh
sáng là nền tảng cho mọi diễn biến và chuyển động của thiên nhiên. Ánh sáng soi
đường chỉ lối và làm rạng rỡ lên toàn thể vạn vật, tạo nên sắc màu cho mọi cảnh
vật, làm nên sinh hoạt cho mọi sinh vật, làm triển nở cho mọi tạo vật. Không có
gì trong vũ trụ này mà không cần tới ánh sáng.
Ánh sáng xác định
sự hiện hữu và hình thái của mọi sự vật, sinh vật và con người. Ánh sáng cho thấy
ý nghĩa và giá trị của từng môi trường và mọi hoạt động nhân sinh. Đời sống xã
hội con người là một hành trình vượt qua để vươn tới ánh sáng văn minh, tiến bộ.
Vì những yếu tố trên mà ánh sáng và sự sống đã chung kết nên một, không thể có
sự sống mà không có ánh sáng, có ánh sáng là có sự sống triển nở và vươn tới
thành toàn.
Ánh sáng xét theo Phong
Thủy là điều rất quan trọng trong mọi sinh hoạt, cách riêng về nơi ăn chốn ở.
Ánh sáng sẽ xua tan khí ứ đọng trong nhà, nó là nguồn năng lượng có khả năng
thúc đẩy sự lưu động của các luồng khí bị ngăn chặn. Ánh sáng giải vây mọi tù
túng, cứng đọng, làm tan loãng sự âm u và lạnh lẽo của bóng tối, làm khởi sắc mọi
hoạt động. Biết nhận đúng loại và đủ
ánh sáng rất cần thiết cho sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc của chúng ta. Vì thế,
việc chọn lựa phương hướng phải phù hợp với ánh sáng tự nhiên và thích ứng với
cơ địa của mình, để tạo nên sự hài hòa tâm-thể và làm phấn chấn tâm-trí.
Trên phương diện tinh
thần, ánh sáng của Thiên Chúa là minh trí, huệ trí, phơi bày mọi tình trạng của
tâm hồn con người, và là biểu hiện của sự thiện hảo. Ánh sáng cho thấy nẻo
chính đường ngay, xuyên qua mọi vùng tăm tối của gian tà và tai ác. Đời người
là một hành trình vượt qua để vươn tới ánh sáng chân lý, ánh sáng thần thiêng.
Ánh sáng là đỉnh cao của sự thuần khiết
trong tâm hồn; là sự thanh khiết của
một tính cách; là sự tinh khiết của một
phẩm hạnh. Trong ánh sáng nhiệm mầu của Thiên Chúa, con người trở nên ánh sáng,
và đạt tới Ánh Sáng là chính Đức Giêsu, “Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha”
(Ga 1,18).
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh
sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). Để diễn tả Đức
Giêsu là ánh sáng thật, thánh Gioan đã dùng hai từ ngữ rất ý nghĩa.
Trong tiếng Hy Lạp hai từ này rất giống nhau:
-
Alethes (αληθής) nghĩa là thật,
đối lập với giả.
-
Alethinos (αληθινός) nghĩa là đích
thực, đối lập với không thực.
Trước khi Đức Giêsu đến,
đã có những ánh sáng khác cho loài người noi theo: một số là những tia sáng chớp
lóe của chân lý; một số là những cái nhìn thoáng mờ về thực tại; một số khác nữa
giống như những đốm lửa rơm lóe lên rồi chợt tắt. Ngày nay vẫn có những tia
sáng mập mờ, nhạt nhòa, mà con người vẫn hướng theo.
Chính
Đức Giêsu là ánh sáng đích thực duy nhất để soi chiếu nhân gian, và đưa con người
tới bến bờ vĩnh hằng. Ngài đã muốn sinh ra trong bóng tối để chiếu lên ánh sáng
của Thiên Chúa. Từ bao đời thế lực sự dữ muốn nhấn chìm con người trong bóng tối:
từ bóng tối kiêu căng của Evà đến bóng tối ghen ghét của Cain; từ bóng tối khép
kín số phận con người vào sự vô nghĩa của định mệnh đến bóng tối cá nhân và hưởng
thụ hiện nay.
Đức
Giêsu đã trở nên trẻ thơ trong sự tinh ròng thánh thiện, là ánh sáng phá tan
bóng tối sự dữ đang vây bọc con người. Ngài đã làm người, biểu hiện ánh sáng khiêm nhường. Ngài đã sống triệt
để thánh ý Thiên Chúa, biểu hiện ánh sáng
yêu thương. Ngài đã chết đi cho tội lỗi nhân loại, biểu hiện ánh sáng quên mình. Ngài đã xóa đi ghen
ghét hận thù biểu hiện ánh sáng hòa bình.
Ngài đem lại ơn cứu độ, biểu hiện ánh
sáng của hạnh phúc muôn đời.
Đức Giêsu đã khẳng định:
“Chính
tôi là ánh sáng cho trần gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối,
nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12). Ngài là ánh sáng soi trong tối tăm (Ga 1, 5), dẹp tan cảnh
hỗn mang hoảng loạn trong lòng người đang bị đam mê, dục vọng và sợ hãi xâu xé.
Nơi Ngài, người ta thấy được Thiên Chúa. Trong Ngài, con người được giải phóng
khỏi mọi bóng tối tội lỗi và sự chết.
Từ ngữ bóng tối (skotos, skotia) xuất hiện 7
lần trong Phúc Âm Gioan. Bóng tối tiêu biểu cho lãnh vực tự nhiên của tất cả những
ai ghét điều thiện. Kẻ làm điều gian ác và xấu xa mới sợ ánh sáng (x. 3, 19.
20). Bóng tối còn tiêu biểu cho sự ngu dốt, nhất là ngu dốt cố ý khước từ ánh
sáng Chúa Kitô (x. 8,12). Thời thánh Gioan Tông đồ có một tôn giáo lớn của Ba
Tư (Zoroastrianisme) ảnh hưởng nhiều đến tư tưởng con người. Tôn giáo này tin rằng
trong vũ trụ có hai lực lượng lớn đối lập nhau, là thần ánh sáng (Ahriman) và
thần bóng tối (Ormuzd): toàn thể vũ trụ là bãi chiến trường cho cuộc xung đột ngàn
đời giữa ánh sáng và bóng tối. Điều quan trọng nhất là con người lựa chọn đứng
về phía nào?
Ánh sáng Chúa Kitô đã
khai mở một kỷ nguyên mới cho nhân loại, và đang âm thầm len lỏi vào mọi ngỏ
ngách của đời sống con người (x. Ga 11,1), để giúp con người trở thành con cái
của ánh sáng (x. Ga 12, 36). Ánh sáng Chúa không chỉ chiếu dọi, thanh luyện, nhưng
còn chữa lành, gia tăng sức sống và thần hóa đời ta. Đời sống không có Chúa là
đời sống trong tăm tối. Trong tăm tối, cuộc sống chỉ còn là hư vô, và mọi sự trở
thành vô nghĩa.
Chúa Kitô, Vị Thầy duy nhất (Mt 23, 8) đem đến cho
nhân loại sự sung mãn về mạc khải Thiên Chúa. Tuy nhiên, vẫn cần một vị giáo sư
có khả năng làm cho giáo huấn của Chúa Giêsu thấu suốt trái tim và tinh thần
nhân loại, là Chúa Thánh Linh, Đấng mà Chúa Giêsu trao ban cho các môn đệ
(Ga 20, 22). Trong mọi thời gian và không gian, ngay cả trong những biến cố
thay đổi không ngừng của đời sống, Thánh Linh vẫn luôn hướng dẫn Giáo Hội “tới
sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13).
3. Ánh sáng và bóng tối
trong tâm hồn
Nói
chung, chẳng ai thích bóng tối, vì bóng tối là dấu hiệu của sự lạc hậu, thiếu
văn minh. Thế nhưng nhiều người vẫn ham mê và bỏ tiền ra để mua cho được bóng tối. Trước khi có bóng tối bên ngoài thì đã có bóng
tối bên trong. Bóng tối bên trong khiến người ta cần đến bóng tối bên ngoài, “vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga
3,19). Để đón nhận và bước đi trong ánh sáng, đòi ta
phải bước ra khỏi vùng u tối, nghĩa là cần một sự hoán cải nội tâm để xoay hướng
đời mình theo hướng của ánh sáng.
Ánh sáng và bóng tối của
trời đất là điều mà ta chứng kiến mỗi ngày, chúng ta có thể gọi tên và phân biệt
dễ dàng. Thế nhưng ánh sáng và bóng tối trong tâm hồn ta thì quả là phức tạp. Ta
thường mệt mỏi khi phải đối diện với những xung đột trong chính tâm hồn mình,
khi bị đặt giữa những giằng co của ánh sáng và bóng tối. Trong tâm hồn ta luôn
có những vùng đầy ánh sáng, là niềm vui, hạnh phúc, những ước mơ đơn sơ ngay
lành. Dẫu vậy, trong chính tâm hồn mình vẫn có những vùng bị phủ đầy bóng tối:
bóng tối của buồn sầu chán nản, của ích kỷ tự mãn, của những mưu mô, ghen ghét
và hận thù, của cả những thói quen xấu xa khiến ta cứ phải kéo lê cuộc đời mình
vì không đủ can đảm để dứt bỏ.
Ánh
sáng và bóng tối gần với ta như thế, nên ta có thể để cho mình chan hòa ánh
sáng, nhưng cũng có thể vùi mình trong bóng tối. Tin Mừng Gioan ghi lại nhận
xét của Đức Giêsu trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng
người ta yêu chuộng bóng tối hơn ánh sáng” (Ga 3,19).
Nói đến yêu chuộng bóng tối có vẻ khó nghe,
nhưng lắm lúc lại thật đúng với lòng mình. Có những lúc ta thấy mình cần chút
bóng tối để nương náu, nhất là những lúc thất bại ê chề, những lúc hổ ngươi bẽ
mặt, những lúc sai lầm lỗi phạm… Dường như bóng tối che chở ta và cho ta cảm
giác an toàn. Ta thấy dễ chịu hơn khi bước đi trong bóng tối. Có những lúc bóng
tối là môi trường thuận lợi để ta tự do làm điều mình muốn, sống điều mình
thích.
Điều nguy cơ là ta dễ bị
nghiện bóng tối. Như người mù đã quen đường đi lối bước trong nhà, ta cũng quen
hành động trong bóng tối như thế. Sống càng lâu trong bóng tối, ta càng ngại bước
ra ánh sáng. Ánh sáng khiến ta có cảm giác bị phơi trần, bị dò xét, bị phân xử.
Ánh sáng khiến mắt ta bị chóa lòa và đau nhức. Phải chăng vì cuộc đời ta đã quá
quen với bóng tối?
Đức
Giêsu giải thích thực trạng trên thật rõ ràng: “Phàm ai làm điều dữ, thì ghét
ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3, 20). Thật thế, ánh sáng bắt ta
phải đối diện với sự thật. Ánh sáng chất vấn và đòi ta phải đặt lại nhiều vấn đề
trong cuộc đời mình. Ánh sáng làm bại lộ những điều ta muốn giữ kín, thấy mình
mất an toàn, bị đe dọa.
Tuy
nhiên, vẫn có một sự thật hiển nhiên mà ta không muốn nghĩ tới: đó là không phải không có đe dọa trong bóng tối,
nhưng là vì trong bóng tối, ta không thấy mình bị đe dọa. Hãy nhớ rằng, dù
có bước đi với cảm giác an toàn trong bóng tối, ta vẫn là một nạn nhân bị chộp
giữ. Ta tưởng mình được tự do, nhưng thực ra là đang cuốn mình lại, không dám lộ
mặt ra trước ánh sáng. Ta tưởng mình được bình an, nhưng thực sự đang bất an.
Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối luôn là cuộc chiến không khoan nhượng, hoặc
là ta thuộc về ánh sáng, hoặc là ta sẽ bị bóng tối kiềm giữ, không có tình trạng
thứ ba.
Chúa thấy hết mọi diễn
biến đó trong tâm hồn ta, và Ngài không ngừng chiếu dọi ánh sáng: có thể là một
lời nhắc bảo nhẹ nhàng giúp ta cảnh giác; một tấm gương sống thật đẹp mời ta
vươn lên; một cử chỉ thân ái làm ta mở lòng; một nụ cười làm ta tươi tỉnh; một
khám phá mới về ý nghĩa đời mình khiến ta đổi mới.
Tuy nhiên, vẫn có những
đêm tối đức tin trong cuộc đời cần thiết như một sự tinh luyện. Ánh sáng lúc đó
dường như biến mất, và mây đen bao phủ. Cảnh vực đó thường làm ta chới với, cảm
thấy lâm nguy, mất định hướng. Cứ hãy giữ vững lòng mình, đừng nao núng và hốt
hoảng, cứ bám sát lấy Chúa. Chúa không bao giờ rời xa ta, chỉ có ta là muốn xa
rời Chúa. Biến động cũng là một cách
Chúa hành động để mong có một sự chuyển động tốt hơn trong đời ta.
Đó có thể là lúc Chúa
muốn biểu hiện tình yêu và quyền năng của Ngài (x. Mt 14,26). Cứ kiên trì dù ánh
sáng không còn, nhưng còn cánh tay Chúa luôn che chở và dìu ta qua đêm tối mịt mù.
Cứ ở trong Chúa thì ánh sáng không thể mất. Ánh sáng ấy chỉ lẩn khuất trong bóng
đêm để lòng ta thêm ước muốn và khao khát. Khao khát ánh sáng cũng chính là
khao khát tình yêu, điều mà Chúa ham thích nơi tâm hồn mỗi người.
Đó cũng là kinh nghiệm
thần bí của R. Tagore, được diễn đạt qua những vần thơ sau:
“Ánh sáng, ồ ánh sáng đâu rồi? Hãy lấy lửa thèm
muốn nhóm ánh sáng lên nào!...
Thống khổ đến gõ cửa nhà ngươi, nhắn lời rằng
chủ ngươi đang thức, và chờ ngươi tới nơi hẹn hò tình tự qua bóng tối màn đêm.
Chớp chợt sáng kéo màn âm u xuống thấp che kín
mắt ta.
Tim ta lần lối tìm đường tới
nơi nhạc đêm đang réo gọi.
Ánh sáng, ồ ánh sáng đâu rồi?
Hãy lấy lửa thèm muốn nhóm ánh sáng lên nào!
Sấm rền, gió cuốn rít kêu khắp bầu trời rỗng
không.
Đêm tối như là tảng đá đen.
Đừng để thời gian trôi đi trong bóng tối.
Hãy thắp sáng đèn tình yêu
bằng cuộc sống của ngươi”.
Trong đêm tối đức tin lại
là lúc “chủ ngươi đang thức và chờ ngươi
tới nơi hẹn hò tình tự”. Kinh nghiệm thần bí của R. Tagore cũng là kinh
nghiệm thiêng liêng ít nhiều của một tâm hồn đang hết lòng khao khát Chúa.
Thiên Chúa luôn dành cho ta những niềm vui bất ngờ, khôn tả, vì thế “đừng để thời gian trôi đi trong bóng tối.
Hãy thắp sáng đèn tình yêu bằng cuộc sống của ngươi”.
4. Ánh sáng và bóng tối
trong cái nhìn
Con mắt như là khung cửa
kính để ánh sáng chiếu vào toàn thân (x. Mt 6, 22). Ánh sáng như thế nào là do
màu sắc và tình trạng của khung cửa kính. Nếu khung cửa kính sạch bụi và trong suốt,
ánh sáng tự động tràn vào phòng và mọi chỗ. Trái lại, nếu nó bị dơ bẩn hay lu mờ
thì ánh sáng bị ngăn chặn và căn phòng mờ tối.
Trong
ý nghĩa đó Đức Giêsu nói đến ánh sáng soi chiếu tâm hồn con người xuyên qua
cách nhìn của người đó: “Nếu mắt anh sáng, toàn thân anh sẽ sáng… nếu
mắt anh xấu, toàn thân anh sẽ tối” (Mt 6, 23).
Quan
điểm, cách thức và góc độ nhìn về tha nhân nói lên mức độ ánh sáng hay bóng tối
trong tâm hồn chúng ta. Chính từ những yếu tố đó mà sự thật được hiển hiện nhiều
hay ít, chuẩn xác hay lệch lạc. Mặt khác, có khi đôi mắt tâm hồn bị vây vướng
chằng chịt bởi những lớp bụi bặm và dơ bẩn của thế gian, khiến ta bất phân thị
phi, làm méo mó sự hiện diện của người khác ngay từ trong tâm khảm mình. Thường
thì có những tình trạng sau đây:
◘ Thành
kiến[2]
làm lệch lạc nhãn quan
Thành kiến khiến chúng
ta mất sáng suốt trong nhận định, mất quân bình trong phán đoán, mất sự hợp lý
và hữu tình trước mọi phản ứng. Thành kiến chỉ đơn thuần là thái độ bám víu vào
hiểu biết và kinh nghiệm cũ để áp đặt lên thực tại hay một hoàn cảnh mới. Nói dễ
hiểu là ta thường đeo mắt kính màu hồng hay màu đen khi nhìn người, nhìn đời,
đang khi mọi sự trong vũ trụ vốn không ngừng biến chuyển, chúng có thể tốt hơn
hoặc tệ hơn, không bao giờ giữ nguyên trạng thái. Cuộc sống quá bận rộn nên ta không có nhiều thiện chí để nhìn bất cứ
đối tượng nào cũng bằng tâm thức mới, nên thường sử dụng kinh nghiệm cũ, có vẻ
như dễ dàng và mau chóng giải quyết được vấn đề, và kết quả là may nhờ rủi chịu.
Hành
động đó do bản năng tự vệ của con người, chưa ra khỏi mình, còn quá vụng về và
thô thiển. Quả thật, “Đánh đổ một thành kiến khó hơn làm phân hủy một nguyên
tử” (Einstein). Bởi vậy, hầu
hết những khám phá mới đều phải trải qua một quá trình đấu tranh với những
thành kiến. Khi James Simpson khám phá ra hiệu năng của chất chloroform, ông phải
đấu tranh với thành kiến của thế giới tôn giáo và y học lúc đó. Người viết tiểu
sử của ông đã ghi: “Thành kiến, một cả
quyết què quặt, ngoan cố đi trên những lối mòn và tránh né những con đường mới,
nỗ lực ngăn chặn ân huệ mới tìm được”. Không lạ gì, “Thành kiến là con đẻ của sự dốt nát” (Hazlitt).
Cái cũ tuy quen thuộc
nhưng nghèo nàn; cái mới thường không dễ chịu nhưng dồi dào phong phú, có khả
năng đem lại một chân trời tươi sáng cho đời sống. Vì thế, ta phải dám khai tử
những ý niệm hay những kinh nghiệm vốn chỉ để bảo vệ cảm xúc nhất thời. Những
người bị thành kiến khống chế sẽ không còn cơ hội để thấy được những giá trị và
mầu nhiệm của sự sống đang hiện hữu, họ dễ trở thành nạn nhân của lối sống u uất
nặng nề, dễ đi tới mặc cảm, lạnh lùng và bế tắc.
◘ Lòng
ghen tị làm mờ tối nhãn quan
Ghen tị vì thấy mình
thua kém người khác, nhưng điều cao vượt trong cuộc sống không phải là vượt lên
người khác, mà là vượt lên chính mình. Lo buồn khi thấy người khác hơn mình là
điều phi lý, là tâm trạng thấp kém và tự hạ giá phẩm cách của mình. Vấn đề triển
nở đời sống không phải là vấn đề hơn thua, mà là phát huy tư chất cao đẹp của mỗi
người.
Mình là mình, đâu thể
là người khác. Cần khám phá bản thân mình để thấy những điều tốt, đồng thời học
hỏi nơi người khác những điều hay. Ghen tị vì sợ người khác giỏi hơn
mình, hoặc ôm mối oán ghét những ai có cảnh ngộ, tài năng, danh giá, địa vị hơn
mình, là một loại tâm lý bệnh hoạn.
Ghen
tị là một cảm xúc dày vò và đay nghiến ta hằng ngày. Nếu không thể hiểu được những
nguyên nhân phía sau lòng ghen tị của mình, ta sẽ không bao giờ có được một cuộc
sống bình an và hạnh phúc. Các nhà y học cho rằng, ghen tị ảnh hưởng đến các hệ
thống tiêu hóa, thần kinh, miễn dịch, gây ra nhiều chứng bệnh. Về phương diện
tinh thần, Bourdaloue cho biết: “Lòng
ghen tị len lỏi vào tâm hồn, làm mờ ám trí tuệ
và chai đá con tim”.
Ghen tị là sự kết hợp của
nỗi sợ và giận dữ: nỗi sợ bị mất đi thứ gì đó, và giận dữ vì người nào đó có
cái mà ta muốn. Cảm xúc đó có thể khiến ta tự co rút bản thân để lẩn tránh nỗi
đau. Nhiều cuộc hôn nhân và tình bạn bị đổ vỡ chỉ vì ghen tị. Ghen tị đã bóp
méo những sự việc vô tình thành những hành động tội ác, hủy hoại sự thật và làm
tan vỡ tình yêu thương, hiệp nhất.
◘ Tính
tự phụ che phủ nhãn quan
Trong nguyên ngữ Hy Lạp,
tính tự phụ gọi là hyperephanía (ghép
bởi hai từ hyper: vượt quá, và phaíno: xuất hiện), ám chỉ điều gì xuất
hiện quá thực chất của nó. Tự phụ là tự tôn phong mình, tự thổi phồng mình. Trong khi lòng ghen tị nổi lên vì thấy mình
thua kém người khác, thì tính tự phụ dấy lên vì thấy mình hơn người khác.
Tính tự phụ thúc đẩy ta so sánh với người khác: trước tiên là để
minh định mình không như họ, tiếp đến là xác định mình hơn họ. Tự nâng mình lên
và hạ người khác xuống là thái độ hàm hồ của người tự phụ (x. Lc 18,11).
Thái độ này dẫn đến
hành vi chê bai, xét đoán, phê phán, dèm pha và chỉ trích tha nhân.
Thánh Climacus ví kẻ tự
phụ giống như người nằm chiêm bao, bày ra đủ trò khoái lạc. Tiếc là chúng chỉ
xuất hiện trong óc tưởng tượng thôi. Nói thế có nghĩa là kẻ tự phụ đã tự lừa dối
mình. Vì sống trong ảo tưởng, nên kẻ tự phụ cũng không thấy được thực chất quan
trọng của những gì bé nhỏ thường ngày. Thánh Phaolô đã dùng một hình ảnh rất đẹp
về điều đó khi so sánh với các cơ quan trong một thân thể: những bộ phận xem ra
kém nhất thì lại trở nên quan trọng cho sự sống (x. 1Cr 12,14-26).
Xét cách sâu xa hơn,
người tự phụ cậy dựa vào sức lực cá nhân thay vì tin tưởng vào sự trợ lực của
Thiên Chúa. Sở dĩ ta dám đặt mình lên trên tha nhân vì coi cuộc sống là một sự
chiếm hữu chứ không phải một ân ban. Tính tự phụ thường phát sinh khi nào con
tim vắng bóng Chúa hoặc Chúa bị che khuất bởi cái “tôi” của mình. Do đó, cám dỗ
tự phụ là ngọn đòn chí tử cuối cùng mà ma quỉ thường dùng để kết liễu trận chiến
đối với những ai đã dầy công trên đường nhân đức, vì nó chỉ chiến thắng khi
tách lìa ta ra khỏi Thiên Chúa.
Tính tự phụ có ảnh hưởng
gấp đôi trên nhãn quan một người, khiến người ấy không còn nhìn về Chúa, không
còn thấy được thực trạng của mình và tha nhân. Ánh sáng mà người ấy nhờ đó để
thấy mình và thấy người khác sẽ chỉ còn là bóng tối.
◘ Tính
hẹp hòi ích kỷ khóa chặt nhãn quan
Từ “sáng” trong tiếng Hy Lạp là haplous.
Trong Thánh Kinh, từ này thường có nghĩa là rộng
rãi, bao dung. Thánh Giacôbê cho
thấy Chúa là Đấng ban cho cách rộng rãi (x. Gc 1,5). Thánh Phaolô khuyên tín hữu
bố thí cách rộng rãi (x. Rm 12, 8).
Còn từ “Mắt xấu” trong tiếng Hy Lạp là poneros. Bản Bảy Mươi và Tân Ước dùng từ
này với nghĩa keo kiệt, bần tiện. Khi dùng từ này (x. Mt 6, 23) Chúa Giêsu muốn
nói: “Chỉ lòng rộng rãi mới giúp người ta
có cái nhìn trong sáng, đúng đắn về con người và cuộc sống. Còn tính keo kiệt,
tinh thần hẹp hòi sẽ làm cái nhìn trở nên thiển cận”[3].
Hằng ngày tiếng thơm của
nhiều người vô tội bị chôn vùi dưới miệng lưỡi của những kẻ tâm địa hẹp hòi.
Tha nhân sẽ bớt phiền não biết bao nếu ta có cái nhìn bao dung rộng mở. Dù xấu
đến đâu thì người rộng rãi bao dung vẫn được quí mến, nhưng dù tốt đến mấy thì
người keo kiệt bần tiện cũng đều bị chê ghét. Chỉ có đôi mắt rộng rãi bao dung
mới là đôi mắt sáng, để thấy rõ và thấy theo cái nhìn của Chúa. Ánh sáng Chúa
luôn rực rỡ khiến ta ước ao được tinh luyện và trở thành ánh sáng.
Thiên Chúa nói với chúng ta qua ngôn sứ Isaia như sau: “Ta
đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi
đất” (Is 49,1-6).
Dân Do Thái vẫn từng
nói về Giêrusalem là “Ánh sáng cho dân
ngoại” (Is 42, 6; 49, 6). Một Rápbi danh tiếng thường được gọi là “Ngọn đèn của Israel”. Có một điều mà
người Do Thái quả quyết là không ai tự thắp đèn của mình. Tuy Giêrusalem là “ánh sáng của dân ngoại”, nhưng chính
Thiên Chúa đã thắp sáng “ngọn đèn Israel”
(Tv 18,29). Như vậy, ánh sáng mà dân tộc hoặc người của Thiên Chúa soi chiếu chỉ
là ánh sáng vay mượn.
Cách người Do thái dùng
từ này là chìa khóa mở ra ý nghĩa nội dung mà Chúa Giêsu dùng nó. Ngài đã xác định
vai trò và tính chất của những người theo Ngài như sau: “Chính
anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Chúa Giêsu muốn nói về hiện hữu thâm sâu nhất của những
ai ở trong Ngài. Điều này đòi hỏi các môn đệ phải nên đồng hình đồng dạng với
Thầy mình (x. Pl 3,10).
Chúng ta đã đón nhận ánh sáng qua Phép Rửa, trở thành ánh sáng qua Phép Thêm Sức, làm một với ánh sáng qua Phép Thánh Thể.
Trong ánh sáng Chúa Kitô, chúng ta trở nên ánh sáng để đem lại ơn cứu độ cho mọi
người. Chúa không đòi ta tạo ra ánh sáng cho mình mà chỉ cần ta phản chiếu ánh
sáng của Ngài. Ánh sáng đó tỏa ra do sự hiện hiện của Chúa trong lòng mình. Ai
đã quen chiêm ngắm Chúa và chìm sâu trong Ngài, thì cũng thấm nhuần lối sống và
cách hành động của Ngài. Đó là điều phản chiếu tự nhiên và cũng rất siêu nhiên,
vì tình yêu đã làm cho cả hai nên một. Người ta thường trông thấy diện mạo của
một cô dâu rạng rỡ, nhưng sự rạng rỡ đó do tình yêu phát ra từ trong lòng nàng.
Cũng vậy, cứ để cho tình yêu Chúa thấm nhập vào lòng mình và dâng trào cách tự
nhiên thì tự động ta trở thành ánh sáng của Chúa.
☼ Ánh sáng soi
chiếu
Là môn đệ Đức Kitô,
chúng ta phải tự minh định đời mình là cây đèn cháy sáng. Vị trí của cây đèn là
phải đặt trên đế để soi chiếu cho mọi người nhìn thấy đường đi (x. Lc 8,16-18).
Kitô giáo tự bản chất là một điều gì phải nêu cao, phải phô diễn trong đời sống
các tín hữu. Nếu đời Kitô hữu chỉ dừng lại ở cửa nhà thờ thôi thì chẳng ích lợi
cho ai. Ánh sáng của chúng ta phải biểu lộ trong tương quan với mọi người, mọi
sự: trong thái độ, cung cách, lời ăn tiếng nói, giao tiếp, ứng xử, v.v.
Chính Chúa Giêsu đã
minh định: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ nhìn thấy
những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự
trên trời” (Mt 5,16). Trong tiếng Hy Lạp có hai từ chỉ về sự “tốt”, “đẹp”:
- Agathos (αγαθός) : chỉ
cái gì tốt về phẩm chất.
- Kalos (καλός): chỉ một vật hay một việc không chỉ tốt mà còn đẹp,
hấp dẫn, có sức chinh phục.
Từ được dùng ở câu Phúc
Âm trên là Kalos (καλός). Các việc
lành của chúng ta không chỉ tốt thôi
mà còn đẹp và hấp dẫn nữa. Chắc chắn một việc lành như thế phải hoàn toàn vị tha,
vì “Làm lành mà mong trời báo thì không được phúc, làm ơn mà chờ người trả
thì không được đức” (Dã Thạch
Quỳ). Đó không chỉ là một vài
nghĩa cử hay hành vi cao đẹp khiến người ta thán phục, khen lao, nhưng là cả một
đời sống hy sinh âm thầm.
Có những khi ta làm việc
lành theo lề thói bên ngoài, còn bên trong tâm hồn vẫn cứng cỏi, lạnh lùng và
nghiêm khắc, không chiếu dọi được ánh sáng dịu dàng và khả ái, là nét hấp dẫn của
Đức Kitô. Đó là chưa nói tới những trường hợp ta làm việc lành với ý đồ chiếm cứ
danh lợi, làm thô thiển khuôn mặt Đức Kitô trong đời mình.
Người
tốt lành là người không hề muốn lôi kéo sự chú ý của người khác, nhưng qui hướng
họ về Chúa là nguồn ánh sáng. Chính Chúa mới tiếp tục tuôn đổ trên cuộc đời họ
ánh sáng chân lý, sự sống và tình yêu không bao giờ vơi cạn. Mong muốn lôi kéo
sự cảm phục của người khác để làm nên danh giá hay uy tín cho mình là một ý đồ
nham hiểm, là muốn dùng ánh sáng Chúa như bình phong để đánh bóng cho bản thân.
Việc tốt lành lúc đó sẽ biến thành mưu toan, và ánh sáng trong ta chẳng mấy chốc
lụi tàn.
☼ Ánh sáng dẫn
đường
Trước bao nhiêu bóng tối
của cuộc đời, Kitô hữu là người soi đường dẫn lối cho kẻ khác (x. Pl 2,15),
nghĩa là phải nên gương sáng cho họ. Thế gian luôn cần những con người làm
gương, làm tiêu chuẩn cho điều thiện hảo. Trước những áp bức, bất công, kỳ thị,
gian trá… nếu không có ai dám lên tiếng, thì tất cả sẽ lặn chìm trong sự tối
tăm. Nhưng nếu có ai dám can đảm lên tiếng thì mọi người sẽ làm theo. Nếu người
nào đủ sức mạnh đạo đức và lòng kiên vững thì người ta sẽ noi theo để làm điều
thiện.
Phận sự của chúng
ta là giữ vững lập trường để anh em yếu đuối được nương tựa. Sức mạnh của chúng
ta là ở trong Đức Kitô, luôn là ánh sáng của Ngài, để hướng tha nhân vào đường
đoan chính, là khởi xướng lên hành động cao đẹp để họ có thể làm điều mà tự họ
không dám làm.
☼ Ánh sáng báo
hiệu
Ánh sáng cũng là ngọn
đèn báo hiệu cho ta biết phải dừng lại hay quay về hướng nào. Nó còn là lời cảnh
giác cho ta thấy những tình huống nguy hiểm đang ở phía trước. Bổn phận Kitô hữu
là đem lại sự cảnh tỉnh cần thiết cho đồng loại. Một trong những tình cảnh bi
đát nhất của đời sống con người, nhất là các bạn trẻ, là không nhận được lời cảnh
giác sớm hơn hay đúng lúc, để rồi có khi phải hối tiếc và đau thương một đời. Nếu
những lời cảnh giác hoặc cảnh cáo của ta đưa ra không vì giận dữ hay tức bực,
không mang tính chỉ trích, lên án, gây tổn thương cho người khác, nhưng với
tình thương chân thật thì hiệu quả biết bao!
Ánh sáng chan hòa mang lại sinh khí và sức
sống mới cho cuộc đời chính là ánh sáng Chúa Kitô, đã được chuyển thông vào
toàn thể cuộc sống chúng ta, để mỗi người trở nên cây đèn sáng trong Ngài.
6. Vị trí và trách nhiệm của
cây đèn
Điều đáng ngại là ta dễ
bị cám dỗ để sống rập khuôn theo lối sống người đời. Vì sợ bị nhạo báng chê cười,
sợ bị coi là người cổ hủ, không tiến bộ, có khi bị coi là những kẻ sống ngược đời,
nên ta phải che giấu cây đèn của mình dưới đáy thùng hay gầm giường (x. Mc 4,
21).
Dù đời sống ta có nhiều
khó khăn và quẫn bách thì phải nhớ rằng, bản chất của mình là cây đèn chiếu
sáng của Đức Kitô. Đó không chỉ là một trách nhiệm mà trước tiên là một đặc ân
đã được trao ban. Ít khi ta ý thức sâu xa về điều này, nên nhiều khi sống lập lờ,
lấp lửng, hoặc hổ thẹn che giấu ánh sáng mình trong mọi tương quan:
- Che giấu với chính mình.
Đó là thái độ nhắm mắt làm ngơ trước những hậu quả mà ta biết rõ. Cũng như người
mắc bệnh hiểm nghèo mà cứ ém nhẹm để mong nó tự động qua đi; hay như con chim
đà điểu khi gặp thợ săn thì cứ nhắm mắt chui đầu vào đống cát và đưa cái lưng
ra ngoài, tưởng rằng không nhìn thấy nữa thì sẽ yên thân. Người che giấu với
chính mình nghĩ rằng đó là cách thế an toàn, nhưng rồi không an bình, vì xung đột
vẫn nổi lên và nguy nan đang kéo đến. Không sống thật với chính mình là đánh mất
chính mình.
- Che giấu với đồng loại.
Kẻ phải luôn che giấu với người khác là kẻ không có hạnh phúc, cứ phải nơm nớp
lo sợ: sợ người người khác chê bai, sợ liên lụy, sợ mất mát thiệt thòi, sợ đau
thương.... Nhưng rồi “chẳng có gì che giấu mà người ta lại không
biết và không đưa ra ánh sáng” (Lc 8,17). Có những sự thật phải can đảm
nói lên; có những niềm vui nỗi buồn cần chia sẻ; có những kinh nghiệm nên trao
đổi; có những tệ trạng và xấu xa đòi phải khử trừ… Đáng tiếc là có những chủ
thuyết sai lầm, những chủ trương sai lạc, những lối sống sai quấy, những giả
trang và ngụy tạo gây nên bao hư hại cho đời sống con người, nhưng ta vẫn im
hơi lặng tiếng. Phải chăng đó là thái độ đồng lõa, thỏa hiệp với sự dữ?
- Che giấu với
Thiên Chúa. Có gì che giấu
được Thiên Chúa, nhưng rồi nhiều khi ta vẫn khép kín lòng mình. Dường như có gì
đó bất an khi mở lòng mình ra với Chúa? Phải chăng ta muốn làm ngơ trước một tệ
trạng mà mình chưa muốn vượt qua? Phải chăng ta sợ mất mát, đau thương và tủi
nhục? Thật ra, trạng thái chữa lành bao giờ cũng gây nên nhức nhối và khiến ta
cảm thấy nhục nhằn, nhưng sau đó là niềm vui và hạnh phúc. Không trải nghiệm về
một sự sống dồi dào và phong phú hơn nên ta cứ phải bưng bít với bản thân và né
tránh Thiên Chúa dưới nhiều cách thái.
Hãy can đảm mở lòng ra!
Cứ hãy cháy sáng và đặt cây đèn đời mình vào vị trí mà Chúa muốn. Lúc đó, ta sẽ
thấy mọi sự khác đi, không còn ngậm ngùi, nhưng chan hòa niềm vui sự sống cho
mình và tha nhân.
Biết rằng, đèn càng cháy sáng càng tốn
nhiều nhiên liệu, nghĩa là phải chấp nhận hao mòn sức khỏe, tâm trí, thời giờ,
tiền của… mà nhiều khi còn gặp nhiều hiểu lầm, chống đối, bị từ chối và loại trừ…
có khi còn phải thiệt thân như Đức Kitô là Ánh Sáng. Nhưng ánh sáng của ta không
mất đi trong sự cạn kiệt hay cái chết tạm bợ của đời sống này, nhưng lại bừng
sáng lên trong Ánh Sáng Phục Sinh, kết hiệp làm một với Ánh Sáng Vĩnh Cửu.
Kết luận
Để kết luận, ta nghe Mẹ Têrêxa kể lại một ngày kia tại Melbourne,
Úc, Mẹ đến thăm viếng một người đàn ông nghèo nàn không được một ai quan tâm đến.
Ông ta sinh sống dưới tầng hầm, trong một căn phòng dơ dáy, hôi tanh, không có
ánh sáng. Mẹ bắt đầu bằng việc thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Ban đầu, ông
ta cự tuyệt:
-
“Bà cứ để mọi sự như
cũ. Tôi quen như vậy rồi”.
Dù thế, Mẹ
vẫn cứ xúc tiến công việc dọn dẹp và gợi chuyện để nói với ông. Tình cờ, dưới một
đống rác, Mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm. Mẹ lấy cây đèn ra lau
chùi, và nhận thấy nó khá đẹp. Mẹ nói với ông ta:
-
“Ở đây, ông có một cây đèn rất đẹp. Sao ông không bao giờ thắp
sáng nó lên vậy?”.
Người đàn
ông này đáp:
-
“Tôi không bao giờ thắp sáng cây đèn đó vì có ai đến thăm
tôi đâu!”
Hai trong số các nữ tu của Mẹ Têrêxa bắt đầu thường xuyên đến thăm
ông. Mọi sự dần dần được cải thiện đối với ông ta. Mỗi lần các nữ tu đến thăm,
thì ông ta đều thắp đèn lên. Thế rồi một ngày kia, ông nói với các nữ tu:
-
“Thưa các Sơ, kể từ nay, tôi có thể tự xoay sở được rồi. Xin
nói dùm với người nữ tu đầu tiên đến thăm tôi rằng, ánh sáng mà bà đã thắp lên
trong cuộc đời tôi hiện vẫn còn đang cháy sáng”.
Cây đèn bên ngoài đã được thắp lên, vì ngọn đèn trong tim ông đã
sáng lên. Ánh sáng đó được truyền qua nhờ lòng nhân ái của Mẹ Têrêxa và các nữ
tu của Mẹ.
Ánh sáng hay ngọn lửa mà Đức Kitô đã thắp lên vẫn luôn cháy sáng và
lan tỏa trong thế giới hôm nay. Ngọn lửa tình yêu ấy vẫn âm ỉ và bốc cháy trong
tôi, trong anh, trong chị, trong mọi người. Đừng để ngọn lửa ấy nguội dần theo
năm tháng, nhưng hãy nung nấu mạnh hơn nữa trong sự gắn bó với Đức Kitô và tìm
cách lan rộng đến tha nhân, nhất là trong sự phục vụ những người bé nhỏ, nghèo
hèn, đang sống trong cô đơn, buồn phiền, thất vọng. Trong ánh sáng của Đức
Kitô, mỗi người chúng ta phải trở nên ánh sáng cho người khác trong một thế giới
còn nhiều tối tăm, để tất cả được chiếu sáng trong sự Phục Sinh vinh hiển của
Chúa. Đó là sứ mạng cao cả và là niềm vui lớn lao cho chúng ta hôm nay và mãi
mãi.
Lạy Chúa Giêsu! Ánh sáng linh thiêng của đời sống nhân loại chúng con.
Con vô vàn cảm tạ Chúa, Đấng đem lại cho con ánh sáng sự sống, ánh sáng tình
yêu, ánh sáng tự do, ánh sáng bình an và hạnh phúc ngàn đời.
Cuộc đời vui biết bao khi con ở trong ánh sáng của Chúa. Con chỉ cảm thấy
buồn sầu và ray rứt khi để cho bóng tối len lỏi vào trong tâm trí mình.
Con thấy thật an bình và hạnh phúc khi vui hưởng ánh sáng thánh thiện của
Chúa, khi trở nên ánh sáng cho anh em mình. Nhưng rồi, bóng tối vẫn là một cám
dỗ không ngừng trên mọi phương diện của đời sống.
Mất ánh sáng của Chúa, con cảm thấy ngột ngạt, nặng nề, khốn khổ. Mất ánh
sáng của Chúa, con mất hứng thú để sống, mất niềm vui để sáng tạo, thấy mọi việc
mình làm đều vô vị, vô nghĩa, vô vọng.
Thỉnh thoảng con lại khám phá ra trong mình vẫn còn những chỗ tối tăm
chưa được khai sáng; vẫn còn những cảnh mù mờ chưa được khai quang; vẫn còn những
ngục thất chưa được khai phóng; vẫn còn những hỗn mang chưa được khai nguyên.
Con thấy ánh sáng Chúa dẫn đưa con đi trên mỗi chặng đường, nhưng vẫn có
bóng tối trên từng đoạn đường. Dù tình thế nào thì xin cho con vẫn bám sát lấy
Chúa trên suốt con đường.
Chúa biết tình trạng không hay không tốt nơi chúng con, nhưng vẫn tín nhiệm
đặt chúng con là ánh sáng của Chúa cho trần gian. Xin tinh luyện tâm hồn chúng
con nên tinh sáng hơn, để ước vọng của Chúa nơi chúng con được hoàn thành, và
hy vọng của chúng con nơi Chúa được hoàn tất. Amen.
Lm. Thái Nguyên