TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ: (5) Sứ Vụ Loan Báo
Tin Mừng
(daminhvn.net) ngày 20 Tháng mười một 2013
Lời Ngỏ: Nhân dịp Tĩnh tâm Tu viện Rất thánh
Mân Côi từ ngày 20.8 -26.8.2013, với tư cách là một người Anh Em Đa Minh, Đức
Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, OP. đã chia sẻ những thao thức của ngài về sứ vụ
của những người Đa Minh qua các đề tài:
- Chứng nhân cho Tình yêu vô biên
- Chứng nhân cho Tình yêu nhưng không
- Tu sĩ Đa Minh đối diện với sứ vụ loan báo Tin Mừng
******
SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG
Hàng Giáo
phẩm Việt
Các Giám
mục thẳng thắn tuyên bố rằng Tin Mừng không đồng hoá với bất cứ nền văn hoá, hệ
thống kinh tế hay thể chế chính trị nào. Tin Mừng cũng chẳng cần một mảnh đất
riêng nào để sống. Nhưng nhiệm vụ của các Kitô hữu là phải sống và làm cho Tin
Mừng được bén rễ trong mọi nền văn hoá và cơ chế kinh tế, chính trị: “Là Hội
Thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng quê
hương, noi theo truyền thống dân tộc hoà mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước
(...).Vậy chúng ta phải đồng hành với dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng
sinh mạng với dân tộc mình, vì quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời
gọi để sống làm con của Người, đất nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong
quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, dân tộc này là cộng đồng mà Chúa
trao cho chúng ta để phục vụ với tính cách vừa là công dân vừa là thành phần
Dân Chúa”.
Đường hướng
mục vụ gắn bó với dân tộc này được đánh giá cao và đã đem lại nhiều kết quả
tích cực. Một số tài liệu nghiên cứu của cơ quan Nhà Nước công nhận chủ trương
dấn thân phục vụ của Kitô giáo đã ảnh hưởng trên đời sống của con người Việt
Một cách
tổng quát hơn, bản nghiên cứu nhìn nhận: “Trong khi xã hội mới hiện thực mà
chúng ta đang xây dựng còn nhiều hạn chế của các mối quan hệ kinh tế – xã hội
thì Giáo hội Thiên chúa giáo (kể cả trên thế giới và ở Việt Nam) lại cố gắng
xây dựng (và thực tế đã xây dựng được) cho giáo dân của mình những mối quan hệ
xã hội tốt đẹp, làm cho giáo dân và toàn thể giáo hội sống Phúc âm được trong
lòng dân tộc, giáo dục giáo dân sống “tốt đạo đẹp đời”. Nhiều vùng Công giáo giữ
được và phát triển tốt các phong trào xã hội, sản xuất trị an, quốc phòng, văn
hoá, giáo dục, v.v…”.
Chúng ta
có quyền vui mừng và hãnh diện với những đánh giá tích cực ở trên, tuy nhiên
không thể tự mãn và ngủ quên nơi một vài thành tích quá khứ. Hiện nay, xì ke ma
tuý nói riêng và tệ nạn xã hội nói chung đã trở thành một nỗi lo của cả nước và
cũng đang xâm nhập vào các vùng Công giáo. Phải chăng đây là một trong những
thách đố mà xã hội Việt
Chính
trong viễn tượng đó, cuộc thảo luận của chúng ta về “Sứ vụ loan báo Tin Mừng” sẽ
xoay quanh mấy điểm chính sau nay:
• Mục vụ
giáo xứ .
• Tân
Phúc âm hoá.
• Sứ vụ
biên cương.
1- Mục vụ
giáo xứ.
Nói một
cách giản lược, công tác căn bản của mục vụ giáo xứ là tiếp tục loan báo Tin Mừng
cho những người đã và đang tin. Bộ Giáo luật xác định: “Giáo xứ là một cộng
đoàn tín hữu được thiết lập cách bền vững ở trong Giáo hội địa phương, và công
tác mục vụ được uỷ thác cho cha Sở, dưới quyền của Giám mục giáo phận”
(515,1).
Cha Sở là
chủ chăn riêng của giáo xứ đã được trao phó và thi hành công tác mục vụ dưới
quyền của Giám mục giáo phận. “Cha Sở có bổn phận dự liệu để Lời Chúa được rao
truyền cách toàn vẹn cho mọi người đang cư ngụ trong giáo xứ; vì thế phải lo giảng
dạy giáo dân về các chân lý đức tin, nhất là nhờ việc giảng trong các ngày Chúa
nhật và các Lễ buộc và việc dạy giáo lý ; cần ủng hộ các chương trình cổ động
tinh thần Phúc âm kể cả trong lãnh vực công bằng xã hội; cần để ý cách riêng việc
giáo dục công giáo cho thanh thiếu niên; cố gắng bằng mọi phương tiện có thể, với
sự cộng tác của các tín hữu, để sứ điệp Tin Mừng tới đến với những người lơ là
việc đạo hay không tuyên xưng đức tin chân thật nữa” (điều 528, 1).
Trên thực
tế, công tác mục vụ giáo xứ thường quy tụ chung quanh các lãnh vực chính sau
đây:
• Mục vụ
thiếu nhi
• Mục vụ
giới trẻ
• Mục vụ
ca đoàn
• Mục vụ
Hội đoàn
• Mục vụ
cho người cao niên.
• Mục vụ
cho người trưởng thành
• Mục vụ
hôn nhân
• Mục vụ
gia đình
• Mục vụ
chuyên biệt: giáo chức, y tế, xã hội, doanh nghiệp, báo chí, văn nghệ sĩ, trí
thức, v.v.
Việc đầu
tư vào vốn con người để nâng cao trình độ và khả năng sử dụng kỹ thuật được coi
là một trong những nhân tố quyết định của việc phát triển. Chính ở nơi đây,
chúng ta gặp thấy nhiều thách đố cam go đang đặt ra cho Việt
Một trong
những điểm nổi của Giáo hội Việt Nam là lòng sùng đạo, tổ chức giáo xứ, hội
đoàn, kinh lễ, rước xách sầm uất .... Tuy nhiên, nếu bình tâm suy nghĩ chúng ta
sẽ không khỏi băn khoăn tự hỏi: đó là lối giữ đạo theo tập tục cổ truyền hay đường
hướng sống đạo theo tinh thần Vatican II? Thiết tưởng đã đến lúc cần nghĩ đến
các trung tâm tĩnh tâm và đào sâu chiều kích tâm linh.
Tuyên bố
bế mạc Đại hội lần thứ 7 của Liên hiệp Hội đồng Giám mục Á châu đã sáng suốt
đưa ra một tầm nhìn và “chuyển hướng đặt nổi tính nội tâm sâu xa ngõ hầu Giáo hội
trở thành một cộng đoàn cầu nguyện sâu xa, trong đó chiêm niệm nối kết hài hòa
với bối cảnh thời đại và các nền văn hóa của dân tộc. Gắn liền với đời thường,
cầu nguyện đích thực phải làm phát sinh nơi các tín hữu chứng từ trong sáng về
yêu thương và phục vụ”.
Chương
trình đào tạo thần học chiều sâu cho giáo dân và chương trình mục vụ chuyên biệt
cho từng ngành nghề trở thành nhu cầu khẩn cấp. Hơn bao giờ hết, lời tâm huyết
sau đây của đức Gioan Phaolô II phải trở thành ưu tiên mục vụ của chúng ta:
“Tôi xin hiệp ý với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đề nghị thành lập ở cấp giáo
phận hay cấp quốc gia những trung tâm đào tạo giáo dân, để chuẩn bị họ làm công
việc thừa sai như những chứng nhân cho Đức Kitô tại Á Châu ngày nay” (EA
45c).
2- Ý
nghĩa của Tân Phúc-âm-hóa.
Trong hai
thập niên vừa qua, “Tân Phúc-âm-hóa” đã trở thành một đề tài quan trọng, thường
xuyên được đức Gioan Phaolo II đề cập trong các văn kiện, cũng như trong các
chuyến viếng thăm mục vụ ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt tại Mỹ châu Latinh
và Âu châu. Sau đó, trước ngưỡng ngàn năm thứ ba, “Tân Phúc-âm- hóa” đã trở
thành chương trình mục vụ chung của toàn thể Giáo hội Công giáo.
Đứng trên
phương diện suy tư thần học, diễn ngữ “Tân phúc-âm-hóa” (Nova evangelisatio,
Nouvelle évangélisation, New evangelisation hay Nueva evangelización) khá hàm hồ
và có thể gây ngộ nhận như thể muốn phủ nhận những gía trị của công cuộc rao giảng
Tin Mừng hay truyền giáo trước đây. Trên thực tế một số người đã dùng lẫn lộn
chữ “tân” với chữ “tái”. Vô tình đã đồng hóa “tân phúc-âm-hóa” với “tái
phúc-âm-hóa”. Như vậy, phải chăng đã gián tiếp cho rằng việc rao giảng Tin Mừng
trước đây có những thiếu sót cơ bản, sai lạc hoặc không còn hiệu năng, cho nên
phải “tái phúc-âm-hóa” hoặc công cuộc rao giảng Tin Mừng bị gián đoạn, nên bây
giờ phải tái tạo hoàn toàn, xóa bàn làm lại tất cả và từ đầu?
Không ai
có thể phủ nhận những giới hạn, thiếu sót và khuyết điểm của việc rao giảng Tin
Mừng trong giai đoạn xâm chiếm thuộc địa của các nuớc Tây phương tại Châu Á,
Châu Phi và Nam Mỹ. Nhưng bên cạnh một số “bóng đen” dày đặc và đau lòng, còn
có rất nhiều ưu điểm và “ánh sáng rạng ngời”. Chính vì vậy, việc rao giảng Tin
Mừng hôm nay không chủ trương triệt để xóa bàn làm lại, hoặc chối từ các gia sản
và gía trị của truyền thống. Ngoài ra, Hội Thánh không bao giờ bao giờ ngừng
loan báo Tin Mừng, mặc dù cường độ và mức độ có thể khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh.
Hiểu như vậy, yêu cầu căn bản hôm nay là “gạn đục khơi trong” gia tài truyền thống,
để rồi cố gắng kiện toàn và thích nghi với những yêu sách mới của thời đại.
Về phương
diện lịch sử, diễn ngữ “tân phúc âm hoá” có một xuất xứ khá rõ rệt. Trong chuyến
viếng thăm mục vụ Ba Lan lần I, đức Gioan Phaolô II đã dành ba ngày cuối cùng
cho Tổng giáo phận Cracovie. Sáng thứ bảy, ngày 9 tháng 6 năm 1979, ngài đến
Mogila, một tu viện Xitô cổ kính được xây dựng từ thế
kỷ XIII, để gặp gỡ giới công nhân. Tu viện nằm trên một ngọn đồi, đối diện với
Nowa Huta, một thành phố thợ thuyền Xã hội chủ nghĩa đầu tiên của Ba Lan, nơi
sinh sống của khoảng 200.000 dân, đa số là công nhân trẻ.
Trong bài
giảng lịch sử nói trên cũng như một số bài diễn văn sau đó, hai từ “tân” và
“tái phúc âm hoá” được sử dụng đồng thời và lẫn lộn. Một số ý kiến phản hồi yêu
cầu không nên lẫn lộn “tân phúc-âm-hóa” với “tái phúc-âm-hóa”. Có lẽ đề nghị
này được đức Gioan Phaolô II tiếp thu. Điều chắc chắn là chỉ ít lâu sau, trong
các văn kiện chính thức người ta chỉ thấy diễn ngữ “tân phúc âm hoá” và không
còn sử dụng diễn ngữ “tái phúc âm hoá”...
Ngỏ lời
trước hội nghị các Giám-mục Mỹ châu La-tinh họp tại Port-au-Prince, Haiti, ngày
9 tháng 3 năm 1983, đức Gioan Phaolô II xác quyết rõ rệt quan niệm “tân phúc âm
hoá” nói trên: “Việc kỷ niệm 500 năm loan báo Tin Mừng (tại Mỹ châu La-tinh) sẽ
có một ý nghĩa tròn đầy nếu đi kèm với hành động dấn thân của quý chư huynh
Giám mục, cùng với hàng linh mục và giáo dân; dấn thân, không phải để tái
phúc-âm-hóa (re-evangelización), mà là tân phúc-âm-hóa (nueva evangelización).
Mới trong sự nhiệt thành, trong phương pháp, trong lối diễn tả”.
Xem như vậy,
ý nghĩa chữ “tân” trong diễn ngữ “tân phúc-âm-hóa” không thuộc về bản chất và nội
dung của Tin Mừng, mà đúng hơn ám chỉ khả năng lãnh hội, lối trình bày, cách thế
diễn tả Tin Mừng, cũng như công cuộc hội nhập văn hoá, đường lối sống Đạo và
tinh thần dấn thân của các Kitô hữu. Trước tình trạng thụ động, thờ ơ, buông
xuôi, hờ hững... của rất nhiều người Công giáo hiện nay đối với sứ vụ loan truyền
Tin Mừng, yêu cầu tiên quyết là làm sao tạo được một khí thế và nhiệt thành mới.
Hơn bao giờ hết Giáo hội cần những tín hữu biết đào sâu niềm tin, sống trung thực
với lý tưởng Kitô giáo và can đảm, hăng say, nhiệt tâm chuyển đạt nó cho những
ngừơi chung quanh.
Nhưng để
thực hiện tốt sứ vụ đó trong một xã hội phức tạp, đa dạng và đầy biến động,
ngoài lòng nhiệt thành nói trên, còn đòi hỏi phải biết xử dụng những phương
pháp thích hợp. Do đó, nói đến tân phúc-âm-hóa là nói đến việc đổi mới phương
pháp, não trạng và tâm thức ngõ hầu có thể loan báo Lời Chúa hữu hiệu hơn cho
con người ở thời đại tân tiến này. “Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ (...).
Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới” (Lc. 5,37-38), Đức Kitô đã không căn dặn
chúng ta như thế sao?
Nói cách
khác, thách đố của “tân phúc-âm-hóa” một mặt cố gắng để ánh sáng Tin Mừng chiếu
rọi vào các nền văn hoá, mặt khác đưa ra những cách thế hiểu Đạo, sống Đạo, diễn
tả Đạo bằng chất liệu riêng của mỗi nền văn hoá. Ngoài việc đề cao phương pháp
và nhiệt tâm mới, vai trò của giáo dân được đặc biệt đề cao. Đức Gioan Phaolô
II viết: “dù rằng các hình ảnh của Tin Mừng về muối, ánh sáng và men được xử dụng
để ám chỉ tất cả các môn đệ Đức Kitô, nhưng chúng được áp dụng một cách đặc biệt
cho người giáo dân. Đây là một biểu tượng mang nhiều ý nghĩa, vì không những diễn
tả việc tham gia và hội nhập sâu xa của người giáo dân vào thực tại trần thế và
cộng đồng nhân loại, mà nhất là còn nói lên điểm mới mẻ và độc đáo về ý hướng
loan báo Tin Mừng cứu độ”.
Đâu là
lãnh vực và công tác tân phúc âm hoá ở Việt
3- Sứ vụ
biên cương
Sứ vụ
biên cương hay “truyền giáo” là rao giảng Tin Mừng cho những người chưa tin,
chưa nghe biết Tin Mừng hay cố gắng làm cho giá trị Tin Mừng thấm nhập vào các lãnh
vực văn hoá, chính trị, khoa học, xã hội …. Ơn gọi thừa sai đòi hỏi chúng ta phải
thể hiện tính lữ hành, đặc tính lưu động, không ngừng di chuyển về những biên
cương mới. Chính việc khám phá và hành động dấn thân vào các biên cương mới này
biểu lộ việc chọn lựa ưu tiên trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Dưới đây là một
vài biên cương tiêu biểu:
a)- Biên
cương của bất công, nghèo đói và loại trừ. Toàn cầu hoá đã làm giàu cho nhân loại,
nhưng cũng làm cho hố phân cách giàu nghèo mỗi ngày sâu rộng hơn. Chưa bao giờ
nhân loại giàu có, nhiều tiện nghị và khả năng kỹ thuật như hiện nay, nhưng đồng
thời nhiều thành phần, nhiều nước và nhiều vùng của thế giới hôm nay bị đẩy vào
tình trạng loại trừ, nghèo đói, bạo lực và chết chóc. Họ là những người nghèo,
những người kém may mắn, các dân tộc ít người, những người thất nghiệp, những
người di dân. Về mặt xã hội, Á châu hiện nay vừa là lục địa có tăng trưởng kinh
tế cao, vừa là vùng đất của nghèo khổ, bóc lột, bất công, áp bức, vi phạm nhân
quyền ...
Theo ước
tính, hiện tại thành phố HCM có hơn 2.000.000 di dân. Khoảng 60% số di dân nói
trên có việc làm và 40% còn lại bị xếp vào hạng thất nghiệp. Rất nhiều vấn đề
xã hội phát sinh do hiện tượng di dân tự phát nói chung và đặc biệt từ nhóm “di
dân thất nghiệp”. 60% lao động trẻ em ở thành phố cũng thuộc nhóm di dân naỳ.
Không thể loan báo Tin Mừng hôm nay mà lại hờ hững trước thực trạng xã hội
này.
b)- Biên
cương giữa sống và chết. Căn bệnh thế kỷ đang đẩy hàng triệu người vào tình trạng
chết dần mòn. Hội nghị quốc tế về HIV/AIDS lần thứ 15 tại Bangkok (7-2004) cảnh
báo số người bị chết vì căn bệnh này sẽ lên tới 25 triệu vào năm 2005 và 74 triệu
vào năm 2015, nếu không có những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn sự lây
lan.
Á châu hiện
có 7 triệu người bị nhiễm và có nguy cơ rơi vào tình trạng lây lan đại trào, vì
khu vực này thiếu một cách nghiêm trọng các bác sỹ chuyên về AIDS. Tại
Campuchia vỏn vẹn 1 bác sĩ chuyên môn AIDS cho 3280 bệnh nhân HIV, tại Trung Quốc
tình trạng còn bi đát hơn 1/4200 bệnh nhân, tại An độ tỉ lệ đó là 1/9010 và ở
Việt Nam là 1/11.250.
Trường hợp
nhiễm HIV đầu tiên ở Việt
c)- Biên
cương kinh nghiệm tôn giáo. Đối với Giáo hội Á châu nói chung và Giáo hội Việt
Tuy
nhiên, tại mảnh đất Á châu thân yêu này, một vùng đất được mệnh danh là chiếc
nôi của các tôn giáo lớn, Kitô giáo chỉ đóng vai trò thiểu số và khiêm tốn nhất.
So sánh với các vị giáo tổ khác, Đức Kitô vẫn là vị giáo tổ xa lạ nhất và có số
tín đồ Á châu ít ỏi nhất.
Ngoài ra,
cũng chính tại lục địa mênh mông của các tôn giáo này, “đang đặt ra một cách khẩn
thiết vấn đề gặp gỡ giữa Kitô giáo với các nền văn hóa và tôn giáo rất lâu đời ở
địa phương. Đây là một thách đố lớn lao cho công cuộc Phúc-âm-hóa, bởi vì những
hệ thống tôn giáo như Phật giáo hay Ấn giáo cũng tự trình bày như rõ rệt mang
tính cứu độ”.
d)- Biên
cương sứ vụ “thừa sai” hay “truyền giáo” theo nghĩa cổ điển: đi đến những vùng
đất và những nơi mà Tin Mừng chưa được rao giảng. Thư Mục vụ năm 2003 của Hội đồng
Giám mục Việt Nam đặc biệt mời gọi mọi người Công giáo mạnh dạn đi đến những
vùng đất chưa được nghe biết Tin Mừng: “Hãy mạnh dạn đến những môi trường mới.
Có thể đó là những môi trường địa lý chưa bao giờ được nghe rao giảng Tin Mừng,
những vùng đất chưa in dấu chân nhà truyền giáo”.
Nếu thiên
niên kỷ thứ nhất loan báo Tin Mừng cho Au châu, thiên niên kỷ thứ hai cho Mỹ
châu, thì Hội đồng Giám mục Việt Nam ước mong thiên niên kỷ thứ ba này sẽ “đem
Tin Mừng cho anh chị em trên lục địa (Á châu) mênh mông này. Và đặc biệt cho
anh chị em sống ngay trên quê hương Việt
e)- Biên
cương văn hoá. Đây là những môi trường văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật …
đang cần ánh sáng Tin Mừng. Giữa Tin Mừng và văn hoá có tương quan hỗ tương: một
mặt, Tin Mừng cần chiếu rọi vào các nền văn hoá, mặt khác, Tin Mừng cần được
trình bày bằng chất liệu riêng của mỗi nền văn hoá. Đức Gioan Phaolô II diễn tả
một cách thâm thuý mối tương quan sinh tử này: “Đức tin mà không trở thành Văn
hoá là Đức tin chưa được chấp thuận hoàn toàn, chưa được suy tư thấu đáo và
chưa được sống tới cùng”.
Huấn thị
“Khởi sự lại từ Đức Kitô” yêu cầu chúng ta phải canh tân đời sống Đạo để mỗi cộng
đoàn thực sự là một cộng đoàn rao giảng Tin Mừng: “Khởi sự lại từ Đức Kitô cũng
có nghĩa là bước theo Ngài đến những nơi Ngài hiện diện qua công trình cứu chuộc
và sống giữa chân trời bao la mà Ngài đã khai mở. Chính vì thế đời sống thánh
hiến không thể chỉ hài lòng sống trong Giáo hội và sống cho Giáo hội. Đồng hành
với Đức Kitô, người thánh hiến phải đi tới các Giáo hội Kitô khác, các tôn giáo
khác và tất cả những ai chưa tuyên xưng một xác tín tôn giáo nào cả”.
Chính
trong viễn tượng đó, Hội đồng Giám mục Việt Nam mời gọi các Kitô hữu đến với những
môi trường đang cần ánh sáng Tin Mừng. “Đó là những môi trường văn hoá, chính
trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật … Đó là những lãnh vực cần có sự hiện diện của
Chúa Kitô, chứng tá của Hội Thánh và ánh sáng của tin Mừng. Hãy đến với những
con người chưa được nghe rao giảng Tin Mừng, hoặc đã nghe mà chưa sống Tin Mừng.
Hãy hiện diện trong mọi môi trường của nhân loại, vì không có gì của con người mà
xa lạ với Hội Thánh”.
Đâu là chọn
lựa và định hướng mục vụ tương lai của anh chị em Đa Minh?
--------------
[1] Hội Đồng
Giám mục Việt
[2] Nguyễn
Tài Thư (Chủ biên), Anh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người
Việt Nam hiện nay, nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 217.
[3]
Ibidem, tr. 273-274.
[4] Diễn
ngữ “tân phúc âm hoá” dịch sát nguyên ngữ Tây phương, nhưng trong cấu trúc tiếng
Việt vẫn thấy nó thế nào ấy.
[5]
Ibidem, số 36.
[6] Insegnamenti
di Giovanni Paolo II, VI, 1 (1983), Editrice Vaticana, 1983, p.698.
[7] Gioan
Phaolô II, Vai trò của người giáo dân, số 15.
[8]
Ibidem, số 2. Xin coi Nguyễn Thái Hợp, Đường vào thần học về các tôn giáo,
Houston, Texas, 2000; đặc biệt tạp chí Chia Sẻ, số 41 & 42, 2004.
[9] Hội đồng
Giám mục Việt Nam, Sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội thánh Việt Nam hôm nay,
10.10.2003, số 8.
[10]
Ibidem, số 6.
[11]
Gioan Phaolô II, Văn thư Thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Văn hoá, ngày
20.5.1982.
[12] Huấn
thị “Khởi sự lại từ Đức Kitô” (2002), số 40.
[13] HĐGM- VN, Thư Mục vụ 2003, số 8.