ĐỐI
DIỆN VỚI CHÍNH MÌNH
“Có người dạy thiên hạ
thì thông minh,
nhưng
vô tích sự đối với chính mình”. (Hc 37,19)
Mọi cái sẽ chẳng tới
đâu nếu tự thân ta chưa sáng tỏ. Vì thế, cần đối diện với chính mình để biết mình. Biết mình là đầu mối
của mọi sự khôn ngoan. Nhờ biết mình ta mới biết phát khởi và hoàn thiện lòng nhân, là cốt lõi đời sống làm
người. Từ đó ta tiến bước trong cuộc hành trình tâm linh, do biết dừng lại; biết nhận sự thật; biết tĩnh lặng và chìm sâu trong chân lý,
hầu có thể phát huy cao độ những tiềm năng của sự sống nơi chính mình, mà Thiên
Chúa đã đặt để và kêu gọi tiến đến sự thành toàn như Cha trên trời.
Trên tường cao vút của đền thờ thần Apollon ở miền Bắc
Hy Lạp có khắc một câu châm ngôn: “Hãy nhận
biết bản thân mình”. Đây có thể là lời khuyên tốt nhất, sâu sắc nhất của vị
thần này dành cho loài người: Hãy nhận biết
mình là gì? Đang là gì? Muốn là gì? Cần phải là gì? Và còn có thể là gì?
Những câu hỏi trên nêu lên nhận thức nền tảng của đời sống, đòi ta phải đối diện
và nhận diện chính mình trong mọi sinh hoạt, mọi biến cố, và từng biến chuyển
trong đời thường. Theo Mạnh Tử, trước tiên cần
nhận ra nơi con người mình bốn tâm tính nòng cốt[1]:
a. Lòng trắc ẩn
(nhân ái-thương xót). Trên phương diện này Chúa Giêsu quả là mẫu mực tuyệt hảo
cho chúng ta. Lòng trắc ẩn của Ngài luôn nhạy bén và độc đáo với từng người
trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Toàn thể đời sống của Ngài là sự biểu hiện lòng
thương xót của Thiên Chúa. Trở nên hoàn thiện như Cha trên trời không có nghĩa
là không còn vương lầm lỗi, mà là mở rộng lòng nhân ái vô biên. Đó cũng là đức
độ được suy tôn cao nhất trong đời sống làm người.
Lacordaire nói rằng: “Không phải tài năng, không phải danh dự, không phải là thị hiếu để đo
được sự cao quí của tâm hồn, mà chính là lòng nhân ái vậy”.
Bullwer Lytton cho thấy: “Một con tim nhân từ còn quí hơn vạn đầu não trong thế gian”.
J. Chevalier minh định về khả năng cao vượt nơi những
con người luôn đầy ắp tình yêu Thiên Chúa và đồng loại như sau: “Khi một người yêu Thượng Đế và mọi người một
cách tha thiết, người ấy có thể làm điều mà mình muốn, vì rằng họ nương theo
chân lý tối cao và tính nhân ái chí tôn, họ không thể ngã vào lầm lạc được”.
b. Tính biết hổ thẹn.
Người tốt là người luôn biết hổ thẹn với lương tâm khi có những ý hướng và hành
vi sai trái. Sự hổ thẹn là nét đẹp của tâm hồn, giúp con người bảo toàn được
tính cách thanh cao, hồn nhiên và trong sáng khi đối diện với những gì ngược lại
sự thiện và sự thật. Cái đáng sợ nhất nơi con người là không còn biết hổ thẹn với
chính mình, đã quen dần với một lương tâm chai lì và khô cứng, hoặc đã quen phản
ứng và xử sự thô thiển, mất hẳn sự mềm mại, tinh tế và nhạy bén của một tâm hồn
thiện hảo.
Tính biết hổ thẹn là một lối thoát, giúp con người
tránh được gian tà, không bị tha hóa, không xu hướng theo những kiểu sống của bản
năng, nhưng luôn biết giữ gìn phong thái và tính cách cao quí của mình, xứng phẩm
giá làm người hơn. Những Biệt phái, Luật sĩ, Kinh sư lầm lũi trong lối sống giả
hình, ngụy tạo, vì họ đã đánh mất khả năng đối diện và hổ thẹn với chính mình. (x.
Lc 11, 42-47).
c. Tính nhường nhịn.
Chính Chúa Giêsu đã đưa ra giáo huấn: “Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả
má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo
trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài.” (Mt 5, 38-40). Lời Chúa dạy, không chỉ nhường nhịn cách tiêu cực
mà còn mở ra lòng nhân ái cao độ, để có thể hóa giải mọi cái bằng tình yêu.
Ngạn ngữ Tây phương có câu: “Giữ lấy
cái đầu thì tốt hơn là giữ lấy cái mũ”. Đời sống chung không thể tồn tại nếu
không có sự nhường nhịn lẫn nhau. Nhường thì mất, nhịn thì nhục.
Thật ra đó chỉ là lối nhìn tiêu cực trên bề mặt của hiện tượng, của một tâm trí
hạn hẹp. Còn nơi tâm hồn quả cảm thì người ta thấy rằng: cần phải mất để được,
phải chịu nhục để khuất phục, chịu thua để thắng. Chiếu cái nhìn ở góc độ từ ái
bao dung, thì đó là cách thế hữu hiệu để cải hóa bản thân và cảm hóa tha nhân.
Có ai từ bỏ bằng Đức
Giêsu, có ai chịu nhục như Ngài. Biết rằng Ngài đủ quyền năng để thay đổi mọi sự,
nhưng Ngài không làm thế. Bởi nơi Ngài: Tình
yêu mới là tất cả để khơi sáng tâm hồn con người. Nơi Ngài cái dũng của thánh nhân, cái đức của thánh hiền trở nên rạng ngời.
Chính tình yêu tỏa sáng qua sự nhường nhịn. Quả thực, “Đức mến… thì nhẫn nhục” (1Cr 13, 4).
d. Tính thị phi
(biết phải trái). Ở đời không thiếu những người chẳng bao giờ biết nói lý lẽ và
phân biệt thị phi, chỉ sống và hành động cách bộc trực theo cảm xúc. Họ quên rằng:
“Lẽ phải là Thượng Đế của con người tự
do” (Maxime Gorki), và “Sự khôn ngoan
chỉ tìm thấy trong lẽ phải” (Goethe). Không dựa trên sự thật và lẽ phải để
hành động, người ta trở nên bung xung và nô lệ theo cảm tính của mình. Không
tha thiết kiếm tìm chân lý và sự thiện để thể hiện nhân cách, thì tâm hồn luôn
nằm trong tình trạng vô minh và lầm lạc, mọi cái trở nên hỗn độn và phức tạp.
Léon Tolstoi quả chí lý khi nói: “Cái biểu
hiện tốt nhất của chân lý là sự giản dị và rõ ràng. Cái giả dối thường bao giờ
cũng vờ vĩnh, rối rắm và hoa mỹ”.
Dường như người ta luôn muốn dùng tình cảm để hợp lý
hóa các lý lẽ. Đang khi con đường thành nhân đòi hỏi cái gì cũng phải hợp lý rồi
mới có thể đi đến hợp tình. Giáo huấn xã hội của Giáo hội đặt nền tảng trên
nguyên tắc CARITAS IN VERITATE[2]
(Yêu thương trong sự thật). Không thể có tình yêu mà không có sự thật, cũng
không thể có sự thật mà bất chấp tình yêu. Chúng tương ứng, tương tác tuy không
tương đồng, nghĩa là không thể lấy cái này để thay thế cái kia: “Các điều này phải làm, mà các điều kia cũng không được bỏ”
(Lc 11, 42).
Tình
yêu làm cho con người nên vĩ đại, nhưng
“không có cái vĩ đại nào mà thiếu sự thật ở đó cả” (G. E. Lessing). Chỉ
trong sự thật, tình yêu mới có thể chiếu tỏa. Không có sự thật, tình yêu sẽ rơi
vào chủ thuyết duy cảm. Đó là nguy cơ
hủy hoại tình yêu trong một văn hóa không có sự thật. Sự thật giải thoát tình
yêu khỏi sự hạn hẹp của cảm tính, để lý trí được sáng lên toàn diện, và cho con
người được tự do thực sự để hoàn thiện đời mình.
Đành
rằng, bác ái phải vượt trên công lý, vì
yêu thương là trao ban cho kẻ khác điều “thuộc về tôi”; nhưng bác ái không thể
hiện hữu nếu không có công lý, nghĩa là trước tiên buộc tôi phải trao trả cho kẻ
khác cái “thuộc về họ”.
2. Để phát khởi và hoàn thiện lòng nhân
Bốn tâm tính trên đều qui về lòng Nhân, là tính thiện
vốn có nơi mỗi con người, là giềng mối của mọi nhân đức. Mạnh Tử cho thấy sự
phát khởi của lòng Nhân làm phát sinh tác dụng của Nghĩa, Lễ, Trí[3]:
“Trắc ẩn chi tâm, Nhân chi đoan dã.
Tu ố chi
tâm, Nghĩa chi đoan dã.
Từ nhượng
chi tâm, Lễ chi đoan dã.
Thị phi
chi tâm, Trí chi đoan dã”.
Ý nghĩa như
sau:
Lòng
thương xót là đầu mối của Nhân.
Tính hổ
thẹn là đầu mối của Nghĩa.
Tính nhường
nhịn là đầu mối của của Lễ.
Tính thị
phi là đầu mối của Trí.
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí không phải là cái bên ngoài nung đúc cho ta, nhưng
là cái có sẵn trong “Tâm”. Bởi vậy, có những cái không học mà vẫn làm được, đó là
lương năng; có cái không nghĩ mà hiểu
ra, đó là lương tri. Tuy nhiên, nếu
cái “Tâm” ấy không được tu dưỡng, không được đào sâu và làm triển nở mỗi ngày,
nó sẽ mai một và chìm sâu trong u tối. Với định hướng thành toàn con người, Mạnh
Tử đã kết luận cách tổng quát về triết lý nhân sinh của mình:
“Tận kỳ tâm giả,
tri kỳ tính dã.
Tri kỳ tính dã, tắc tri Thiên hĩ.
Tồn kỳ
tâm, dưỡng kỳ tính. Sở dĩ sự Thiên dã”.
Ý nghĩa như sau:
Trọn hết
cái tâm của mình thì biết cái tính của mình.
Biết được
cái tính của mình thì biết đến Trời vậy.
Giữ được
cái tâm của mình, nuôi được tính của mình là để phụng sự Trời vậy.
Giữ được cái tâm, nuôi được cái tính là
chuyện không dễ chút nào giữa cảnh đời đổi trắng thay đen, vàng thau lẫn lộn. Mặt
khác, con người từng phút phải đối mặt với những cơn sóng dục vọng không ngừng
nổi lên, khiến nhiều lúc không còn nhận biết chính mình nữa.
Truyện cổ Ấn Độ kể rằng có một chú chuột
nhắt bị trầm uất thê thảm vì lúc nào cũng phập phồng lo sợ các chú mèo. Một
pháp sư thấy vậy thương tình biến nó thành mèo. Thế nhưng chú mèo đó lại sợ
chó. Pháp sư lại hóa phép cho nó thành chó. Sau khi đã thành chó, nó đâm ra sợ
con báo. Thế là pháp sự phải biến nó thành một con báo. Bấy giờ nó lại sợ đám
thợ săn. Tới như vậy rồi thì vị pháp sư cũng đành bó tay. Ông suy nghĩ và biến
nó trở lại thành chú chuột nhắt như trước kia, và nói: “Tao có biến mày thành giống gì đi nữa thì cũng vô ích thôi, bởi vì cái
tâm của mày vẫn là cái tâm con chuột”.[4]
Cuộc sống con người
cũng thế, điều quan trọng không phải là thay đổi cách thức hay hình dạng bên
ngoài, không phải là trở thành dòng giống này, hàng ngũ khác hay một hạng người
nào đó, mà là những thay đổi bên trong (x. Mc 7, 21). Phải thay đổi từ chính
thâm tâm mình: một cái tâm được gạn đục khơi trong để tỏa sáng tận ngọn nguồn,
để tự mình vực dậy giữa cuộc sống đầy rối ren và phức tạp; để vững vàng giữa những
bất trắc và lôi cuốn tứ phía; để biết thu dụng tất cả mà phong phú hóa chính
mình.
Như vậy khi đối diện với chính mình, điều
tiên quyết là phải xét xem mình đã phát khởi và phát huy cao độ tâm chất làm
người chưa? Nghĩa là mình còn nhạy bén về
lòng nhân ái không? Còn biết hổ thẹn với những việc làm thiếu chân chính không?
Còn khả năng nhường nhịn để sống an hòa với mọi người không? Còn đủ can đảm để
thể hiện sự chân thật không? Và hơn nữa, còn là chính mình với một tâm hồn
trong sáng, vững vàng trong sự thiện không?
Một văn sĩ đã viết: “Đời sống con người không phải là một xa lộ tốc hành nối liền từ cái
nôi đến ngôi mộ”. Điều đáng tiếc là nhiều lúc ta đã biến đời sống mình thành một cuộc chạy đua không đích điểm
trên xa lộ ấy, chỉ mong được việc và đạt được mục tiêu như cái máy vô hồn, chứ
không hề sống cuộc đời mình. Trong khi đó, muốn đối diện với chính mình, thì phải
biết dừng lại để nhìn, để ngắm, để trở lại là mình, và tận hưởng cái đẹp thật
huyền diệu mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người trong vũ trụ bao la này.
Cuộc
sống sẽ biến ta trở nên lạnh lùng, giả tạo khi chỉ biết chạy mà không biết dừng.
Không có điểm dừng thì cũng sẽ không có
điểm tới. Điểm tới chỉ dành cho ai có khả năng biết dừng. Dừng lại không chỉ
từng ngày mà còn từng sự việc, từng vấn đề, từng biến cố. Đừng để áp lực công
việc đè nặng trên ta, khiến tâm hồn khô cạn, khiến đời sống chỉ còn là một chuỗi
bổn phận khô khan, tẻ nhạt, không tình yêu, không niềm vui. Đừng để những ham
muốn của mình hay những kỳ vọng của người khác trấn áp, nhận chìm ta trong cảm
giác mệt mỏi, nặng nề, nhụt chí, không còn hứng thú để dò tìm và khám phá những
bí ẩn nơi chính mình. Thiếu khả năng dừng lại thì dù có nhìn cũng không thấy,
nghe cũng không hiểu (x. Lc 10, 8).
Không
phải cứ nhìn mà thấy. Điều quan trọng là hướng nhìn và cách nhìn. Nhìn giỏi
không phải là nhìn người khác hay nhìn sự việc bên ngoài, nhưng trước tiên là
nhìn vào bản thân, để thấy được chính mình. Ai không nhìn rõ bản thân thì cũng
chẳng nhìn thấy thực tế của tha nhân và ý nghĩa của các sự việc diễn ra quanh
mình.
Sự
dừng lại tạo nên một khoảng trống tĩnh lặng, đưa con người vào trạng thái đối
diện với chính mình. Vì thế, nhiều người rất sợ khi phải dừng, sợ phải đối diện
với chính mình, sợ thấy những điều mình không muốn thấy, nhưng lại là những điều
nhất thiết phải thấy: thấy rõ bộ mặt thật của mình, thấy những cái đáng lo ngại
trước lối sống và hiện trạng của mình; thấy mặt trái của nhân cách mà mình
không thể tiếp tục che giấu…
Nhìn
mà thấy được đã là tốt rồi, dù thấy những điều không tốt. Chính những cái tiêu
cực, xấu xa, là những cái cần thấy, và phải tập để có khả năng nhận diện chúng,
để thiết định lại trong ta một trật tự mới, một cách sống mới. Thấy chính xác
và ghi nhận trung thực về mình chứng tỏ đôi mắt tâm hồn vẫn còn sáng, “để
trở nên con cái ánh sáng” (Ga 12, 36).
Nhìn
thấy dẫn tới tự do, vì nó cho ta một chân trời riêng, không lệ thuộc dư luận,
không chạy theo tình cảm. Tuy nhiên, quan trọng vẫn là cách nhìn. Nếu nhìn một
cách bi quan yếm thế, hoặc quá lạc quan ngây thơ, đều đưa đến một lối sống lệch
lạc. Nếu là cái nhìn phê phán, tính toán, kỳ thị, loại trừ… ta sẽ chỉ thấy mọi
sự rời rạc, tiêu cực và tan tác. Nếu chiếu cái nhìn thuần phác và thuần nhất,
ta sẽ gặp được một phối cảnh toàn mỹ, và như vậy ta bắt gặp ý nghĩa thâm sâu
nơi mọi người, mọi sự. Chính cái hữu hình mở ra cho ta cái vô hình.
Thật
ra, mọi cái nhìn đều bắt nguồn từ chính lòng mình, từ tâm trạng của mình. Lòng
bất an, tâm trạng bất ổn, thì sẽ thấy toàn nhiễu nhương. Đôi mắt đầy lòng kiêu
hãnh và ghen ghét thì thấy toàn những cái hơn thua và đố kỵ. Hơn nữa, mọi cái
nhìn từ bên ngoài đều phải được thanh lọc từ bên trong, thì mới mong thấy được
bản chất của sự vật, sự việc và con người.
Sự dừng lại giúp ta đủ sáng để thấy được điều ta có thể trở thành, nghe được điều mà ta phải trở nên, hiểu được điều mà ta phải trở về, và cảm được điều mà ta đang thiếu, như thi
sĩ Mark Strand đã nói: “Dù tôi ở đâu, tôi
là những gì tôi thiếu”.
Người
khiếm thị bị cách ly với sự vật, người điếc bị cách ly với con người. Hay nói
theo Lorenz Oken: “Mắt đưa con người vào
trong thế giới, tai đưa thế giới vào trong con người”. Con người được ban
cho khả năng không chỉ nghe được tiếng
nói, hiểu được lời nói, mà còn nhận
ra giá trị của cách nói và ý nghĩa của
giọng nói: gần gũi hay xa cách, yêu
thương hay hững hờ, cảm thông hay chỉ trích, rộng mở hay khép kín, chân thành
hay giả bộ, v.v… Nhiều cuộc đối thoại bị thất bại vì đối tác không có khả năng
nghe, vì đương sự muốn áp đặt lý lẽ của mình trên người khác, vì đã có hậu ý và
thành kiến đối với nhau.
Thế giới chứa đầy những âm thanh phức tạp, trong đó vang
vọng cả tiếng Chúa. Nếu ta không nghe được âm điệu của Thiên Chúa trong tạo vật,
chính vì tai ta chứa đủ thứ tiếng động
của môi trường chung quanh, vì trí ta
chứa đựng những ý nghĩ xáo trộn, vì lòng
ta chứa đầy những tâm tình ngổn ngang. Héraclite mời gọi: “Hãy nghe lời thiêng nơi mọi sự trong thế giới”.
Nếu ta dồn hết tâm trí để lắng nghe, chắc chắn ta sẽ cảm được điều Thiên Chúa
muốn nói.
Muốn
nghe được người khác, nghe được tạo vật, trước tiên phải nghe được chính mình.
Chẳng ai có thể hiểu được tâm hồn của tha nhân khi chưa tường tận bản thân
mình. Chẳng ai có thể sống chân thật và trọn vẹn khi chưa biết lắng nghe tiếng
lòng mình. Brendt mời gọi ta:“Hãy nghe bạn
đi! Hãy nghe ở bạn! Hãy lắng nghe bạn! Hãy thuộc về bạn!”.
Lắng
nghe là bản chất hay chân tướng của Chúa Thánh Linh. Chính Ngài lắng nghe tiếng
lòng ta thổn thức và dạy ta biết lắng nghe tiếng Ngài, luôn vang vọng và thúc đẩy
từ đáy hồn ta. Chính nhờ thiện chí, sẵn lòng lắng nghe trong khiêm tốn, con người
được dần biến đổi.
Tích
cực lắng nghe là mở ngõ cho Thiên Chúa đi sâu vào lòng mình, để tiếng nói của
Ngài vang dội khắp nơi trong ta. Từ việc lắng
nghe, ta tiến đến vâng nghe.
Trong việc vâng nghe, ta trở nên người của Thiên Chúa, và sống hòa hợp với Ngài
trong mọi sự. Nhưng rồi lòng chúng ta vẫn luôn bị truy cản, do nhiều tạp âm của thế sự, bởi những ngờ vực và
nghi nan, từ những đam mê và ham muốn sự đời. Dừng lại là một tâm thế chủ động
nhằm chặn đứng và tẩy xóa những vùng nhiễu âm đang khuấy động trong ta, để có
thể nghe được tiếng vang dội thâm sâu tận lòng mình.
Sự thờ
phượng đích thực chỉ có nơi tâm hồn đang phơi bày một cách chân thực và an tĩnh
trong Chúa. Chính trong môi trường thuận lợi này,
Thiên Chúa mới có cơ hội làm nên cuộc đời mỗi người theo cách thức của Ngài.
Đời người không thiếu những trắc trở, uẩn khúc, hỗn độn
và nhập nhằng trong tâm hồn. Ngày nào chưa phát hiện, nhận diện và phơi bày chúng
dưới ánh sáng chân thật, thì đời sống vẫn còn mò mẫm trong bóng tối. Do đó, điều
tiên quyết cần làm là phải thiết lập những trạm dừng hồi tâm, phải can đảm đối
diện và dò thấu chính mình. Phải biết trải dài các trạm dừng trên đường đời,
không chỉ những lúc nào đó, mà cón là một phản tỉnh liên tục, để thấy mình thực
sự đang sống, đang hành động, đang nói năng, đang thể hiện tính cách qua mọi
nơi mọi lúc.
Chủ
nghĩa an phận khiến con người dễ nhắm mắt làm ngơ trước sự thật, sự thiện, hay
trước những liên đới trách nhiệm mà mình không muốn thấy, không muốn nghe và
không muốn tìm hiểu thêm. Thái độ an phận làm tê liệt đời sống tinh thần, bóp
nghẹt mọi khả năng. Cứ tưởng như vậy là an thân yên vị, nhưng thực ra ta đang sống
ngụy tạo. Chỉ khi can đảm nhận sự thật và sống trong sự thật, ta mới được giải
thoát khỏi chính mình, và thực sự là mình.
Điều này gợi lại tình cảnh bệ rạc của người con trai
hoang đàng khi anh ta thốt lên: “Tôi sẽ đứng
dậy và trở về cùng cha tôi” (Lc 15, 17). Anh chỉ đứng dậy khi đã tỉnh trí
sau đà thác loạn, khi biết đối diện với chính mình để chân nhận sự thật, để
không còn ảo tưởng về mình, về cuộc sống, về con người. Phải can đảm vượt lên
chính mình mới biến nỗi buồn thành niềm vui, biến ước mơ thành hiện thực.
Thật ra, điều cuối
cùng mà ai cũng khao khát và chờ đợi chính là tình yêu: để yêu và để được
yêu cách sung mãn tràn đầy. Tình yêu chân thật được gạn lọc và đúc kết qua sai
lầm và cay đắng, qua vấp váp và đau thương, qua thất bại và sa ngã, qua yếu nhược
và những lần thất vọng, nhưng cũng phải là một ý chí kiên cường để làm lại tất
cả trong sự thật. Đời sống con người phi thường là thế. Khổ đau và mất mát giúp
ta tìm lại được sự thật về chính mình.
5. Để biết tĩnh lặng và chìm sâu trong chân lý
Tĩnh
lặng tâm hồn là một nghệ thuật đang bị mất dần giữa thế giới ngày càng ồn ào và
xáo động tứ phía. Âm thanh ngoại giới như chiếm cứ toàn bộ cuộc sống từ bình
minh đến khi đêm về. Âm thanh đó như che lấp và phủ kín âm thanh của tâm hồn,
khiến con người mất hẳn khả năng đối diện với chính mình. Điều đáng ngại hơn nữa
là những lo lắng, toan tính, những tư tưởng ngổn ngang đang chồng chất trong
não bộ, khuấy động tâm tư. Một vị tổ phụ đã nói: “Cũng như mình không thể thấy khuôn mặt của mình trong dòng nước đục, thì
tâm hồn nào còn vướng bận các tư tưởng xáo trộn cũng không thể nào cầu nguyện
được”.
Tĩnh
lặng không chỉ là điều kiện tối cần để cầu nguyện, để nhận ra dung mạo tâm hồn,
mà còn để nhận ra tiếng gõ cửa, mời mọc từ bên ngoài, những quyến rũ của môi
trường xung quanh, và đầy những hình ảnh gợi lên ham muốn từ bên trong. Tĩnh lặng
còn là chốn nghỉ ngơi để phục hồi sức khỏe thể xác và nghị lực tinh thần, hầu
tiếp tục khơi sáng mọi vấn đề trong cái nhìn toàn diện và chân chính.
Thiếu
khoảng trống tĩnh lặng, Thiên Chúa không thể lên tiếng, vì con người không muốn
nghe, hoặc chưa sẵn sàng nghe. Tĩnh lặng là con đường ngầm sâu kín, mà mỗi tâm
hồn phải tự giác đi xuống, lặng lẽ nhập cuộc, để được gặp gỡ, hiệp thông và
chìm sâu trong Ngài. Và như vậy, đối diện
với chính mình cũng là đối diện với chính Chúa, Đấng đang sống trong tôi, luôn chờ đợi tôi trong tĩnh lặng và
thanh thản của tâm hồn.
Một
ngày không tĩnh lặng là một ngày ta không hiện diện, không có mặt, không sống
cuộc sống mình, là một ngày vắng bóng Thiên Chúa. Ngày không có Chúa quả là trơ
trọi, chẳng biết sống cho ai, vì ai, đi đâu, về đâu, phải chăng chỉ còn lại tăm
tối trong căn nhà nội tâm. Tâm hồn sẽ trở nên loạn lạc khi mất đi khu vực tĩnh
lặng. Khu vực này phải được bảo toàn hằng ngày, vì đó là quang cảnh thần thiêng
mà ta được gặp Chúa. Trong quang cảnh đó, ánh sáng nhiệm mầu của Chúa sẽ chiếu
dọi, tâm hồn ta được thanh tẩy trong bình an và tình yêu của Ngài.
Tóm
lại, không quá khó khi ta vượt lên chính mình, mà khó ở chỗ có dám đối diện với
mình không? Một sự đối diện được đặt dưới tình yêu và nhãn quan của Thiên Chúa
qua Đức Giêsu Kitô, dưới sự thôi thúc của Thánh Thần, để hướng chúng ta tới sự
thành toàn cao đẹp nhất trong ơn cứu độ.
Lời nguyện
Lạy Chúa!
Ít khi con dành giờ để đối diện với chính mình.
Vô tình hay hữu ý, con biến đời sống mình
thành cuộc chạy đua không đích điểm.
Cuộc sống con trở nên lạnh lùng, trống vắng,
khi chỉ biết chạy mà không biết dừng.
Con cứ để áp lực công việc đè nặng,
khiến tâm hồn khô cạn, lối sống khô khan,
trí não khô cứng, tình yêu khô cằn.
Nội tâm con không thiếu những uẩn khúc,
nhập nhằng, cả những lấm láp và hoen ố.
Con xấu hổ, nhưng không ngại phơi trần
dưới ánh sáng chiếu soi của Chúa.
Xin cho con biết đối diện với chính mình,
để thấy được điều con phải trở thành,
nghe được điều con phải trở nên,
hiểu được điều con phải trở về,
và cảm được điều làm con trở bước.
Xin cho con dám đối diện với thâm tâm,
cũng là đối diện với
chính Chúa,
Đấng đang khởi sắc lại đời con. Amen.
Lm.
Thái Nguyên
[1] Nguyễn Đăng Thục, Lịch
sử triết học phương Đông, NXB Tự điển bách khoa, 2006. tr. 200-2002.
[2] Thông Điệp của Đức Bênêđictô XVI, 29-06-2009.
[3] Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử triết học phương Đông, NXB Tự điển bách khoa, 2006. tr. 202-2004.
[4] Anthony de Mello, Cái
tâm của kẻ sáng, 2008, tr. 16.