(catechesis.net) November 12,
2018
Văn kiện mang giọng điệu nói
chuyện thân mật cha con. Đức Phao-lô VI ôn lại giáo huấn của Va-ti-ca-nô II về đời
tu và quảng diễn vài khía cạnh do thời thế đặt ra, thí dụ việc sống khó nghèo
hay đời sống cộng đoàn. Tông thư trình bày những giá trị thần học của đời tận
hiến dưới ánh sáng của Tin Mừng; những quy tắc pháp lý hầu như hoàn toàn vắng
bóng. Đức thánh cha nhấn mạnh tới việc củng cố con người nội tâm, nguyên lý
thống nhất toàn thể cuộc sống (xem số 31-34 ; 43-45).
Bố cục gồm có bốn phần, không
kể nhập đề và lời nhắn nhủ cuối cùng.
Nhập đề : Chứng tá Phúc Âm giữa
Dân Thiên Chúa (1-6)
I/ Những hình thức của đời tu :
chiêm niệm ; hoạt động tông đồ. Tất cả đều đòi hỏi phải kết hợp với Chúa (7-12)
II/ Những cam kết chính yếu :
ba lời khấn khiết tịnh (13-15), khó nghèo (16-22), vâng phục (23-29).
III/ Lối sống : chứng tá về đời
sống nội tâm (30-38) và huynh đệ (39-41)
IV/ Việc canh tân và tăng
trưởng thiêng liêng : cầu nguyện, thinh lặng, thông dự bí tích và tham gia vào
sứ mạng Giáo Hội (42-40)
Lời nhắn nhủ cuối cùng (51-56)
Các con thân mến, trong Đức
Giê-su Ki-tô,
Chứng tá Phúc Âm của đời tu
biểu dương trước mắt mọi người địa vị thượng đẳng của tình yêu Thiên Chúa, với
sức hùng mạnh mà chúng ta phải tạ ơn Chúa Thánh Thần. Với tấm lòng rất đơn sơ,
như Đức Gio-an XXIII vị tiền nhiệm đáng kính của Ta đã nói những ngày trước
công đồng (1), Ta muốn nói với các con rằng : lòng quảng
đại cao siêu của những người nam, nữ đã hiến dâng cuộc đời mình cho Chúa trong
tinh thần cũng như trong sự tuân giữ những lời khuyên Phúc Âm, đã gieo vào lòng
Ta, vào lòng các vị chủ chăn, cũng như các tín hữu trong Giáo Hội một niềm hy
vọng lớn lao ! Ta mong muốn giúp đỡ các con tiến bước trên con đường theo Đức
Ki-tô trong sự trung thành với giáo huấn của Công Đồng.
Làm như thế Ta có ý đáp lại một
hiện trạng lo lắng, bấp bênh, và không vững của một số người trong chúng con,
đồng thời cũng muốn khích lệ những ai đang tìm cách canh tân đời tu một cách
đúng đắn. Hiện có một vài sự sửa đổi táo bạo vì thiếu suy tư, một tâm trạng ngờ
vực quá đáng đối với quá khứ, cả khi quá khứ đó biểu dương sự khôn ngoan và
sinh lực của những truyền thống trong Giáo Hội. Cũng đang có một não trạng quá
lo lắng để thích nghi một cách hấp tấp với những biến chuyển ngấm ngầm đang làm
lung lay thời đại chúng ta, do đó mà một số người cho rằng có những phương thức
cố hữu của đời tu đã lỗi thời rồi. Người ta đã chẳng lạm dụng nại đến Công
Đồng, để đặt lại vấn đề tu trì cả trên căn bản đấy ư ? Nhưng chính họ cũng biết
Công Đồng đã nhìn nhận đời tu là một “hồng
ân đặc biệt” của Thiên Chúa và có một chỗ đứng cũng đặc biệt trong đời sống của
Giáo Hội. Thực thế, những ai tiếp nhận hồng ân ấy có thể theo sát Chúa
Ki-tô “trong
đời sống trinh khiết và khó nghèo mà chính Chúa Ki-tô đã chọn lấy cho mình cũng
như Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Người đã ôm ấp” (2). Chính Công Đồng cũng vạch ra đường lối để
hồng ân trên được canh tân theo Phúc Âm (3).
Tưởng không cần nói chúng ta
cũng biết, ngay từ buổi sơ khai, Giáo Hội đã đặc biệt cho thấy : có những con người
kiên tâm tìm kiếm Thiên Chúa và hiến dâng cho Đức Ki-tô một mối tình không chia
sẻ và triệt để tận tuỵ với công việc mở Nước Chúa. Không có dấu chỉ cụ thể đó,
thì Đức Ái của toàn thể Giáo Hội có nguy cơ nguội đi, nghịch lý cứu độ của Phúc
Âm sẽ mai một và “muối”
đức tin cũng sẽ phai lạt trong một thế giới đang bị tục hoá.
Ngay từ những thế kỷ đầu, Chúa
Thánh Thần đã thúc đẩy những vị tử đạo tuyên xưng đức tin một cách anh hùng, và
đã soi sáng thúc đẩy các trinh nữ, các đấng ẩn tu cương quyết một cách lạ lùng.
Đời tu đã manh nha và dần dần cảm thấy nhu cầu ngày một gia tăng phải triển nở
và phải biến đổi các hình thức sống thành lối sống cộng đoàn hay đơn tu để đáp
lại lời mời gọi khẩn thiết của Đức Ki-tô : “Không ai từ bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì
Nước Thiên Chúa mà chẳng được gấp bội ngay ở đời này và mai hậu sẽ được sống
đời đời.” (4)
Ai dám cho rằng lời kêu gọi ấy
ngày nay không còn giá trị và sức mạnh như xưa nữa và Giáo Hội có thể để mất
những chứng từ phi thường ấy của tình yêu siêu việt Đức Ki-tô ? Ai dám cho rằng
thế gian có thể làm cho những ánh sáng ấy tắt lịm đi mà không thiệt hại gì,
những ánh sáng loan báo Nước Thiên Chúa với một sự tự do không có gì cản trở
được, một sự tự do vẫn được hàng vạn các con cái nam nữ mình theo đuổi hằng
ngày ?
Hỡi các tu sĩ nam nữ thân mến,
các con đã muốn thực hành những lời khuyên Phúc Âm để theo Đức Ki-tô một cách
tự do hơn và bắt chước Người một cách trung thực hơn, bằng việc hiến dâng cho
Thiên Chúa trót cuộc đời của các con, bằng một việc tận hiến đặc biệt ăn sâu
vào việc thánh hiến của phép thánh tẩy và diễn tả phép thánh tẩy một cách sung
mãn hơn. Chớ chi các con hiểu được tất cả lòng kính trọng và tình yêu mến mà Ta
mang đến cho chúng con nhân danh Đức Ki-tô Giê-su ! Ta gửi gắm các con cho các
chư huynh rất thân mến của Ta trong hàng Giám mục, các vị này cùng với các linh
mục là những cộng tác viên trong hàng tư tế nhận thấy trách nhiệm của chính
mình đối với đời tu. Và đối với tất cả các giáo dân, những người đảm nhận cách
chuyên biệt nhưng không độc hữu, các nghề nghiệp và sinh hoạt trần thế (5), ta xin họ hãy hiểu rằng chúng con là một
sự thúc đẩy quý hoá đối với họ trong công cuộc tìm kiếm sự thánh thiện mà họ đã
được mời gọi đến nhờ phép thánh tẩy trong Đức Ki-tô để làm vinh danh Chúa
Cha (6).
Hẳn có nhiều yếu tố bên ngoài,
do các đấng lập dòng chủ trương xưa, ngày nay được xác nhận là không còn hợp
thời. Có một ít điều chồng chất lại từ năm này qua năm khác khiến đời tu trở
thành nặng nề, cứng ngắc, cần phải được bỏ bớt. Những sự thích nghi cần phải
được thực hiện. Những hình thức mới cũng phải được nghiên cứu và thiết lập với
sự chuẩn y của Giáo Hội. Đó là việc mà nhiều Dòng đã mau lẹ thực hiện từ mấy
năm nay bằng cách đem ra thí nghiệm, đôi khi quá táo bạo, hiến pháp và luật lệ
đã được canh tân : Ta biết điều đó và Ta cũng lưu tâm đến cố gắng canh tân mà
Công Đồng mong muốn (7).
Ngay giữa tiến trình năng động
này, tinh thần thế tục thường tìm cách chen vào hành động của Chúa Thánh Thần,
Ta biết làm cách nào để giúp các con có được phân định cần thiết ? Làm cách nào
để duy trì và đạt tới điều thiết yếu ? Làm cách nào để lợi dụng kinh nghiệm
trong quá khứ và suy nghĩ trong hiện tại để củng cố hình thức sống theo Phúc Âm
này ? Phần Ta, theo trách nhiệm đặc biệt mà Thiên Chúa đã trao phó cho Ta trong
Giáo Hội là “củng
cố các anh em Ta” (8), Ta muốn khích lệ các con hãy tiến bước
một cách vững chắc hơn và với lòng tín thác vui tươi hơn trên con đường mà các
con đã chọn. Trong việc tìm kiếm đức ái hoàn hảo (9), đức ái điều khiển đời sống các con, các
con còn phải có thái độ nào, nếu không phải là hoàn toàn sắp đặt để Chúa Thánh
Thần, Người hành động trong Giáo Hội, mời gọi các con đến hưởng quyền tự do của
con cái Thiên Chúa (10) ?
Các con thân yêu, chính vì các
con đã tự ý đáp lại lời mời gọi của Chúa Thánh Thần mà quyết định theo Đức
Ki-tô bằng cách dâng hiến trọn vẹn chúng con cho Người. Từ nay, những lời
khuyên Phúc Âm về khiết tịnh tận hiến cho Thiên Chúa, về khó nghèo và vâng lời
trở thành luật lệ của đời sống các con. Công Đồng nhắc lại cho chúng ta
rằng “quyền
bính của Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, đã ân cần giải thích
và quy định cách thực hành ba lời khuyên Phúc Âm, nhờ đó thiết lập nên những
hình thức sống vững vàng” (11). Vì thế, Giáo Hội công nhận và chứng thực
đời sống được cấu tạo bởi việc tuyên khấn ba lời khuyên Phúc Âm : “Nhờ lời khấn hoặc nhờ
những mối dây thánh khác tương tự như lời khấn, người Ki-tô hữu tự buộc mình
thi hành ba lời khuyên, họ hiến toàn thân cho Thiên Chúa mà họ yêu mến trên hết
mọi sự… Nhờ bí tích thánh tẩy, họ đã chết cho tội lỗi và tận hiến cho Thiên
Chúa ; nhưng để có thể lĩnh nhận dồi dào hơn ơn thánh của bí tích thánh tẩy, họ
chủ tâm nhờ việc khấn giữ ba lời khuyên Phúc Âm trong Giáo Hội, để được giải
thoát khỏi những ngăn trở có thể làm họ trì trệ trong nhiệt tình đức ái, và
trong sự thờ phượng Thiên Chúa cách hoàn hảo. Nhờ những lời khấn ấy, họ được
hiến dâng một cách tận tình hơn để phụng sự Thiên Chúa, sự tận hiến đó càng
hoàn hảo hơn nhờ những mối dây bền chặt hơn, càng biểu dương Đức Ki-tô hợp nhất
với Giáo Hội, hiền thê của Người, do một mối dây bất khả phân ly” (12).
Giáo huấn trên đây của Công
Đồng làm sáng tỏ sự cao cả của việc các con tự do hiến thân theo gương hiến
thân của Đức Ki-tô cho Giáo Hội, do đó các con đã hiến thân hoàn toàn và không
đòi lại. Chính vì Nước Trời mà các con đã quảng đại hiến dâng cho Đức Ki-tô
trọn tình yêu mãnh liệt và nhu cầu sở hữu cũng như quyền tự do quy định đời
sống, là những thứ rất quý hoá đối với con người. Đấy là việc tận hiến của các
con, việc tận hiến được thực hiện trong Giáo Hội và nhờ thừa tác vụ của Giáo
Hội, hoặc do các vị đại diện Giáo Hội nhận lời khấn dòng, hay do cộng đoàn
Ki-tô hữu, mà tình yêu công nhận, đón tiếp, nâng đỡ và bao bọc những người hiến
thân trong cộng đoàn như một dấu chỉ sống động “có thể và phải thúc đẩy một cách có hiệu quả
tất cả các phần tử trong cộng đoàn chu toàn một cách can đảm những nhiệm vụ của
ơn gọi Ki-tô hữu… làm cho tất cả các phần tử ấy thấy được ngay ở đời này những
của cải trên trời” (13).
Một số người trong các con được
mời gọi sống cuộc đời “chiêm
niệm”. Một sức quyến rũ bất khả kháng đã lôi kéo chúng con lại với Chúa. Được
Thiên Chúa chiếm cứ, các con đã hiến thân cho hành động tối cao của Người, hành
động nâng chúng con lên với Người, biến hoá chúng con trong Người và chuẩn bị
chúng con để sống cuộc chiêm niệm muôn thuở, là ơn kêu gọi chung của tất cả
chúng ta. Làm sao các con có thể tiến tới được trên con đường ấy và trung thành
với ơn thánh đang thúc đẩy các con, nếu các con không đem trọn tâm hồn và đời
sống để đáp lại lời kêu gọi hướng các con về với Thiên Chúa một cách vững bền,
nhờ một động lực là tình yêu ? Các con hãy coi mọi hoạt động trực tiếp khác mà các
con phải đương đầu –những mối liên hệ huynh đệ, công việc không vụ lợi hay có
lợi lộc, việc giải trí cần thiết, cùng những hoạt động giống như vậy– như một
bằng chứng tỏ cho Chúa biết rằng chúng con sống kết hợp thân mật với Người, để
Người ban cho chúng con cái ý hướng hợp nhất tinh tuyền, là điều rất cần để các
con gặp được Người trong chính lúc cầu nguyện. Như thế các con sẽ cộng tác vào
việc mở rộng Nước Thiên Chúa nhờ chứng tá của đời sống chúng con và nhờ “việc tông đồ tuy âm thầm
nhưng phong phú” (14).
Một số người khác hiến thân làm
việc tông đồ trong sứ mệnh chính yếu nhất, tức là rao giảng Lời Thiên Chúa cho
những ai mà Thiên Chúa uỷ cho những người ấy phải tiếp đón để dẫn đưa họ về với
đức tin. Một ơn vĩ đại như thế đòi hỏi phải sống kết hợp mật thiết với Chúa, để
có thể truyền thông sứ điệp của Ngôi Lời nhập thể, tuy sử dụng ngôn ngữ mà thế
gian có thể hiểu được. Tất cả đời sống chúng con rất cần được tham dự vào cuộc
thương khó, sự chết và sự vinh quang của Chúa ! (15)
Và khi chúng con được mời gọi đảm
nhiệm những trách vụ khác để phục vụ nhân loại – đại khái như hoạt động mục vụ,
truyền giáo, dạy học, từ thiện và các việc tương tự, – chẳng phải lòng nhiệt
thành gắn bó với Chúa trước tiên sẽ làm cho các việc ấy trở nên phong phú, tuỳ
theo mức độ kết hiệp với Chúa “trong
thầm kín” (16) đó sao ? Nếu chúng ta muốn trung thành
cẩn thủ giáo huấn của Công Đồng, chẳng phải “các phần tử thuộc bất cứ Dòng tu nào, khi
tìm kiếm một mình Chúa trên hết mọi sự cũng cần phải đem việc suy niệm khiến
tâm hồn hợp nhất với Chúa kết hợp với lòng nhiệt thành tông đồ, gắng tham gia
công cuộc cứu chuộc và cổ võ việc mở rộng nước Thiên Chúa” (17) đó sao ?
Chỉ có như thế, các con mới có
thể hướng tâm hồn lên đón nhận chân lý và tình yêu Thiên Chúa theo đoàn sủng
của các đấng sáng lập Dòng chúng con, mà Thiên Chúa đã làm cho xuất hiện trong
Giáo Hội. Công Đồng có lý khi nhấn mạnh về nghĩa vụ các tu sĩ nam nữ phải trung
thành với tinh thần của đấng sáng lập, trung thành với những ý hướng Phúc Âm và
gương thánh thiện của các ngài. Họ cũng phải nhìn thấy một trong những nguyên
tắc canh tân hiện hành và một trong những tiêu chuẩn hoạt động chắc chắn nhất
khi mỗi hội Dòng phải tra tay làm (18). Đoàn sủng đời tu thật ra không phải là
một sự thúc đẩy sinh ra “bởi
huyết nhục” (19) hoặc phát xuất do một tâm trạng “hoà theo thế giới hiện
tại” (20),
nhưng chính là hoa quả của Chúa Thánh Thần, Đấng luôn luôn hoạt động trong Giáo
Hội.
Đoàn sủng của các đấng lập dòng
là nguồn năng động riêng của mỗi Hội Dòng. Tuy rằng lời Thiên Chúa mời gọi được
canh tân và thay đổi hình thức tuỳ theo những điều kiện biến chuyển về không
gian và thời gian, nhưng luôn đòi phải có hướng tiến vững bền. Lòng sốt sắng
đáp lại ơn thiên triệu trong chính đời sống con người đã vạch ra những bước
đường căn bản và đặc biệt phải lựa chọn. Sự trung thành với những đòi hỏi gặp
trên bước đường ấy là đá thử vàng để xem đời tu có xác thực hay không. Chúng ta
đừng nên quên điều này là mọi tổ chức của nhân loại đều có thể bị mòn mỏi,
khiến quy luật trở nên khô khẳng và có nguy cơ chỉ còn lại hình thức. Sự chăm
chú giữ luật bề ngoài tự nó không đủ để bảo đảm giá trị của cuộc sống ấy. Vì
thế luôn luôn phải hồi sinh những hình thức bên ngoài bằng những cố gắng bên
trong, nếu không có sự cố gắng này, những hình thức bên ngoài không bao lâu sẽ
trở nên một gánh nặng.
Qua những cách sống khác nhau,
nhờ đó mà mỗi Dòng mang một sắc thái riêng biệt và bắt nguồn trong ơn thánh
sung mãn của Đức Ki-tô (21)
chúng ta thấy luật tối thượng, hay quy tắc tối hậu của đời tu, là theo Chúa
Ki-tô theo giáo huấn Phúc Âm. Chẳng phải nỗi lo âu này đã khơi lên trong Giáo
Hội, qua các thế kỷ, đòi hỏi của một đời sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời
đó sao ?
Cần phải nhắc lại rằng chỉ có
tình yêu Thiên Chúa mới kêu mời người ta dứt khoát giữ đức khiết tịnh tu trì.
Vả lại, tình yêu ấy đòi hỏi một cách khẩn thiết tình bác ái huynh đệ đến nỗi tu
sĩ phải sống một cách rất sâu đậm với những người đồng loại trong trái tim của
Đức Ki-tô. Giữ được điểm này, đời tận hiến cho Thiên Chúa và cho tha nhân sẽ là
nguồn phát sinh một sự bình an sâu thẳm. Chúng ta không nên miệt thị tình yêu
nhân loại và hôn nhân, – theo đức tin, tình yêu này chẳng phải là hình ảnh và
là sự tham dự của mối tình phu phụ giữa Chúa Ki-tô và Giáo Hội đó sao (22)
? Đức khiết tịnh tận hiến nhắc lại cuộc duyên tình ấy một cách trực tiếp hơn và
làm cho mối tình ấy vươn đến một cao độ mà lẽ ra mọi tình yêu nhân loại phải
gắng đạt tới. Lúc này, hơn bao giờ hết tình yêu nhân loại bị đe doạ bởi một
thứ: “Ái
tình cuồng loạn” (23)
chúng ta phải hiểu và phải sống đức khiết tịnh với một lòng thẳng thắn và quảng
đại hơn bất cứ lúc nào. Khiết tịnh là một nhân đức tích cực chứng tỏ tình yêu
Chúa được đề cao hơn hết, và biểu dương một cách chói lọi và tuyệt đối mầu
nhiệm kết hợp giữa Nhiệm Thể với vị Thủ Lãnh, giữa Hiền Thê với Bạn Trăm Năm
muôn thuở. Sau cùng, nhờ trở nên giống Chúa Ki-tô một cách huyền diệu, đức
khiết tịnh chi phối, biến đổi và thấm nhập vào tận ngóc ngách sâu thẳm nhất của
trái tim con người.
Các tu sĩ nam nữ thân yêu, các
con cần phải phục hồi hiệu lực hoàn hảo của linh đạo Ki-tô giáo về đức khiết
tịnh tận hiến cho Thiên Chúa. Khi đức khiết tịnh được tuân giữ một cách thiết
thực vì Nước Trời, thì nó sẽ giải thoát lòng người, và như thế sẽ trở nên “một dấu chỉ, một khích lệ
cho đức ái và một suối nguồn đặc biệt phát sinh sự phong phú thiêng liêng trong
thế giới” (24).
Mặc dầu trần gian không luôn luôn nhìn nhận đức khiết tịnh nhưng đức ấy vẫn
luôn gây được hiệu lực huyền bí giữa lòng trần gian.
Về phần Ta, Ta xác tín rằng :
giá trị và sự phong phú của đức khiết tịnh, được tuân giữ vì lòng yêu mến Thiên
Chúa trong đời sống độc thân của tu sĩ, có nền tảng tối hậu trong lời Thiên
Chúa, trong những giáo huấn của Đức Ki-tô, nơi Đức Trinh Mẫu của Người và trong
tông truyền đã được Giáo Hội hằng xác nhận. Bởi chưng, đây là một hồng ân quý
giá mà Chúa Cha ban cho một ít người. Hồng ân này mỏng dòn và dễ bị tổn thương
vì sự yếu đuối của con người, lại bị trí óc tự nhiên cho là mâu thuẫn, và đối
với những ai mà ánh sáng của Ngôi Lời nhập thể không mặc khải cho biết tại
sao “ai mất
mạng sống mình” vì Chúa “sẽ
tìm lại được mạng sống mình” (25)
thì không thể hiểu được.
Sống khiết tịnh để theo Đức
Ki-tô, các con cũng cần biết rằng phải sống khó nghèo theo gương Người trong
việc sử dụng những của cải đời này vốn cần thiết cho nếp sống hằng ngày. Vả
lại, những người đồng thời luôn cật vấn các con về điểm này. Đã hẳn, các Hội
Dòng có một sứ mạng quan trọng phải chu toàn trong những công cuộc từ thiện,
cứu tế và công bằng xã hội : tất nhiên khi thi hành công việc phục vụ này, các
Hội Dòng phải luôn luôn lưu tâm đến những đòi hỏi của Phúc Âm.
Các con đã nghe thấy “tiếng kêu la của người
nghèo” (26)
vọng lên một cách khẩn thiết hơn bao giờ hết từ nỗi khốn khổ của cá nhân đến
nỗi khốn khổ của tập thể. Chẳng phải để đáp lại tiếng kêu la của những người
con được Thiên Chúa ưu ái, mà Đức Ki-tô đã đến (27),
đã đi đến chỗ đồng hoá với họ đó sao (28)
? Trong một thế giới đang trên đà phát triển, tiếng kêu la dai dẳng của tập thể
và của cá nhân lâm cảnh khốn cùng là một tiếng kêu nài khẩn cấp van xin “người ta hãy thay đổi tâm
trạng và thái độ” (29),
đặc biệt đối với các con là những người “theo
sát Chúa Ki-tô trong thân phận Người huỷ mình ra không trên mặt đất này” (30).
Ta biết rằng tiếng kêu nài ấy vang lên trong các con một cách thống thiết đến
nỗi một số người trong các con đôi khi bị cám dỗ dùng đến bạo lực. Các con là
môn đệ Đức Ki-tô, làm sao các con có thể theo một đường lối khác với đường lối
của Người được ? Các con biết rằng đường lối của Đức Ki-tô không phải là một
phong trào thuộc phạm vi chính trị hay trần thế, nhưng là một lời kêu gọi người
ta hoán cải tâm hồn, để giải phóng lòng người khỏi mọi trở lực trần gian, để
quay về với tình yêu.
Tiếng kêu la của người nghèo sẽ
có dư âm nào trong đời sống các con ? Trước tiên, tiếng kêu la ấy phải cấm đoán
các con không được cấu kết với bất cứ hình thức bất công xã hội nào. Tiếng kêu
la ấy cũng bắt buộc các con phải thức tỉnh lương tâm trước hoàn cảnh bi đát của
những người khốn khổ và trước những đòi hỏi của công bằng xã hội theo Phúc Âm
và của Giáo Hội. Tiếng kêu la ấy đang dẫn đưa một số trong các con đến sống với
người nghèo trong những điều kiện của họ và chia sẻ những nỗi âu lo ray rứt của
họ. Đàng khác, tiếng kêu la ấy còn thỉnh mời một số đông Hội Dòng chúng con
biến đổi một ít sinh hoạt để phục vụ người nghèo, điều mà thực ra nhiều Hội
Dòng đã chu toàn một cách đại lượng. Sau cùng, tiếng kêu la ấy đòi buộc các con
phải sử dụng một cách giới hạn của cải trong khi hoàn thành những công tác được
trao phó cho các con. Trong đời sống hằng ngày, cả đời sống bên ngoài nữa, các
con phải nêu lên những chứng tá của sự khó nghèo đích thực.
Trong một nền văn minh và trong
một thế giới mà vật chất tiến triển mau lẹ và hình như vô tận, tu sĩ sẽ chứng
minh thế nào được về đức khó nghèo, nếu lăn xả vào sự tìm kiếm không hạn chế
những tiện nghi, nếu cho là hợp lý khi tự cho phép mình được hưởng tất cả những
gì người ta cung cấp mà không cần phân định cũng không cần điều độ ? Trong khi
nhiều người liều mắc phải hiểm nguy bị lừa bởi sức quyến rũ và sự an toàn vì
tin rằng mình có của, có học và có quyền, thì tiếng mời gọi của Thiên Chúa đã
đặt chúng con vào cao điểm của một lương tâm Ki-tô hữu : Nhắc lại cho loài
người biết rằng sự phát triển đích thực và hoàn hảo của họ là đáp lại ơn được
mời gọi “tham
gia với tư cách con cái vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống, là Cha của mọi
người” (31).
Các con cũng gắng biết nghe
thấy lời than vãn của biết bao con người bị cuốn theo cơn lốc của lao động để
kiếm lời, để hưởng khoái tiêu thụ, do đó bắt buộc con người đôi khi phải làm
công việc trái nhân đạo. Một khía cạnh thiết yếu của đức khó nghèo nơi các con
là chứng minh ý nghĩa nhân bản của việc lao động, phải được thực hiện trong sự
tự do của lý trí và đem lại cho bản tính của lao động tính cách mưu sinh và
phục vụ. Công Đồng đã chẳng nhấn mạnh rất đúng lúc, là các con cần phải tuân
theo “luật
chung phải làm việc” (32)
đó sao ? Làm việc để mưu sinh cho các con, mưu sinh cho anh chị em các con, để
giúp đỡ những người nghèo, đó là bổn phận của các con. Nhưng những hoạt động
của các con không được trái với ơn kêu gọi của Dòng các con, cũng không thể cho
phép các con thường xuyên làm những việc thay thế nhiệm vụ riêng biệt của Dòng
các con. Những hoạt động ấy cũng không được lôi cuốn các con, bất cứ cách nào,
đến tình trạng tục hoá, gây thiệt hại cho đời sống tu trì của các con. Vậy các
con hãy lưu ý đến tinh thần thúc đẩy các con làm việc : thật là một thất bại
ghê gớm, nếu các con tưởng mình “có
giá trị” chỉ vì được thưởng công do những công việc trần tục đem lại.
Nhu cầu rất cấp bách ngày nay
của việc chia sẻ huynh đệ phải bảo tồn được giá trị Phúc Âm của nó. Theo sách
“Giáo Huấn của Mười Hai Tông Đồ” (Didakhê)
: “Nếu anh em chia sẻ với nhau của cải đời đời, anh em lại càng phải chia sẻ
với nhau của cải sẽ hư nát” (33).
Sống đức khó nghèo thiết thực bằng cách để của cải làm của chung kể cả tiền
lương nữa, sẽ làm chứng sự thông hiệp thiêng liêng khiến chúng con sống hợp
nhất với nhau ; sống khó nghèo như thế là một lời kêu gọi sống động cho tất cả
những người giàu có và cũng là một cách nâng đỡ những anh chị em đang túng bấn.
Lòng mong ước chính đáng tự đảm nhận một trách nhiệm nào, không thể chứng minh
bởi sự bo bo hưởng lợi tức riêng tư, nhưng với tâm tình huynh đệ tham dự vào
lợi ích chung. Những thể thức sống khó nghèo của mỗi người và mỗi cộng đoàn đều
lệ thuộc vào bản chất của từng Hội Dòng, lệ thuộc vào phương thức tuân phục
được thực thi trong mỗi Hội Dòng : như thế, tuỳ theo ơn thiên triệu riêng biệt
của mỗi tổ chức, mà thực hiện đặc tính “lệ thuộc” gắn liền với mọi hình thức
khó nghèo.
Các tu sĩ nam nữ thân mến, các
con thấy những nhu cầu của nhân loại ngày nay, nếu các con cùng với Đức Ki-tô
cảm thấy, thì những nhu cầu ấy sẽ làm cho đức khó nghèo của chúng con trở nên
cấp bách hơn và hoàn hảo hơn. Tất nhiên các con cũng phải lưu ý tới hoàn cảnh
người đời mà các con đang chung sống để thích nghi lối sống của chúng con với
họ, nhưng đức khó nghèo của chúng con sẽ không thể chỉ đơn giản là phù hợp với
những môi trường của họ. Giá trị chứng tá của đức khó nghèo bắt nguồn từ việc
đáp lại một cách quảng đại đòi hỏi của Phúc Âm trong thái độ hoàn toàn trung
thành với ơn thiên triệu của chúng con, chứ không phải bắt nguồn từ nỗi lo lắng
tỏ ra mình nghèo khó, nỗi lo lắng này có thể chỉ có bề ngoài ; tuy nhiên cũng
cần phải tránh những cách sống biểu lộ một thái độ cầu kỳ và khoe khoang. Ta
nhận rằng trong một ít trường hợp các con có thể bỏ được áo dòng, nhưng Ta cũng
không thể không nói đến sự thích hợp của áo dòng mà các tu sĩ nam nữ mặc. Như
Công Đồng muốn, thì áo dòng là dấu chỉ của việc tận hiến (34)
và phân biệt với lối phục sức theo thói đời.
Chẳng phải cũng chính vì muốn
trung thành với ơn kêu gọi mà các con tuyên khấn vâng lời trong ánh sáng đức
tin và trong chính sức mạnh của lòng mến Chúa Ki-tô đó sao ? Tuyên khấn như
vậy, các con đã hiến dâng tất cả ý chí và bước vào kế hoạch cứu độ của Đức
Ki-tô một cách vững mạnh hơn, quyết liệt hơn. Noi gương Đức Ki-tô, Đấng đã đến
để hoàn thành thánh ý Chúa Cha, và hiệp thông với Đấng “đã học vâng lời bằng đau
khổ” và “đã
trở nên tôi tớ của anh em mình”, các con đã tự buộc mình “chặt chẽ hơn để phụng sự
Giáo Hội” và anh em mình. (35)
Hoài bão Phúc Âm về tình huynh
đệ đã được Công Đồng đề cập đến mạnh mẽ : Giáo Hội được định nghĩa là “Dân
Thiên Chúa”, trong đó có phẩm trật để phục vụ các chi thể của Đức Ki-tô liên
kết với nhau nhờ cùng một đức ái (36).
Trong bậc tu dòng cũng như trong toàn thể Giáo Hội vẫn tồn tại mầu nhiệm phục
sinh của Đức Ki-tô. Ý nghĩa sâu xa của đức tuân phục được thể hiện đầy đủ trong
mầu nhiệm thương khó và phục sinh của Đức Ki-tô, trong mầu nhiệm ấy, định mệnh
siêu nhiên của con người được thực hiện một cách hoàn hảo : thật thế, qua hy
sinh, đau khổ và sự chết mà con người đạt tới sự sống thật.
Thi hành quyền bính giữa anh em
các con tức là phục vụ họ (37)
theo gương Đấng “đã
thí mạng sống mình để cứu nhiều người” (38).
Bởi vậy, để phục vụ lợi ích
chung thì quyền bính và đức tuân phục là hai phương diện bổ túc cho sự tham gia
vào hiến lễ của Đức Ki-tô : người có quyền bính thì phải phục vụ, trong anh chị
em mình, kế hoạch yêu thương của Đức Chúa Cha ; còn các tu sĩ chấp nhận những
lời chỉ giáo của bề trên thể theo gương Thầy Chí Thánh chúng ta (39)
và hợp tác vào công cuộc cứu độ. Như thế quyền bính và tự do cá nhân, thay vì
chống đối nhau, lại cùng nhau thi hành thánh ý Thiên Chúa đã được nhận ra trong
tình huynh đệ nhờ một cuộc đối thoại đầy tin tưởng giữa bề trên và tu sĩ khi
liên quan đến một trường hợp cá nhân, hoặc nhờ một cuộc bàn luận chung về những
gì có liên hệ đến cả cộng đoàn. Trong cuộc tìm kiếm ấy, các tu sĩ phải tránh
đừng để tâm trí giao động quá mạnh, cũng phải tránh đừng làm cho những quan
niệm của thời đại lấn át ý nghĩa sâu xa của đời sống tu trì. Mỗi người đều có
nhiệm vụ, nhưng đặc biệt là các bề trên và những người thi hành một trách nhiệm
giữa anh chị em có nhiệm vụ phải làm thức tỉnh lại trong các cộng đoàn những
xác tín về đức tin, để những xác tín này hướng dẫn các tu sĩ. Cuộc tìm kiếm có
mục đích là đào sâu những xác tín và đưa những xác tín ấy ra thực hành trong
cuộc sống hằng ngày, tuỳ theo những nhu cầu của thời đại chứ không hề nhắm mục
đích đem những xác tín ấy ra xét lại. Nếu những cuộc tìm kiếm chung ấy cần chấm
dứt, thì phải được kết thúc với một quyết định của bề trên : sự hiện diện và
chấp nhận của các ngài không thể nào thiếu cho mỗi cộng đoàn.
Hoàn cảnh sống hiện đại dĩ
nhiên có ảnh hưởng lớn đến đời sống tuân phục của các con. Thật thế, một số
người trong các con thực hiện một phần những hoạt động ngoài tu viện, hoặc thi
hành một chức vụ có khả năng chuyên môn. Một số khác lại cộng tác với những
nhóm lao động có một nếp sống riêng biệt. Những nguy hiểm của những hoàn cảnh
tương tự như thế lại không phải là một lời kêu gọi các con hãy củng cố lại và
hãy nghiên cứu kỹ ý nghĩa của đức tuân phục đó sao ? Để công việc các con làm
được tốt lành, các con cũng phải có một ít điều kiện cần thiết. Trước hết, các
con phải kiểm chứng lại xem công việc mà các con đang đảm đương có hợp với ơn
kêu gọi của Dòng các con không. Các con cũng phải xác định rõ ràng hai lãnh
vực. Nhất là phải biết gạt bỏ những hoạt động bên ngoài để trở về với những đòi
hỏi của nếp sống chung bởi vì quan tâm muốn cho những yếu tố cấu thành đời sống
tu trì có được tất cả hiệu năng. Một trong những nhiệm vụ chính của các bề trên
là bảo đảm cho anh chị em tu sĩ những điều kiện tối cần cho đời sống thiêng
liêng của họ. Nhưng làm sao các ngài có thể chu toàn được nhiệm vụ này nếu
không có sự cộng tác tín nhiệm của toàn thể tu viện ?
Ta phải nói thêm điều này nữa
là các con càng thi hành phần trách nhiệm của các con, thì các con càng phải
đổi mới lại đời tận hiến của các con cho hoàn hảo. Đức Ki-tô buộc mỗi người
phải “đánh
mất mạng sống của mình” nếu họ muốn theo Người (40).
Các con tuân giữ giáo huấn ấy bằng cách chấp nhận những lời chỉ giáo của các bề
trên các con như là một bảo chứng cho lời khấn dòng của các con, lời khấn dòng
là “lễ hiến
tế toàn diện ý riêng của các con như một lễ hy sinh chính mình cho Thiên
Chúa” (41).
Đức tuân phục Ki-tô giáo là một sự tùng phục thánh ý Thiên Chúa vô điều kiện.
Nhưng đức tuân phục của các con còn chặt chẽ hơn nữa vì đã khấn giữ nó một cách
đặc biệt, và việc lựa chọn bị giới hạn bởi những gì các con đã tuyên khấn. Đó
chính là một tác động hoàn toàn của quyền tự do đã làm cho các con trở nên tu
sĩ hiện nay : nhiệm vụ các con là làm cho tác động ấy luôn luôn trở nên sống
động hơn hoặc bằng những sáng kiến riêng, hoặc bằng cách các con sẵn lòng hưởng
ứng những mệnh lệnh của các bề trên chúng con. Vì thế mà Công Đồng nhìn
nhận “sự tự
do được đức tuân phục tăng cường” (42)
là một trong những ân huệ của bậc tu dòng, và nhấn mạnh rằng đức tuân phục
ấy “thay vì
giảm bớt nhân phẩm của con người, lại làm cho con người trở nên trưởng thành
bằng cách làm lớn mạnh quyền tự do làm con Thiên Chúa” (43).
Tuy nhiên, giữa quyền bính của
bề trên và lương tâm của tu sĩ, “một
thứ cung thánh trong đó chỉ mình con người đối diện với Thiên Chúa và nghe
tiếng nói của Thiên Chúa” (44)
lại không thể có những xung đột hay sao ? Nhưng cũng cần nói lại rằng một mình
lương tâm mà thôi không thể phán đoán được giá trị luân lý của những hành động
mà nó gợi ra, lương tâm phải chiếu theo, nếu cần phải sửa lại, phải được chỉ
dẫn đúng với những quy luật khách quan.
Trừ ra khi nào một mệnh lệnh rõ
ràng trái với luật Thiên Chúa hay là trái với hiến pháp của Dòng, hoặc chắc
chắn mệnh lệnh ấy sẽ mang đến một điều xấu lớn lao – trong những trường hợp ấy
nhiệm vụ tuân phục không còn buộc nữa -, những quyết định của bề trên liên quan
đến một lãnh vực mà việc thẩm định một điều thiện tốt đẹp hơn có thể thay đổi
tuỳ theo quan điểm riêng của mỗi người. Khi gặp một mệnh lệnh xét theo khách
quan xem ra kém, và kết luận rằng mệnh lệnh ấy bất hợp lý và trái ngược với
lương tâm, thì kết luận như thế là thiếu thực tế vì không nhận rằng có vô số
những thực tại nhân loại lờ mờ khó hiểu và có giá trị lưỡng diện. Đàng khác, từ
chối tuân phục thường gây thiệt hại nặng cho ích chung. Một tu sĩ không thể dễ
dàng cho rằng có mâu thuẫn giữa phán đoán của lương tâm mình với phán đoán của
bề trên. Và hoàn cảnh bất thường này đôi khi tạo nên một sự đau khổ thực sự bề
trong, theo gương chính Đức Ki-tô, “Đấng
đã nhờ đau khổ để học cho biết tuân phục là gì” (45).
Nói thế có nghĩa là việc thực
hiện đời tu trì đòi hỏi mức độ từ bỏ lớn lao. Vậy các con cần phải am hiểu ít
nhiều về sức mạnh đã thúc đẩy Đức Ki-tô đến với Thánh giá của Người, đến “Phép Rửa mà Người lãnh
nhận”, nơi đó bốc cháy ngọn lửa sẽ thiêu đốt cả các con (46)
; các con phải hiểu ít nhiều về “sự
điên dại” mà thánh Phao-lô cầu chúc cho tất cả chúng ta, vì chỉ có sự điên dại
ấy mới làm cho chúng ta nên khôn ngoan (47).
Chớ gì đối với các con, cũng như xưa đối với Đức Ki-tô, Thánh giá trở nên bằng
chứng của tình yêu lớn nhất. Phải chăng đã chẳng có một mối tương quan giữa
thái độ từ bỏ và niềm vui, giữa hy sinh và tâm hồn được mở rộng, giữa kỷ luật
và sự tự do thiêng liêng đó sao ?
Các tu sĩ nam nữ trong Đức
Giê-su Ki-tô, phải nhận rằng thời nay khó tìm được một lối sống phù hợp với đòi
hỏi ấy. Có biết bao điều trái ngược nhau thúc đẩy các con trước tiên tìm kiếm
một hoạt động có hiệu quả xét về phương diện nhân loại. Nhưng các con không có
nhiệm vụ phải nêu gương một đời khắc khổ trong vui tươi và quân bình, bằng cách
đón nhận những khó khăn liên quan mật thiết với lao động và với những thử thách
của đời sống với sự lo lắng vì thiếu an toàn, cũng như những sự từ bỏ cần thiết
để đạt tới tình trạng sung mãn của đời sống Ki-tô hữu hay sao ? Thật vậy, tu
sĩ “hướng
tới sự thánh thiện qua một con đường chật hẹp hơn” (48).
Trong những vất vả khổ sở ấy, nhỏ hay lớn, lòng sốt sắng nội tâm làm cho các con
nhận ra Thánh giá của Đức Ki-tô, và giúp các con đón nhận với đức tin và lòng
yêu mến.
Với điều kiện đó, các con sẽ
nêu lên bằng chứng mà Dân Thiên Chúa đang chờ mong : bằng chứng của những người
nam nữ có khả năng đón nhận tình trạng bấp bênh của đời khó nghèo, say mê nếp
sống đơn sơ và khiêm nhu, yêu quý hoà bình, tránh mọi thoả hiệp hàm hồ, cương
quyết từ bỏ mình hoàn toàn, đồng thời tự do và vâng phục, hồn nhiên và bền bỉ,
hiền lành và cương nghị trong niềm xác tín của đức tin : hồng ân này sẽ được
Đức Giê-su Ki-tô ban cho các con tương ứng với việc các con hiến mình cho Người
không bao giờ rút lại. Lịch sử gần đây của biết bao tu sĩ nam nữ đã can đảm
chịu đau khổ vì Đức Ki-tô tại nhiều quốc gia là một bằng chứng hùng hồn về điều
đó. Trong khi Ta bày tỏ lòng ngưỡng mộ của Ta đối với họ, Ta muốn tất cả chúng
con hãy lấy họ làm gương.
Trên bước đường ấy, các con
nhận được một trợ lực quý giá nhờ ở nếp sống mà kinh nghiệm luôn trung thành
với đoàn sủng của mỗi Tu hội mang lại ; kinh nghiệm này đã tổng hợp nhiều thể
cách khác nhau và không ngừng khuyến khích đề ra những hướng mới. Nhưng các
hình thái có thay đổi thế nào đi nữa, luôn luôn vẫn là những phương tiện xây
dựng con người nội tâm. Chính mối lo lắng để củng cố sự xây dựng đó sẽ giúp các
con nhận ra những hình thức của một nếp sống thích hợp hơn cả, giữa biết bao lo
lắng khác. Quả thực, sự ước muốn quá đáng có một thái độ mềm dẻo và một khả
năng tự do sáng tạo có thể đi đến chỗ lên án là khắt khe hẹp hòi những người
muốn duy trì phần tối thiểu trong các thói quen phải giữ theo nếp sống các cộng
đoàn cũng như sự trọn lành của các tu sĩ đòi hỏi. Quá bồng bột, vịn vào tình
yêu huynh đệ hoặc dựa trên điều mà người ta tưởng là được Thánh Thần thúc đẩy,
cũng có thể đưa tới chỗ phá đổ các định chế tu trì.
Vì thế, nhờ kinh nghiệm, các
con dễ hiểu rằng người ta không được coi thường tầm quan trọng của khung cảnh
sống, vừa để hướng dẫn thường xuyên toàn diện con người phức tạp và phân hoá
biết theo chiều hướng tiếng Thiên Chúa kêu gọi, vừa để hài hoà những xu hướng
của con người theo đường thiêng liêng. Lòng người lại chẳng bị lôi cuốn bởi
những sự mau qua đó sao ? Nhiều người trong chúng con bắt buộc phải sống, ít là
một thời gian, trong một thế giới đang cố gắng tách biệt con người ra khỏi
chính mình họ và làm phương hại đến việc kết hiệp với Thiên Chúa cùng với sự
thống nhất thiêng liêng của cuộc sống. Bởi vậy các con cần phải học cho biết
tìm thấy Thiên Chúa ngay cả trong hoàn cảnh sống hối hả, giữa những xao động và
những quyến rũ phù vân.
Ai chẳng nhận thấy rằng khung
cảnh huynh đệ của một lối sống kỷ luật, kèm theo những luật sống tự ý chấp
nhận, sẽ giúp các con rất nhiều để đạt tới sự kết hiệp với Chúa ? Những quy tắc
kỷ luật luôn luôn cần thiết cho bất cứ ai “trở về với con tim” (49)
theo đúng ý nghĩa của Kinh Thánh ; con tim nói lên cái gì sâu sắc nhất của tâm
tình, tư tưởng và ước vọng của chúng ta, con tim bị chiếm cứ bởi ý tưởng về sự
vô tận, sự tuyệt đối và chính định mệnh đời đời của chúng ta. Trong tình trạng
hỗn loạn hiện nay, các tu sĩ phải làm chứng rằng con người, khi biết gắn bó với
cứu cánh đời mình là Thiên Chúa hằng sống, thì sẽ biết, nhờ sự thống nhất các
khả năng, thanh lọc tư tưởng và linh thiêng hoá giác quan, làm cho đời sống
được quy hợp sâu xa và vững bền trong Thiên Chúa.
Theo mức độ chu toàn những
nghĩa vụ bên ngoài, các con cần phải biết cách rời bỏ những hoạt động ấy để trở
về với đời sống trầm mặc, yêu mến những sự thuộc về Chúa, nhờ đó linh hồn các
con được bổ sức lại. Nếu thực sự các con thi hành công việc của Thiên Chúa, thì
chính các con sẽ cảm thấy cần phải có thời giờ hồi tâm, cùng với anh chị em tu
sĩ, các con sẽ biến thời gian hồi tâm này thành thời gian sung mãn. Vì công
việc chồng chất và tình trạng căng thẳng do đời sống tận hiến, ngoài những kinh
nguyện đọc hằng ngày, chúng con nên quan tâm đặc biệt thêm việc cầu nguyện lâu
giờ hơn, những giờ cầu nguyện phải được phân chia trong ngày tuỳ theo khả năng
và bản chất của ơn kêu gọi các con. Trong những tu viện mà hiến pháp cho phép
các con được tiếp rước khách một cách rộng rãi, các con nên ấn định việc lui
tới và cách giao tiếp, cố sao tránh mọi giao động vô ích và giúp cho các khách
của các con dễ dàng kết hợp mật thiết với Thiên Chúa.
Nói như trên là nói đến ý nghĩa
của những quy luật điều hành đời sống hằng ngày của chúng con. Thay vì chỉ nhìn
những quy luật dưới khía cạnh bắt buộc, thì một lương tâm sáng suốt sẽ nhận
định ra theo những lợi ích mà những quy luật mang lại và bảo đảm cho đời sống
thiêng liêng sung mãn hơn. Phải nói lên điều này là sự giữ luật Dòng đòi một
truyền thụ đích thực hơn là giáo huấn lý trí và rèn luyện ý chí, truyền thụ ấy
nhằm Ki-tô hoá toàn diện con người từ tận thâm tâm theo tám mối phúc thật của
Phúc Âm.
Công Đồng nhìn nhận “một nền đạo lý đã được
chấp nhận để đạt tới mức trọn lành” (50)
là một trong những di sản của các Dòng, là một trong những ơn huệ lớn nhất mà
các Dòng bảo đảm cho các con. Vì bậc trọn lành ấy hệ tại việc luôn luôn tiến xa
trong tình yêu Thiên Chúa và tình yêu anh em, nên phải nhận thức đạo lý ấy một
cách rất chắc chắn cụ thể như là một đạo lý của đời sống phải được thực hiện
một cách thiết thực. Nói như thế là có ý minh định rằng những cố gắng tìm tòi
của các Dòng không phải chỉ nhằm mục tiêu thực hiện những điều thích nghi tuỳ
theo những đổi thay của thế gian, trái lại những cố gắng ấy phải giúp tìm lại
những phương tiện phong phú cần thiết cho cuộc sống được tình yêu Thiên Chúa và
tình yêu nhân loại hoàn toàn chiếm đoạt.
Bởi vậy, các cộng đoàn cũng như
các tu sĩ làm nên tu viện cần phải vượt từ giai đoạn “sinh khí tự nhiên” đến
giai đoạn “thuộc
Thần Khí” (51).
“Con người mới” theo thánh
Phao-lô, lại chẳng phải là Đức Ki-tô viên mãn trong Giáo Hội đồng thời là sự
thông dự của mỗi Ki-tô hữu vào sự viên mãn đó sao ? Định hướng đó làm cho gia
đình tu trì các con trở thành khung cảnh sống động làm tăng triển mầm sống thần
linh, được gieo trồng vào mỗi người các con do phép Rửa tội, và sự tận hiến của
các con, nếu được sống cho toàn vẹn, sẽ làm trổ sinh rất nhiều hoa trái phong
nhiêu.
Phải, cũng như mọi Ki-tô hữu,
các con còn khuyết điểm, nhưng các con muốn tạo nên một môi trường giúp cho mỗi
người anh em tấn tới trên đường thiêng liêng. Kết quả đó làm sao đạt được nếu
những mối tương giao huynh đệ trong các con, kể cả sự giao tiếp thường nhật,
không được ăn sâu trong Chúa ? Các con cũng đừng quên rằng, đức bác ái phải là
một niềm hy vọng linh hoạt làm cho người khác có thể đạt được mục đích họ muốn
nhờ sự giúp đỡ huynh đệ của các con. Dấu chỉ của đức bác ái chân thật gặp thấy
trong sự đơn sơ vui tươi, nhờ đó mọi người đều cố gắng tìm hiểu xem mỗi người
ao ước điều gì hơn cả (52).
Nếu có ít nhiều tu sĩ tỏ ra chán ngán đời sống cộng đoàn thì ai sẽ đem lại cho
họ sự phát triển ? Phải chăng trong đời sống cộng đoàn họ đã không tìm được mối
thông cảm nuôi sống niềm hy vọng ? Không còn ai nghi ngờ được rằng tinh thần
nhóm, những mối liên lạc huynh đệ, sự tương trợ trong cũng một hoạt động tông
đồ, cũng như sự nâng đỡ lẫn nhau trong đời sống chung đã lựa chọn để phụng sự
Đức Ki-tô một cách hoàn hảo hơn, là nguồn trợ lực quý giá trong đời sống hằng
ngày.
Theo chiều hướng đó, ta thấy
xuất hiện khuynh hướng muốn lập những cộng đồng thu hẹp hơn. Một phản ứng tự
phát chống lại những cách tập trung vô danh ở thành thị, nhu cầu thích nghi cơ
sở một cộng đoàn với chỗ cư trú chật hẹp tại các thành phố tân tiến, nhu cầu
muốn ở gần gũi nhau vì các điều kiện sinh hoạt của một nhóm cư dân cần được
truyền bá Tin Mừng, đó là những lý do thường làm cho một số tu hội có ý thiết
lập nhiều cộng đoàn ít nhân số. Những cộng đoàn thu hẹp này cũng có thể giúp
cho việc phát triển mối tương quan mật thiết hơn giữa các tu sĩ và thân ái gánh
đỡ nhau những trách vụ nặng nề. Tuy nhiên, nếu quả thực có một khung cảnh nào
đó có thể làm phát sinh được một bầu khí thiêng liêng, thì thật là ảo tưởng nếu
tin rằng chỉ cần phát triển khung cảnh ấy là đủ. Những cộng đoàn nhỏ, thay vì đem
lại một lối sống dễ dãi hơn, thì ngược lại có nhiều đòi hỏi hơn đối với những
phần tử sống trong đó.
Mặt khác, quả thật những cộng
đoàn đông đảo lại đặc biệt thích hợp với nhiều tu sĩ. Các cộng đoàn này có thể
cũng cần phải được thiết lập do bản tính của việc phục vụ theo đức ái, do một
số hoạt động trí thức hay do việc thực hiện đời chiêm niệm hoặc đan tu. Ước chi
trong các cộng đoàn đó, người ta luôn luôn ý hợp tâm đầu, tuỳ theo mục đích
tinh thần và siêu nhiên mà họ theo đuổi. Vả lại, dầu có hình thái nào đi nữa,
thì các cộng đoàn, lớn hoặc nhỏ, cũng chỉ có thể giúp đỡ được các phần tử của
mình nếu các cộng đoàn đó được sống linh động vững bền theo tinh thần Phúc Âm,
được nuôi dưỡng bởi việc cầu nguyện, và được đề cao do quảng đại khổ chế con
người cũ, do giữ quy luật cần thiết để đào tạo người mới và do sự phong phú của
lễ hy sinh Thánh giá.
Hỡi các tu sĩ nam nữ thân yêu,
lẽ nào các con lại không có khát vọng hiểu biết rõ hơn Đấng mà các con yêu mến
và muốn bày tỏ ra cho nhân loại ? Kinh nguyện phải hợp nhất các con lại với
Người. Nếu các con đã mất hứng thú đó thì các con phải cố gắng tìm lại cho được
bằng cách cứ khiêm nhường cầu nguyện. Các con chớ quên bằng chứng của lịch sử
là : trung thành cầu nguyện hay phế bỏ cầu nguyện là bản trắc nghiệm cho thấy
đời sống tu trì còn sống động hay đã suy thoái.
Kinh nguyện là khám phá ra tình
thân mật với Thiên Chúa, là yêu sách đòi phải tôn thờ Thiên Chúa, là nhu cầu
cần được chuyển cầu : kinh nghiệm về sự thánh thiện Ki-tô giáo cho ta thấy kinh
nguyện rất phong phú, nhờ đó Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra trong trí tuệ và tâm hồn
của tôi tớ Người. Thiên Chúa tỏ cho chúng ta được biết chính mình Người trong
những ngọn lửa của tình yêu. Những ân huệ của Thánh Thần thật là thiên hình vạn
trạng, nhưng những hồng ân ấy bao giờ cũng làm cho chúng ta nếm hưởng sự nhận
biết Chúa một cách thân mật và chân xác ; nếu không có sự nhận biết này, chúng
ta không thể nào hiểu được giá trị đời sống Ki-tô hữu cũng như đời sống tu trì,
không thể nào có sức mạnh tiến lên trong niềm vui của một hy vọng không bao giờ
lừa dối.
Thật vậy, Thánh Thần cũng ban
cho các con ơn được gặp thấy dung nhan của Chúa trong tâm hồn những người mà
Người dạy các con phải yêu thương như anh em mình. Người cũng giúp các con khám
phá cách Người tỏ tình thương yêu qua các biến cố. Trong sự khiêm nhượng chú
tâm đến mọi người mọi vật, Thánh Thần của Đức Giê-su soi sáng ta và ban cho
chúng ta được đầy ơn khôn ngoan, miễn là chúng ta được thấm nhuần sâu xa tinh
thần cầu nguyện.
Một trong những nỗi khốn khổ
của thời đại chúng ta, lại chẳng phải là sự bất quân bình “giữa các điều kiện sống
tập thể và những đòi hỏi của suy tư cá nhân cũng như sự chiêm niệm” (53)
đó ư ? Có biết bao nhiêu người, và trong đó có biết bao thanh thiếu niên đã
đánh mất ý nghĩa của đời mình, và khắc khoải tìm kiếm chiều kích nội tâm của
mình, mà không nghĩ rằng, trong Giáo Hội, Đức Ki-tô có thể đáp ứng sự mong chờ
của họ ! Những sự kiện đó phải làm cho các con nghiêm chỉnh suy nghĩ về điều mà
loài người có quyền chờ đợi ở các con, những người đã tuyên thệ sống để phục vụ
Ngôi Lời, là “Ánh
sáng chân thật sáng soi hết mọi người” (54).
Thế nên, các con hãy ý thức tầm quan trọng của việc cầu nguyện trong cuộc đời
các con, và hãy học cho biết chăm chỉ cầu nguyện một cách quảng đại : đối với
mỗi người các con, nam hay nữ, sự trung thành với việc cầu nguyện hằng ngày
phải là một nhu cầu căn bản, và phải chiếm chỗ ưu tiên trong hiến pháp cũng như
trong đời sống các con.
Con người nội tâm cảm thấy
những thời giờ thinh lặng là một yêu sách của tình yêu Thiên Chúa, và theo
thông thường họ cần phải có một sự cô tịch để lắng nghe Thiên Chúa “nói trong tâm hồn
họ” (55).
Ta cần nhấn mạnh rằng : một sự thinh lặng mà chỉ là vắng tiếng động và lời nói
nhưng trong đó linh hồn không được rèn luyện lại, thì rõ ràng là một thứ thinh
lặng thiếu giá trị thiêng liêng, và có thể làm tổn thương đến đức ái huynh đệ,
nếu lúc đó cần phải có những lời trao đổi với nhau. Nhưng sự tìm kiếm tình thân
mật với Thiên Chúa đòi toàn thể con người cần phải thinh lặng cho thật sống
động, đối với những người phải tìm Thiên Chúa trong ồn ào náo nhiệt, cũng như
đối với những người chuyên chiêm niệm (56).
Đức tin, đức cậy, lòng mến yêu Thiên Chúa, sự sẵn sàng đón nhận hồng ân Chúa
Thánh Thần cũng như một tình yêu huynh đệ biết mở rộng đón nhận mầu nhiệm tha
nhân và nhu cầu của họ, tất cả đều đòi phải có một sự thinh lặng.
Có cần phải nhắc lại địa vị vô
song của phụng vụ Giáo Hội trong đời sống cộng đoàn các con, mà trung tâm là lễ
tế Thánh Thể, nơi đây lời cầu nguyện bên trong đi đôi với phụng tự bên ngoài
không (57)
? Khi tuyên lời khấn dòng, các con đã được Giáo Hội kết hợp mật thiết với hy lễ
Thánh Thể mà hiến dâng cho Thiên Chúa (58).
Ngày này qua ngày khác, sự hiến dâng chính mình các con đó phải trở nên một
thực tại được đổi mới một cách cụ thể và tiếp nối mãi. Sự hiệp thông với Mình
và Máu Đức Ki-tô là nguồn mạch trước tiên của việc đổi mới này (59).
Nhờ sự hiệp thông ấy ý chí mến yêu chân thực đến mức hy sinh đời sống của các
con không ngừng được củng cố.
Cộng đoàn của các con đã được
tập hợp nhân danh Thánh Thể, thì tự nhiên là có Thánh Thể làm trung tâm, vì
Thánh Thể là “bí
tích của tình yêu, là dấu chỉ hợp nhất, là mối dây đức ái” (60).
Cho nên thật là xứng hợp khi chúng con công khai tập họp tại một nguyện đường,
nơi đó sự hiện diện của Thánh Thể biểu lộ và thực hiện sứ mạng chính yếu phải
có của toàn thể gia đình tu trì, cũng như của tất cả cộng đoàn Ki-tô giáo.
Thánh Thể đã làm cho chúng ta không ngừng loan truyền cái chết và cuộc phục
sinh của Chúa, và chuẩn bị cho chúng ta đón Người trở lại vinh quang, thì Thánh
Thể cũng làm cho các con luôn luôn tưởng nhớ những đau khổ thân xác và tinh
thần Đức Ki-tô đã chịu, và tự ý chấp nhận cho đến hấp hối và chết trên Thánh
giá. Ước chi những thử thách các con gặp trở nên cơ hội để các con chịu đựng
với Chúa, và dâng lên Chúa Cha biết bao tai hoạ và đau khổ bất công đang xâu xé
anh em chúng ta, và chỉ nhờ đức tin soi dẫn, chỉ có hy sinh của Đức Ki-tô mới
có thể làm cho những đau khổ và tai hoạ ấy có một ý nghĩa.
Như vậy, chính cả thế giới cũng
hiện diện ở trung tâm đời sống cầu nguyện và hiến dâng của các con, như Công
Đồng đã hùng hồn nói lên : “Đừng
có ai nghĩ rằng các tu sĩ vì đã tận hiến mà họ trở nên xa lạ với nhân loại và
trở thành vô ích cho xã hội trần gian. Vì mặc dầu đôi khi không trực tiếp giúp
đỡ người đồng thời với họ, nhưng các tu sĩ vẫn hiện diện với họ một cách thâm
sâu hơn trong tình yêu Đức Ki-tô, và cộng tác với nhân loại một cách thiêng
liêng, để công cuộc kiến tạo xã hội trần gian luôn luôn có nền tảng trong Thiên
Chúa và quy hướng về Người, hầu những người xây dựng xã hội ấy khỏi nhọc công
vô ích” (61).
Công Đồng nhấn mạnh rằng : Sự
tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội này không thể tiến nếu thiếu một sự rộng mở
và cộng tác vào “các
sáng kiến và quyết định của Giáo Hội, như trong lãnh vực Kinh Thánh, Phụng vụ,
Tín lý, Mục vụ, Đại kết, Truyền giáo và Xã hội” (62).
Quan tâm đến hoạt động mục vụ trong toàn thể, nhưng chắc chắn là các con luôn
luôn phải thi hành việc đó “trong
niềm tôn trọng đặc tính riêng của mỗi Dòng”, đồng thời các con phải nhớ rằng ơn
miễn trừ đặc biệt liên quan đến cơ cấu nội bộ của tu viện, chứ không miễn cho
các con khỏi tuân phục quyền tài phán của các giám mục có trách nhiệm, “trong mức độ mà nhiệm vụ
chủ chăn của các ngài, và sự tổ chức hoàn hảo trong bổn phận phục vụ các linh
hồn, đòi phải như vậy” (63).
Mặt khác, hơn hết, các con phải luôn luôn nhớ rằng, hoạt động của Giáo Hội chỉ
nối tiếp được công việc của Đấng Cứu Chuộc để mưu ích cho loài người khi hoạt
động đó đi vào tác động của chính Đức Ki-tô, Đấng đã quy tụ tất cả về cho Cha
của Người : “Hết
thảy đều thuộc về anh em nhưng anh em thuộc về Đức Ki-tô và Đức Ki-tô thuộc về
Thiên Chúa” (64).
Thật vậy, tiếng Thiên Chúa mời gọi hướng các con một cách trực tiếp và hiệu
nghiệm nhất về Nước Trời vĩnh cửu. Qua những sức ép thiêng liêng không thể
tránh được trong suốt cuộc sống tu trì đích thực “các con sẽ chứng tỏ một
cách rõ ràng và đặc biệt rằng, chỉ có thể biến đổi và hiến dâng thế giới này
cho Thiên Chúa nhờ tinh thần tám mối phúc” (65).
Các con thân ái trong Đức
Ki-tô, muốn được đổi mới, đời sống tu trì phải thích nghi những hình thức tuỳ
tòng của nó với những biến đổi có ảnh hưởng một cách mau chóng và rộng rãi đến
các điều kiện của toàn thể cuộc sống nhân loại. Làm thế nào để đạt tới chỗ đó,
mà vẫn duy trì được “các
hình thức sống bền vững” (66)
đã được Giáo Hội công nhận này, nếu không phải là canh tân lại ơn thiên triệu
đích thực và toàn vẹn thuộc riêng các Dòng chúng con ? Đối với một sinh vật, sự
thích nghi với lãnh vực không hệ tại chỗ bỏ mất căn tính của mình, mà trái lại,
hệ tại biết củng cố sức sống riêng của mình một cách vững chắc. Sự ý thức rõ
được những khuynh hướng hiện tại và những đòi hỏi của thế giới tân tiến này
phải làm cho các nguồn mạch riêng biệt của các con vọt lên một dòng suối đầy
sinh lực trong mát và mới mẻ. Công việc đó đầy hứng khởi đồng thời cũng gặp
nhiều khó khăn.
Một vấn đề sôi bỏng đang ám ảnh
chúng ta ngày nay là : làm thế nào đem được sứ điệp Phúc Âm vào việc văn minh
hoá đại chúng ? Phải hoạt động như thế nào ở những cấp độ đang triển khai một
nền văn hoá mới, đang phác hoạ một mẫu người mới, nghĩ mình không cần đến ơn
cứu chuộc ? Hết thảy các con đều đã được mời gọi để chiêm ngưỡng mầu nhiệm cứu
độ, cho nên các con hiểu được rằng những câu hỏi ấy đặt ra cho đời sống của các
con bao nhiêu nghĩa vụ quan trọng, và thúc đẩy lòng nhiệt thành với việc tông
đồ mãnh liệt biết bao ! Các nam nữ tu sĩ thân mến, tuỳ theo cách thức Thiên
Chúa đòi hỏi nơi các gia đình thiêng liêng của các con, các con phải mở rất
rộng tầm mắt ra trước những nhu cầu của loài người, trước những vấn đề, những
tìm tòi của họ, để nhờ cầu nguyện và hoạt động mà cho họ thấy rằng : Tin Mừng
tình thương, công lý và hoà bình, có một mãnh lực cao cả. Việc nhân loại khát
vọng một đời sống thân ái hơn giữa người với người và giữa các quốc gia với
nhau, trước hết đòi hỏi phải biến cải phong tục, não trạng và lương tâm. Công
việc này, chung cho cả Dân Thiên Chúa, là nghĩa vụ của chúng con do một danh
nghĩa riêng. Làm thế nào để chu toàn nghĩa vụ đó, nếu không có lòng ham mộ
những sự trên trời, là hệ quả của một thứ kinh nghiệm về Thiên Chúa ? Thật quá
rõ : cuộc canh tân thực sự đời tu quan trọng biết bao để có thể canh tân Giáo
Hội và thế giới !
Hơn bao giờ hết, thế giới ngày
nay rất cần đến những người nam nữ biết tin vào Lời Chúa, vào cuộc phục sinh
của Người, và vào sự sống đời đời, đến độ hy sinh cuộc sống trần gian để làm
chứng cho tình yêu tự hiến cho tất cả loài người. Suốt dòng lịch sử, Giáo Hội
không bao giờ ngừng sống động và hoan hỷ vì biết bao nam nữ tu sĩ, khi theo mẫu
trọn lành Phúc Âm dưới nhiều hình thức khác nhau, đã chứng minh tình yêu vô hạn
của Đức Giê-su bằng đời sống của mình. Đối với con người ngày nay, đó lại chẳng
phải là một luồng gió sống động từ cõi vô biên thổi tới, như một giải thoát cho
chính họ, để họ nhìn thấy viễn tượng hoan lạc vĩnh cửu và tuyệt đối đó ư ? Khi
các con rộng mở tâm hồn đón nguồn vui thần linh này, khi tuyên xưng lại những
chân lý đức tin, khi theo ánh sáng đức tin tìm hiểu những nhu cầu của thế giới
này, đúng tinh thần Ki-tô giáo, các con hãy quảng đại sống đúng những yêu sách của
ơn Chúa gọi các con. Đây là giờ phút rất nghiêm trọng để các con ân cần chỉnh
đốn ý thức, nếu cần, và cũng là để duyệt lại tất cả đời sống của các con, nhằm
tiến tới một sự trung thành tối đa.
Nhìn các con với tình ấu yếm
của Chúa khi Người gọi các môn đệ Người là “đoàn chiên nhỏ”, khi Người cho họ biết ý
định của Cha Người là ban cho họ Nước Trời (67),
Ta khẩn xin các con hãy sống đơn sơ như những “trẻ nhỏ” trong Phúc Âm. Các con hãy gắng tìm
lại tính đơn sơ ấy trong tình thân mật tha thiết với Đức Ki-tô, hay trong sự
tiếp xúc trực tiếp với các anh chị em các con. Như thế các con sẽ cảm thấy tâm
hồn được “vui
mừng hớn hở trong Chúa Thánh Thần”, nguồn vui của những người được gia nhập vào
mầu nhiệm Nước Trời. Các con đừng vào số “người khôn ngoan và tài giỏi” mà tất cả thế
sự đều giúp họ tăng số, đối với họ các bí mật Nước Trời đều bị giấu kỹ (68).
Các con hãy thật lòng trở nên những người nghèo khó, hiền lành, những người đói
khát sự thánh thiện, những người có lòng thương xót, có lòng thanh sạch, những
người sẽ làm cho thế giới nhận biết sự bình an của Thiên Chúa (69).
Niềm vui được thuộc về Chúa mãi
mãi là hoa trái khôn sánh của Chúa Thánh Thần mà các con đã từng được thưởng
thức. Được tràn đầy nguồn vui ấy, các con hãy tin tưởng nhìn thẳng về tương
lai, vì Đức Ki-tô sẽ gìn giữ cho, dù gặp phải thử thách. Theo mức độ nguồn vui
ấy giãi ra từ những cộng đoàn của các con, nó sẽ là dấu chỉ cho mọi người thấy rằng
: nếp sống mà các con đã chọn giúp các con phát triển đời sống trong Đức Ki-tô
tối đa, nhờ sự từ bỏ trong ba lời khấn dòng. Bấy giờ những người trẻ tuổi, khi
thấy cách các con sống, sẽ có thể nhận ra được lời Đức Giê-su mời gọi hằng vang
dội lên trong lòng họ (70).
Thật vậy, Công Đồng cũng nhắc lại cho các con rằng : “Gương sáng của đời sống
các tu sĩ là cách thức tốt đẹp nhất và hiệu nghiệm để giới thiệu các Dòng và
mời gọi người ta đón nhận đời sống tu trì” (71).
Cũng không thể hồ nghi rằng khi tỏ lòng mến phục và yêu mến các con, các giám
mục và linh mục, các cha mẹ và các nhà giáo dục công giáo đã gieo vào lòng
nhiều người một ước muốn đi theo con đường của các con, để đáp lại tiếng mời
gọi của Đức Ki-tô hằng vang lên trong lòng các môn đệ Người.
Xin Mẹ chí ái của Chúa mà các
con đã noi gương để tận hiến cuộc đời các con cho Thiên Chúa khẩn nài cho các
con, trên bước đường hằng ngày, được nguồn vui bất diệt mà chỉ có Đức Giê-su
mới có thể ban cho các con. Và ước gì theo gương Mẹ, đời sống của các con biểu
lộ được “mối
tình mẫu tử mà tất cả những ai hợp tác trong sứ mạng tông đồ của Giáo Hội đều
phải có, vì tất cả đều hoạt động để tái sinh nhân loại” (72).
Các nam nữ tu sĩ rất thân mến, ước gì niềm vui của Chúa biến hình đổi dạng đời
sống tận hiến của các con, và ước gì tình yêu của Người làm cho cuộc đời các
con trở nên phong phú. Nhân danh Chúa và với tất cả tấm lòng, Ta ban phép lành
cho các con.
Va-ti-ca-nô, lễ các thánh tông
đồ Phê-rô và Phao-lô
ngày 29
tháng 6 năm 1971,
năm thứ
chín tôi làm giáo hoàng.
Phao-lô VI
————————-
(1) Tông thư Il tempo massimo,
02-07-1962.
(2) GH, số 46.
(3) DT.
(4) Lc 18,29-30.
(5) MV, số 43.
(6) X. GH, ch.V.
(7) X. ES và RC.
(8) Lc 22,32.
(9) X. DT, số 1.
(10) X. Gl 5,13 ; 2 Cr 3,17.
(11) GH, số 43.
(12) GH, số 44.
(13) GH, số 44.
(14) DT, số 7.
(15) X. Pl 3,10-11.
(16) Mt 6,6.
(17) DT, số 5.
(18) X. GH, số 45 ; DT, số 2b.
(19) Ga 1,13.
(20) Rm 12,2.
(21) X. 1 Cr 12,12-30.
(22) X. MV, số 48 ; Ep 5,25.32.
(23) Xem diễn văn cho Nhóm “Notre Dame”,
4-5-1970, số 4, trang AAS 2 (1970), 429.
(24) GH, số 42.
(25) X. Mt 10,39 ; Mc 8,25 ; Lc 9,24 ; Ga
12,25.
(26) X. Tv 9,13 ; G 34,28 ; Cn 21,13.
(27) X. Lc 4,18 ; 6,20.
(28) X. Mt 25,35-40.
(29) MV, số 63.
(30) X. Mt 19,21 ; 2 Cr 8,9.
(31) Thông điệp “Phát triển các dân tộc”,
số 21.
(32) DT, số 13.
(33) IV, 8 ; x. Cv 4,32.
(34) X. DT, số 17.
(35) X. DT, số 14 ; Ga 4,34 ; 5,30 ;
10,15-18 ; Dt 5,8.10 ; Tv 40,8-9.
(36) X. GH, I-III.
(37) X. Lc 22,26 ; Ga 13,14.
(38) Mt 20,28 ; x. Pl 2,8.
(39) X. Lc 2,51.
(40) X. Lc 9,23-24.
(41) DT, số 14.
(42) GH, số 43.
(43) DT, số 14.
(44) MV, số 16.
(45) Dt 5,8.
(46) X. Lc 12,49-50.
(47) X. 1 Cr 3,18-19.
(48) GH, số 13.
(49) X. Is 46,8.
(50) GH, số 43.
(51) 1 Cr 2,14-15.
(52) X. Gl 6,2.
(53) MV, số 18.
(54) Ga 1,9.
(55) X. Hs 2,14.
(56) Xem Huấn thị về đời sống chiêm
niệm Venite seorsum,
15-8-1969, trong AAS 61 (1969), 674-690 ; Thông điệp của các tu sĩ chiêm niệm
gửi Thượng Hội Đồng Giám Mục, 10-10-1967, trong DC 64, cột 1907,1910.
(57) X. PV.
(58) Xem Nghi thức khấn dòng.
(59) X. PV, số 15.
(60) PV, số 47.
(61) GH, số 46.
(62) DT, số 2c.
(63) GM, số 35,3.
(64) 1 Cr 3,22-23 ; x. MV, số 37.
(65) GH, số 31.
(66) GH, số 43.
(67) X. Lc 12,32.
(68) X. Lc 10,21.
(69) X. Mt 5,3-11.
(70) X. Mt 19,11-12 ; 1 Cr 7,34.
(71) DT, số 24.
(72) GH, số 65.
(catechesis.net) November 15,
2018
Nhân dịp Năm Thánh mừng ơn cứu
chuộc (1983-1984, kỷ niệm 1500 năm biến cố Thập giá và Phục sinh), Đức Gio-an
Phao-lô II viết một tông thư cho các tu sĩ, trình bày mối liên hệ giữa sự tận
hiến tu trì và mầu nhiệm cứu chuộc. Với giọng văn suy niệm, người mời gọi các
tu sĩ khám phá những chiều kích thần bí sâu xa của việc tận hiến : đó là
một “giao
ước tình yêu” với Chúa Cha, trong Đức Ki-tô, nhờ quyền năng của Thánh Thần (số
8). Qua giao ước đó, người tu sĩ chia sẻ với Chúa Cha và Đức Ki-tô mối ưu tư về
việc cứu độ nhân loại, và tham gia vào sứ mạng tông đồ của Giáo Hội. Việc tuyên
giữ ba lời khuyên Phúc Âm biểu lộ việc thông dự vào mầu nhiệm thập giá của Đức
Ki-tô (số 10).
Bố cục của văn kiện khá đơn
giản. Trong bảy chương (gồm cả nhập đề và kết luận) gồm 17 số, Đức thánh cha
cho thấy ý nghĩa sâu xa của những yếu tố làm nên đời tận hiến : Ơn gọi (3-6) ;
Sự tận hiến (7-8) ; Các lời khuyên Phúc Âm (9-13) ; Lòng yêu mến Giáo Hội qua
việc làm chứng và hoạt đồng tông đồ (14-15).
——————————————–
Anh chị em thân mến trong Đức
Ki-tô Giê-su !
Lời mời gọi ấy nhắm đến tất cả
mọi thành phần trong Hội Thánh, nhưng
đối với các con là những tu sĩ nam nữ, lời mời gọi ấy được gửi
đến một cách đặc biệt bởi vì do việc tận hiến cho Thiên Chúa qua việc tuyên giữ
các lời khuyên Phúc Âm, các con hướng đến một sự viên mãn đặc biệt của đời sống
Ki-tô hữu. Ơn gọi riêng của các con cũng như toàn bộ đời sống của các con trong
Hội Thánh và trong thế giới, sở dĩ có được tính chất và sức mạnh thiêng liêng
là nhờ chính chiều sâu
của mầu nhiệm cứu chuộc. Khi bước theo Đức Ki-tô trên đường “chật… và hẹp” (Mt 7,14),
các con cảm nghiệm được một cách phi thường rằng “ơn cứu chuộc nơi Người
chan chứa” : copiosa
apud eum redemptio (Tv 129,7).
Cha chào thăm các con với tâm
tình quý mến của vị Giám mục Rô-ma và là người kế nhiệm thánh Phê-rô, mà các
cộng đoàn của các con vốn hiệp nhất với, một cách đặc biệt. Từ toà của thánh
Phê-rô này, những lời của thánh Phao-lô cũng vang lên như một tiếng vọng liên
lỉ : “Tôi đã đính hôn
anh em với một người độc nhất, để tiến dâng anh em cho Đức Ki-tô như một nữ
trinh thanh khiết” (x. 2 Cr 11,2). Sau thời các Tông Đồ, Hội Thánh lãnh nhận
kho tàng lễ cưới với Đấng Phu Quân thiên linh, do đó, với một tình yêu tột bậc,
Hội Thánh ngắm nhìn tất cả mọi con trai và con gái của mình là những người, do
việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, đã thiết lập, nhờ vào sự trung gian của
Hội Thánh, một giao ước tuyệt vời với Đấng Cứu Chuộc thế gian.
Các con hãy đón nhận lời này
của Năm Thánh cứu chuộc như một lời yêu thương mà Hội Thánh gửi đến các con.
Hãy đón nhận lời ấy, bất cứ các con ở đâu : hoặc ở trong nội vi những cộng đoàn
chiêm niệm hoặc ở giữa những cách thức hoạt động tông đồ đa dạng như : truyền
giáo, sinh hoạt mục vụ, các bệnh viện hay các nơi khác để phục vụ con người đau
khổ, các viện giáo dục, các nhà trường hoặc viện đại học, và sau cùng ngay tại
mỗi một ngôi nhà của các con, nơi mà các con “tề tựu lại nhân danh Đức Ki-tô” với ý thức
là có Chúa “ở
giữa các con” (x. Mt 18,30).
Ước chi lời nói yêu thương mà Hội Thánh ngỏ
với các con trong năm thánh cứu chuộc này phản ánh được lời
yêu thương mà chính Đức Ki-tô đã ngỏ với mỗi một người trong các con, khi một
ngày kia Người thốt ra lời huyền nhiệm “Hãy
theo Ta” (x. Mt 19,21 ; Mc 10,21 ; Lc 18,22), để từ đó làm phát sinh ơn gọi của
các con trong Hội Thánh.
“Đức
Giê-su nhìn người ấy và đem lòng trìu mến”. Tình yêu của Đấng Cứu Chuộc là thế
đấy : một tình yêu bừng lên từ cõi thâm sâu thiên linh và nhân loại của sự cứu
chuộc. Tình yêu này phản ánh tình
yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa Cha, Đấng “đã yêu mến thế gian đến
nỗi đã ban Con một của Người, ngõ hầu mọi kẻ tin vào Người Con ấy thì không
phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3,16). Được chiếm đoạt bởi tình yêu
ấy, Chúa Con đã lãnh nhận sứ mệnh từ nơi Cha Người trong Chúa Thánh Thần và đã
trở thành Đấng Cứu Chuộc thế gian. Tình yêu của Cha đã được biểu lộ nơi Con của
Người như một tình yêu
cứu chuộc. Chính tình yêu ấy làm thành giá cứu chuộc nhân loại và
thế giới. Các thánh tông đồ đã nói tới giá cứu chuộc với một niềm cảm kích sâu
xa, như thánh Phê-rô đã viết : “Anh
em biết : không phải bằng những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã
được cứu thoát… nhưng là bằng máu châu báu của Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích,
là Đức Ki-tô” (1 Pr 1,18-19). Thánh Phao-lô thì quả quyết : “Anh em đã được chuộc lại
với giá rất đắt” (1 Cr 6,20).
Lời mời gọi đi vào con đường
các lời khuyên Phúc Âm phát sinh từ
sự gặp gỡ bên trong với tình yêu của Đức Ki-tô, tình yêu cứu
chuộc. Chính đó là tình yêu mà Đức Ki-tô dùng để mời gọi. Trong cơ cấu của ơn
gọi, sự gặp gỡ với tình yêu ấy trở thành một cái gì thật là cá biệt. Các nam nữ
tu sĩ thân mến, Đức Ki-tô “sau
khi đã nhìn các con và đem lòng trìu mến các con”, thì Người mời gọi mỗi một
người trong các con, và lúc đó tình yêu cứu chuộc của Người được dành riêng cho
một cá nhân nhất định và đồng thời mặc lấy tính chất hôn ước : tình yêu ấy trở
thành một thứ tình yêu tuyển
chọn. Một tình yêu như thế vây bọc con người toàn diện, cả hồn lẫn
xác, dầu là nam hay nữ, trong chính cái “bản
ngã” cá biệt và duy nhất. Đấng đã phó mình muôn thuở cho Cha Người, Đấng ấy
tự “trao
hiến” chính mình trong mầu nhiệm cứu chuộc, thì này đây Người đã mời gọi con
người, để đến lượt mình họ cũng tự hiến hoàn toàn cho một công việc phục vụ đặc
biệt của công trình cứu chuộc, bằng cách gia nhập một cộng đoàn huynh đệ được
Hội Thánh công nhận và phê chuẩn. Lời mời gọi này chẳng được vọng lại cách đích
đáng qua những câu nói của thánh Phao-lô dưới này sao : “Hay là anh em lại không
biết rằng thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần … và anh em không còn
thuộc về mình nữa sao ? Anh em đã được chuộc lại với giá rất đắt” (1 Cr
6,19-20) ?
Đúng thế, tình yêu của Đức
Ki-tô đã bắt được từng người trong các con, hỡi anh chị em thân mến, bằng
chính “giá”
cứu chuộc. Do đó, các con nhận ra rằng các
con không còn thuộc về mình nữa, nhưng là thuộc về Người. Sự nhận
thức ấy là hoa trái do “cái
nhìn” của Đức Ki-tô trong cõi lòng kín nhiệm của các con. Các con đã đáp lại
cái nhìn ấy bằng cách chọn lấy Đấng đã chọn từng người trong các con, bằng cách
mời gọi các con với tình yêu vô biên cứu chuộc của Người. Khi gọi mỗi người
bằng “tên
riêng của họ”, Người luôn luôn nại
tới sự tự do của con người. Đức Ki-tô nói : “Nếu anh muốn …”. Sự đáp
trả lời mời gọi ấy là một lựa chọn tự do. Các con đã chọn Đức Giê-su Na-da-rét,
Đấng Cứu Chuộc thế gian, khi các con chọn con đường mà Người đã vạch ra cho các
con.
Bởi vậy, lời mời gọi trở nên
trọn lành nằm ngay trong chính yếu tính của ơn gọi Ki-tô hữu. Cũng phải quy chiếu vào lời
mời gọi ấy để hiểu những lời Đức Giê-su ngỏ với chàng thanh niên trong Phúc Âm.
Những lời ấy được liên kết một cách đặc biệt với mầu nhiệm cứu chuộc con người
trong thế gian. Quả thực, sự cứu chuộc trả lại cho Thiên Chúa cái công trình
sáng tạo đã bị tội lỗi làm ô nhiễm, bằng cách làm cho sự trọn lành được biểu
lộ, sự trọn lành mà toàn thể tạo thành – cách riêng con người – có được trong
tư tưởng và trong ý định của chính Thiên Chúa. Đặc biệt là con ngườicần phải
được hiến dâng và trao trả cho Thiên
Chúa, nếu như con người cũng cần phải được trao trả cách trọn vẹn cho chính mình. Do đó mới
có lời mời gọi muôn thuở : “Hãy
trở lại với Ta, vì Ta đã cứu chuộc ngươi rồi” (Is 44,22). Những lời của Đức
Ki-tô “Nếu
anh muốn nên trọn lành, thì hãy đi và bán đứt của cải anh có mà cho người
nghèo…” chắc hẳn đưa chúng ta vào trong khuôn khổ của lời khuyên nghèo khó
trong Phúc Âm, là lời khuyên nằm trong chính yếu tính của ơn gọi và của sự
tuyên khấn dòng.
Đồng thời có thể hiểu những lời
nói ấy theo nghĩa rộng hơn, và nói được là rộng rãi hơn và chủ yếu. Vị Thầy
Na-da-rét mời gọi kẻ đối thoại với Người hãy khước từ một thứ chương trình sống,
trong đó phạm trù nổi bật hàng đầu là phạm trù chiếm hữu, phạm trù “sở đắc” để, thay vào
đó, đón nhận một
chương trình sống quy hướng về giá trị của nhân vị, về “nhân cách” với tất cả tầm
cao quý của con người (*).
Hiểu được những lời nói của Đức
Ki-tô như thế là tạo được bối cảnh rộng lớn hơn cho lý tưởng sống khó nghèo
theo Phúc Âm, một cách đặc biệt cho sự khó nghèo, với tư cách là lời khuyên
Phúc Âm vốn nằm trong lãnh vực cốt yếu của hôn lễ huyền nhiệm của các con với
Đấng Phu Quân thiên linh trong Hội Thánh. Dựa vào ánh sáng của nguyên lý “nhân cách thì lớn hơn là
sở đắc” (nhất là khi “sở
đắc” được hiểu theo vật chất và lợi ích), để đọc những lời nói của Đức Ki-tô,
thì hầu như chúng ta đạt tới những
nền tảng nhân học của ơn gọi trong Phúc Âm. Trong bối cảnh của
nền văn minh hiện tại, đây quả là một khám phá có tính chất rất thời sự. Và
cùng một lúc, ơn gọi sống theo “con
đường trọn lành”, như Đức Ki-tô đã vạch ra, cũng trở thành một vấn đề thời sự.
Trong khung cảnh của nền văn minh hiện đại, nhất là trong bối cảnh của một xã
hội tiêu thụ, nếu như con người cảm nghiệm một cách đau xót về sự thiếu thốn
chính “nhân
cách” do bởi tất cả các hình thức “sở
đắc” quá thừa thãi, thì lúc đó con người sẽ trở nên thuận lợi hơn để đón nhận
chân lý về ơn gọi đã được Phúc Âm công bố một lần cho tới mãn đại. Đúng thế,
anh chị em thân mến, lời mời gọi mà các con đón nhận khi bước vào con đường
tuyên khấn dòng đạt tới ngay
chính gốc rễ của nhân tính, gốc rễ của vận mệnh con người trong thế
giới hiện tại. Bậc “sống
trọn lành” theo Phúc Âm không tách biệt các con khỏi những gốc rễ ấy. Ngược lại
bậc ấy giúp cho các con bám víu mạnh mẽ hơn vào cái gì làm cho con người thực
sự là một con người, bằng cách đem men thần nhân của mầu nhiệm cứu chuộc thâm
nhập vào nhân tính ấy, một nhân tính đã bị tội lỗi làm cho ra trì trệ bằng muôn
ngàn cách.
Dưới ánh sáng của những lời ấy
thì lời mời gọi của Đức Ki-tô trở thành hết sức hiển nhiên : “Anh hãy đi và bán đứt
những của cải anh có mà cho người nghèo và anh sẽ có một kho tàng trên trời ;
đoạn hãy đến theo tôi” (Mt 19,21). Giữa lời nói “hãy đi” và những từ tiếp
theo “hãy
đến, theo tôi” có một tương quan chặt chẽ. Có thể nói được là những lời cuối
xác định ngay chính yếu tính của ơn gọi ; những lời ấy thực ra nói tới vấn đề
đi theo Đức Ki-tô (Sequi –
đưa tới thành ngữ Sequela
Christi). Các từ ngữ “hãy
đi – hãy bán, – hãy đem cho” dường như xác định tình trạng trước khi nhận ơn
gọi. Dẫu vậy, mặt khác, tình trạng ấy không nằm “bên ngoài” ơn gọi ; tình
trạng ấy đã được “bao
hàm ở trong” ơn gọi rồi. Bởi vì con người khám phá ra ý nghĩa mới của nhân tính
mình không phải chỉ để “theo”
Đức Ki-tô thôi, nhưng còn thực hiện tất cả yêu sách của việc bước
theo Người. Khi con người “bán
cái mình có” và “đem
cho người nghèo”… thì con người khám phá ra rằng của cải với tiện nghi mà mình
chiếm hữu được trước đây không phải là kho tàng để cho mình dừng lại ở đó
: kho tàng ở trong con
tim của mình, con tim mà Đức Ki-tô đã uốn nắn cho có khả năng “trao tặng” cho người khác
bằng cách tự trao tặng
mình. Người giàu không phải là người chiếm hữu nhưng là người ban
phát, người có khả năng để
ban phát, trao tặng.
Về điểm này, nghịch lý Phúc Âm
quả là có ý vị đặc biệt. Nghịch lý ấy trở thành một chương trình hiện hữu :
trở nên người nghèo, theo nghĩa mà Vị Thầy Na-da-rét đã gán cho cách “hiện hữu” ấy, có nghĩa là
trở nên, ngay trong nhân cách của mình, một người phân phát điều tốt lành. Điều
đó cũng có nghĩa là “khám
phá ra kho tàng”. Kho tàng này không
thể bị huỷ diệt. Kho tàng này cùng với con người bước vào chiều
kích vĩnh cửu, kho tàng này thuộc về vận mệnh cánh chung thiên linh của con
người. Nhờ kho tàng này, con người có được tương lai vĩnh viễn của mình nơi
Thiên Chúa. Đức Ki-tô nói : “Anh
sẽ có kho tàng trên trời”. Kho tàng này không phải là một “phần thưởng” sau khi chết
dành cho những hoạt động đã được thực thi nhằm noi gương Thầy thiên linh, cho
bằng là sự hoàn tất có
tính cách cánh chungcủa những gì tiềm ẩn ở đàng sau những hoạt động
mà, ngay khi còn ở đời này, đã có ở trong “kho tàng” nội tại của con tim. Quả thế,
chính Đức Ki-tô, trong bài giảng trên núi, sau khi đã mời gọi thâu góp cho được
những kho tàng trên trời, đã nói thêm : “Kho
tàng của anh ở đâu, thì lòng anh cũng ở đấy” (x. Mt 6,21). Lời quả quyết ấy nói
lên tính cách cánh chung của ơn gọi được thể hiện qua con đường hôn lễ thiêng
liêng với Đức Ki-tô bằng việc thực hành những lời khuyên Phúc Âm.
Bởi đó, lời mời gọi đi vào con
đường các lời khuyên Phúc Âm luôn phát sinh từ Thiên Chúa : “Không phải các con đã
chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, đã cắt đặt các con, ngõ hầu các
con đi và sinh hoa quả và để hoa quả của các con được bền mãi” (Ga 15,16). Ơn
gọi, nhờ đó con người khám phá ra, từ mãi tận nơi sâu thẳm của nó, cái định
luật Phúc Âm về việc trao ban được ghi khắc trong nhân tính của mình, chính ơn
gọi ấy là một hồng ân được
ban. Đây là một hồng ân phong phú hàm chứa cái gì thâm sâu, trong đó phản ánh
khía cạnh thần nhân của mầu nhiệm cứu chuộc thế gian. “Tình yêu cốt ở điều này :
không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương
chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga
4,10).
Việc tuyên khấn này tạo ra,
trong Đức Giê-su Ki-tô, một dây liên hệ mới giữa con người với một Thiên Chúa
Ba Ngôi. Dây liên hệ này phát triển từ dây
liên hệ nguyên thuỷ hình thành nhờ bí tích rửa tội. Sự
khấn dòng “ăn
rễ sâu trong sự tận hiến của phép rửa tội và biểu lộ sự tận hiến này cách sung
mãn hơn” (x. DT 3 ; YT 5). Như thế, sự tận hiến này với những yếu tố cấu thành
của nó, trở thành một sự tận hiến mới, sự tận hiến và hiến dâng bản thân con
người cho Thiên Chúa đáng mến trên hết mọi sự. Với lời khấn, các con đã ràng
buộc mình sống cách cụ thể những lời khuyên Phúc Âm khiết tịnh, khó nghèo và
vâng phục tuỳ theo những quy định riêng biệt của gia đình dòng tu các con, như
đã ấn định trong các Hiến pháp : sự ràng buộc này biểu lộ một sự tận
hiến cho Thiên Chúa và đồng thời nói lên phương tiện giúp thực hiện sự tận hiến
ấy. Từ đó thành hình chứng tá và hoạt động tông đồ riêng biệt của các người tận
hiến. Tuy nhiên, cần phải tìm nguồn gốc của sự tận hiến ý thức và tự do này, và cũng
là nguồn gốc của sự
hiến thân cho Thiên Chúa để thuộc về Người, ở bí tích rửa tội : bí
tích này dẫn đưa chúng ta đến mầu nhiệm vượt qua là chóp đỉnh và trung tâm của
ơn cứu chuộc đã được Đức Ki-tô đã hoàn tất.
Cho nên, để làm nổi bật đầy đủ
thực tại về việc khấn dòng, cần phải tham khảo những lời rung động của thánh
Phao-lô trong thư gửi các tín hữu Rô-ma : “Anh em không biết rằng : Hết thảy ta đã được
thanh tẩy trong Đức Ki-tô Giê-su, thì chính trong sự chết của Người mà ta đã
được thanh tẩy sao ? Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng với Người trong sự
chết ngõ hầu như Đức Ki-tô… cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới. Con
người cũ của ta đã cùng bị đóng đinh thập giá với Người… ngõ hầu ta khỏi làm nô
lệ cho tội nữa… Cả anh em cũng vậy, hãy kể mình là đã chết đối với tội, và đang
sống cho Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô” (Rm 6,3-4.11).
Sự khấn dòng – đặt nền tảng
trên bí tích rửa tội – là một sự “mai
táng” mới trong cái chết của Đức Ki-tô : mới, bởi ý thức rõ rệt và lựa chọn ;
mới, bởi tình yêu và ơn gọi ; mới, bởi sự “hoán cải không ngừng”. Một sự “mai táng trong cái chết”
như thế làm cho con người, “đã
được mai táng với Đức Ki-tô”, “bước
đi với Đức Ki-tô trong một đời sống mới”. Chính trong Đức Ki-tô
chịu đóng đinh mà sự hiến thánh rửa tội cũng như sự tuyên giữ các lời khuyên
Phúc Âm tìm được nền tảng tối hậu của mình : sự tuyên giữ các lời khuyên Phúc
Âm, theo lời lẽ của Công Đồng Va-ti-ca-nô II, “cấu thành một sự hiến thánh mới”. Nó vừa là sự chết vừa
là sự giải thoát.
Thánh Phao-lô viết : “Anh
em hãy kể mình như đã chết đối với tội” ; thế nhưng, đồng thời, người cũng gọi
cái chết đó là “sự
giải thoát khỏi làm nô lệ cho tội”. Nhưng, tiên vàn, sự tận hiến tu trì, đặt
trên nền tảng bí tích rửa tội, tạo nên “một
đời sống mới cho Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô”.
Vì thế, khi khấn giữ những lời
khuyên Phúc Âm, thì đồng thời người ta cũng “cởi bỏ con người cũ” một cách chín chắn và ý
thức nhiều hơn và, cũng bằng cách ấy, người ta “mặc lấy con người mới đã được sáng tạo
theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện thực sự”, như đã chép trong
thư gửi các tín hữu Ê-phê-xô (x. Ep 4,22.24).
Lời mời gọi trong Phúc Âm
: “Nếu anh
muốn nên trọn lành…, hãy theo tôi” hướng dẫn chúng ta dưới ánh sáng những lời
của vị Thầy thiên linh. Từ đáy sâu thẳm của sự cứu chuộc, phát ra lời mời gọi
của Đức Ki-tô và, từ sự sâu thẳm này, lời mời gọi ấy thấu đến linh hồn con
người : nhờ hồng ân cứu
chuộc, lời mời gọi cứu độ này mang một hình thù cụ thể trong lòng
kẻ được mời gọi, đó là sự tuyên khấn giữ những lời khuyên Phúc Âm. Chính dưới
hình thù này mà các con đáp trả lời mời gọi của tình yêu cứu chuộc, và lời đáp
trả này cũng lại là một lời đáp trả của tình yêu : tình yêu trao hiến, tình
yêu này là linh hồn của
sự tận hiến, hiểu theo nghĩa là sự tận hiến bản thân. Những lời của
ông I-sai-a “Ta đã
chuộc lấy ngươi – ngươi là của Ta” dường như đóng ấn chắc chắn
vào tình yêu này, tình yêu của một sự tận hiến toàn diện và độc hữu cho Thiên
Chúa.
Như thế, giao ước đặc biệt
của tình yêu hôn ước được
thiết lập, từ đó dội lên như một tiếng vang liên lỉ những lời nói về Ít-ra-en
mà Chúa “đã
chọn lấy cho mình… để làm sản nghiệp riêng” (x. Tv 134,4). Trong mỗi một người
tận hiến, thì quả thực là “Ít-ra-en”
của giao ước mới và vĩnh viễn đã được lựa chọn. Toàn dân thời cứu thế -toàn thể
Hội Thánh– được lựa
chọn trong mỗi người nào mà Chúa lựa chọn giữa lòng dân ấy,
trong mỗi con người mà, vì
hết thảy mọi người, tự hiến mình cho Thiên Chúa để được thuộc về
một mình Người mà thôi. Thực ra, không ai, kể cả người thánh thiện nhất, có thể
lặp lại những lời của Đức Ki-tô “vì
họ, Con tự hiến thánh” (Ga 17,19) với tất cả quyền năng cứu chuộc đặc thù của
các lời ấy ; nhưng, nhờ sự hiến dâng bản thân vì tình yêu, trong khi dâng mình
cho Thiên Chúa để chỉ thuộc về Người mà thôi, thì mỗi người có thể thấy mình,
nhờ đức tin, nằm ở trong hướng đi của các lời ấy.
Những lời khác của vị tông đồ,
trong thư gửi tín hữu Rô-ma mà chúng ta lặp đi lặp lại và suy niệm nhiều lần,
chẳng dẫn chúng ta đến điều ấy sao ? “Tôi
khuyên anh em : nhân vì lòng thương xót của Thiên Chúa, anh em hãy hiến dâng
thân mình anh em làm lễ tế sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là
sự thờ phượng thiêng liêng của anh em” (Rm 12,1). Trong những lời này vang lên
như một tiếng vọng xa xa từ Đấng, khi đi vào thế giới và trở thành người, đã
nói : “Ngài đã nặn nên
thân xác cho con… Này con đến để thi hành ý muốn Ngài, lạy Thiên
Chúa” (Dt 10,5.7).
Vậy, trong khung cảnh đặc biệt
của Năm Thánh cứu chuộc này, chúng ta hãy trở về với mầu nhiệm thân xác và linh
hồn Đức Ki-tô, như về với chủ thể trọn vẹn của tình yêu hôn ước và cứu chuộc :
hôn ước, bởi vì cứu chuộc. Vì
yêu, Người đã tự hiến mình, vì yêu Người đã thí thân xác mình để
chuộc tội thế gian. Khi dìm mình vào mầu nhiệm vượt qua của Đấng Cứu Thế, bằng
sự hiến thánh do các lời khấn dòng, thì chính các con, với tình yêu hiến dâng
trọn vẹn, các con ước mong cho linh hồn và thân xác các con được thấm nhuần
tinh thần hy sinh, như thánh Phao-lô mời gọi chúng ta làm điều ấy qua những lời
trong thư gửi các tín hữu Rô-ma vừa được trích dẫn trên đây, là “hiến dâng thân mình anh
em làm lễ tế sống động”. Bằng cách ấy, sự khấn dòng của các con được in dấu
bằng sự giống như tình
yêu ở trong trái tim Đức Ki-tô, nó vừa có tính cách cứu chuộc vừa
có tính cách hôn ước. Một tình yêu như thế phải tuôn trào, nơi mỗi người các
con, hỡi anh chị em thân mến, tự chính nguồn mạch của sự tận hiến đặc biệt :
sự tận hiến này, trên nền tảng thánh bí tích rửa tội, là khởi đầu cho cuộc sống mới của các
con trong Đức Ki-tô và trong Hội Thánh, khởi đầu của cuộc tạo thành mới.
Cùng với tình yêu này, ước chi
cũng ăn sâu vào mỗi người các con, sự
vui mừng được thuộc độc quyền sở hữu của Thiên Chúa, được làm cơ
nghiệp riêng của Ba Ngôi rất thánh là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần !
Đồng thời các con hãy lặp lại những lời linh hứng của tác giả Thánh vịnh
: “Con còn
ai chốn trời xanh, bên Ngài thế sự thật tình chẳng ham ! Dẫu cho hồn xác suy
tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn” (Tv 72,25-26).
Hoặc những lời này : “Con thưa cùng Chúa :
‘Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc ?’… Lạy Chúa, Chúa là
phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con, số mạng con,
chính Ngài nắm giữ” (Tv 15,2.5).
Ước chi sự ý thức được thuộc về
chính Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu chuộc thế gian và Đấng Phu
Quân của Hội Thánh, nên như một ấn
tín in dấu người hiền thê trong Kinh Thánh vào những cõi lòng (x. Dc
8,6), vào hết mọi tư tưởng, vào lời nói và việc làm của các con ! Như các con
đã biết, sự hiểu biết nồng nhiệt và sâu sắc này về Đức Ki-tô được thực hiện và
ăn rễ mỗi ngày thêm sâu đậm nhờ đời sống cầu nguyện riêng tư, cộng đoàn và
phụng vụ riêng của mỗi gia đình dòng tu của các con. Ở đây nữa, và nhất là ở
đây, những nam nữ tu sĩ hoàn toàn chuyên về chiêm niệm đem lại cho các anh chị
em của mình đang chăm lo làm việc tông đồ một sự giúp đỡ thiết thực và một sự
yểm trợ khích lệ. Ước chi sự ý thức được thuộc về Đức Ki-tô này mở lòng, mở tâm tư và hành
động của các con, với cái chìa khoá của mầu nhiệm cứu chuộc, trước mọi đau khổ,
mọi nhu cầu và mọi hy vọng của nhân loại và của thế giới : giữa lòng họ, sự tận
hiến Phúc Âm của các con được đính vào như một dấu hiệu đặc biệt nói lên sự
hiện diện của Thiên Chúa, “mọi
người đều sống cho Người” (x. Lc 20,38), mọi người đều được Nước Trời ôm ấp
cách vô hình.
Anh chị em thân mến, lời “hãy theo tôi” mà Đức
Ki-tô đã nói khi “Người
nhìn” mỗi người các con “và
đem lòng yêu mến”, cũng có ý nghĩa này là : hãy tham dự đầy đủ hết sức và triệt
để hết sức vào công việc hình thành của “cuộc
tạo thành mới”, thành quả của công trình cứu chuộc thế gian với sức mạnh của
Thánh Thần Chân Lý tác động, qua mầu nhiệm vượt qua của Đức Ki-tô tràn trề ân
sủng.
Yếu tố cốt yếu của “nhiệm cục” này là biến đổi tất cả vũ
trụ qua trái tim con
người, nghĩa là từ bên trong : “Muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi chờ
ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người… với hy vọng là có ngày
cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với
con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,19.20-21). Sự biến
đổi này đi đôi với tình yêu mà lời mời gọi của Đức Ki-tô gieo vào lòng con người,
cái tình yêu tạo nên chính bản chất của sự tận hiến, là hành vi nhờ đó người
nam hay người nữ tự hiến mình cho Thiên Chúa, bằng việc khấn dòng, trên nền
tảng của sự tận hiến trong bí tích rửa tội. Chúng ta có thể tìm thấy những nền
tảng của nhiệm cục cứu chuộc khi đọc những lời trong thư thứ nhất của thánh
Gio-an : “Anh
em đừng yêu mến thế gian và các điều trong thế gian. Nếu ai yêu mến thế gian,
thì lòng mến của Chúa Cha không có trong kẻ ấy. Vì mọi sự trong thế gian – đam
mê của xác thịt, đam mê của con mắt, và kiêu hãnh về cuộc sống – các điều ấy
không do tự Chúa Cha, nhưng là do tự thế gian mà có. Và thế gian đang qua đi và
đam mê của nó ; còn kẻ làm theo ý Thiên Chúa thì lưu tồn vạn đại” (1 Ga
2,15-17).
Anh chị em thân mến, việc khấn
dòng đặt vào trái tim các con, nam và nữ, tình yêu của Chúa Cha, là chính tình
yêu ở trong trái tim Đức Ki-tô, Đấng Cứu Chuộc thế gian. Đó là một tình yêu ôm
ấp tất cả thế gian và các
điều tự Chúa Cha mà có trong thế gian, và đồng thời đánh bại
tất cả những gì, trong thế gian, không
do tự Chúa Cha mà có. Tình yêu này nhằm mục đích đánh bại bộ ba đam
mê. “Đam mê
của xác thịt, đam mê của con mắt và kiêu hãnh về cuộc sống” trú ẩn trong con
người như gia tài của
tội nguyên tổ : vì nó mà mối quan hệ với thế gian mà Thiên Chúa
đã dựng nên và ban tặng cho con người để con người làm chủ (x. St 1,28) đã bị
méo mó nhiều cách trong lòng con người. Trong nhiệm cục cứu chuộc, những lời
khuyên Phúc Âm khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là những phương tiện triệt để
để biến đổi trong trái tim con người mối quan hệ ấy với “thế gian”, với thế gian
bên ngoài và với “chính
bản ngã”, của con người : “bản
ngã này, theo một nghĩa nào đó, là phần trung tâm “của thế gian” theo viễn
tượng của Kinh Thánh, tuỳ theo mức độ nó làm phát sinh ra những “gì không do tự Chúa Cha
mà có”.
Dựa vào thư thứ nhất của thánh
Gio-an đã trích dẫn, ta dễ nhận thấy tầm quan trọng nền tảng của ba lời khuyên
Phúc Âm trong tất cả nhiệm cục cứu chuộc. Đức khiết tịnh Phúc Âm giúp chúng ta
biến đổi, trong cuộc sống nội tâm của chúng ta, tất cả những gì bắt nguồn từ
đam mê của xác thịt ; đức
khó nghèo Phúc Âm giúp biến đổi tất cả những gì bắt nguồn từ
đam mê của con mắt ; đức
vâng phục Phúc Âm giúp biến đổi triệt để những gì, trong lòng
con người, phát xuất từ kiêu hãnh về cuộc sống. Ở đây chúng ta cố ý nói đến sự
vượt thắng như một sự biến đổi, bởi vì tất cả nhiệm cục cứu chuộc đều được thu
gọn trong những lời mà Đức Ki-tô đã dâng lên Chúa Cha trong lời nguyện hiến tế
: “Con
không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ họ khỏi kẻ dữ” (Ga
17,15). Những lời
khuyên Phúc Âm, theo cứu cánh chính của nó, nhằm phục vụ “sự canh tân cuộc sáng
tạo” là : “thế
gian”, nhờ những lời khuyên này, phải phục quyền con người, để chính con người
được hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa.
10. Cứu
cánh nội tại của những lời khuyên Phúc Âm cũng còn giúp chúng ta khám phá thêm
những khía cạnh khác làm nổi bật mối liên hệ mật thiết của nó với nhiệm cục cứu
chuộc. Ta biết rằng : cao điểm của nhiệm cục là mầu nhiệm Vượt qua của Đức
Giê-su Ki-tô, nơi kết hiệp sự tự
huỷ trong cái chết và sự khai sinh vào một cuộc sống mới trong
sự phục sinh.
Tự nó, việc giữ các lời khuyên Phúc Âm phản ánh cách sâu xa tính cách lưỡng
diện của cuộc Vượt qua (x. DT 5) : sự huỷ diệt triệt để những gì nơi chúng ta
thuộc về tội lỗi và những hậu quả của nó, và khả năng được tái sinh mỗi ngày vào một sự thiện sâu
xa hơn, ẩn kín trong linh hồn con người. Sự thiện này tỏ hiện ra
dưới hành động của ân sủng, mà việc giữ khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục làm
cho linh hồn được nhạy cảm đặc biệt để đón nhận. Tất cả nhiệm cục cứu chuộc
được thể hiện thực sự trong sự đón nhận hành
động nhiệm
mầu của Chúa Thánh Thần, tác giả đích thực của mọi sự thánh thiện.
Như thế thì việc giữ các lời khuyên Phúc Âm tạo ra, nơi mỗi người các con, hỡi
anh chị em thân mến, một khoảng không gian rộng lớn cho “cuộc sáng tạo mới” : cuộc
sáng tạo mới này được tỏ hiện trong “bản
ngã nhân loại” của các con chắc chắn là nhờ nhiệm cục cứu chuộc, và đồng thời,
ngang qua cái “bản
ngã nhân loại” này, cũng tỏ hiện trong những chiều kích liên hệ giữa con người
với nhau và với xã hội nữa. Vậy thì, đồng thời nó cũng tỏ hiện trong nhân loại,
như một phần tử của thế gian do Thiên Chúa dựng nên : thế gian được Chúa Cha
yêu mến với một tình yêu “mới”
trong Người Con vĩnh cửu, Đấng Cứu Chuộc thế gian.
Thánh Phao-lô nói về Chúa Con
rằng : “Tuy
là Thiên Chúa… song Người đã huỷ mình ra không, là lãnh lấy thân phận tôi đòi,
trở thành giống hẳn phàm nhân” (Pl 2,6-7). Vậy thì sự huỷ mình, mà việc giữ các
lời khuyên Phúc Âm đòi hỏi, có đặc tính hoàn toàn quy hướng về Đức Ki-tô. Và
cũng theo ý nghĩa đó, Vị Thầy Na-da-rét cho thấy rõ thập giá là một điều kiện để đi theo
Người. Đấng, một ngày nọ, đã nói với mỗi người các con, “hãy theo tôi”, thì cũng đã
nói : “Nếu
ai muốn theo tôi, thì hãy từ bỏ chính mình, hãy vác lấy thập giá của mình và
hãy theo tôi”, (nghĩa là hãy đi theo vết chân tôi) (Mc 8,34 ; Mt 16,24). Điều
này, Người nói với tất cả những người đang nghe Người, chứ không phải chỉ nói
với các môn đệ Người thôi. Như vậy thì định
luật từ bỏ nằm trong chính bản chất của ơn gọi làm Ki-tô hữu.
Tuy vậy, một cách đặc biệt, nó thuộc về bản chất của ơn gọi liên kết với sự
tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm. Những người theo đuổi con đường ơn gọi này
sẽ biết hiểu kiểu nói với những từ ngữ khó hiểu, mà chúng ta đọc trong thư gửi
các tín hữu Phi-líp-phê : “Vì
Người tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Ki-tô, và
được thuộc về Người…” (Pl 3,8.9).
Vậy thì từ bỏ – phản ánh của
mầu nhiệm Núi Sọ – để “tìm
thấy mình” cách đầy đủ hơn, trong Đức Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh ; từ bỏ
để nhận ra trong sự từ bỏ ấy mầu nhiệm về chính nhân tính của chúng ta trong
tất cả mức độ sâu xa của nó, và thừa nhận mầu nhiệm ấy bằng cách đi vào con
đường của tiến trình lạ lùng mà thánh Tông Đồ đã diễn tả ở nơi khác rằng
: “Dẫu rằng
con người bên ngoài nơi chúng tôi tiêu hao tàn tạ, thì con người bên trong nơi
chúng tôi cứ ngày ngày canh tân đổi mới” (2 Cr 4,16). Như thế thì nhiệm cục cứu
chuộc đem quyền lực của mầu nhiệm vượt qua vào địa bàn của nhân loại ngoan
ngoãn nghe lời mời gọi của Đức Ki-tô mà sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng
phục, nghĩa là sống theo những lời khuyên Phúc Âm.
Thực thế, phải căn cứ vào nhiệm
cục cứu chuộc mà đánh giá và thực hành khiết
tịnhmà mỗi người các con, đã tuyên hứa bằng lời khấn, làm một với
đức khó nghèo và đức vâng phục. Đây là lời đáp trả cho lời của Đức Ki-tô, cũng
là một lời mời gọi, là : “và
có những người yêm hoạn bởi
mình làm cho mình yêm hoạn vì Nước Trời. Ai hiểu nổi thì hãy lo hiểu lấy” (Mt
19,12). Vừa mới trước đây, Đức Ki-tô đã nhấn mạnh rằng : “Không phải mọi người đều
hiểu được lời này, nhưng chỉ những ai điều ấy đã được ban cho” (Mt 19,11).
Những lời cuối cùng này cho thấy rõ ràng rằng : lời mời gọi này là một lời
khuyên. Về điểm này, tông đồ Phao-lô cũng đã quảng diễn suy tư của người trong thư
thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô (1 Cr 7,28-40). Lời khuyên này gửi đến cho tình
yêu của trái tim con người. Nó làm nổi bật nhất là tính cách hôn ước của
tình yêu ấy, trong khi đó thì đức khó nghèo và, hơn thế nữa, đức vâng phục
dường như làm nổi bật trên hết khía cạnh cứu chuộc của tình yêu mà sự tận hiến
trong dòng tu đòi hỏi. Ở đây, như đã biết, người ta đề cập đến đức khiết tịnh
với ý nghĩa là “mình
làm cho mình yêm hoạn vì Nước Trời”, nghĩa là đến đức khiết tịnh như một sự
biểu thị tình yêu hôn ước đối với chính Đấng Cứu Thế. Về ý nghĩa này, vị Tông
Đồ dạy rằng : Ai lựa chọn bậc hôn nhân thì “làm tốt” và ai lựa chọn bậc trinh khiết
thì “làm
tốt hơn” (x. 1 Cr 7,38). Người độc thân thì lo việc Chúa, sao cho hài lòng Chúa và “người phụ nữ độc thân,
cũng như người trinh nữ, thì lo việc Chúa, để nên thánh, thân xác và tinh thần”
(1 Cr 7,32.34).
Ở đây – trong những lời của Đức
Ki-tô cũng như trong những lời của thánh Phao-lô – không hề có ý khinh chê hôn
nhân. Lời khuyên Phúc Âm về đức khiết tịnh chỉ có ý gợi cho biết rằng : trái
tim con người, nam hay nữ, đặc biệt có thể có tình yêu hôn ước đối với chính Đức Ki-tô, với
Đức Giê-su là “Đức
Chúa”. Thực thế, việc “mình
làm cho mình yêm hoạn vì Nước Trời” không phải chỉ là một sự tự ý khước từ kết
bạn và đời sống gia đình, nhưng là một lựa
chọn đặc sủng nhận lấy Đức Ki-tô, như một Đấng Phu Quân độc
nhất. Một sự lựa chọn như thế, tự nó, đã khiến người ta “phải lo việc Chúa” rồi,
nhưng thêm vào đó – khi lựa chọn ấy được thực hiện “vì Nước Trời” – thì nó
làm cho Nước cánh chung
của Thiên Chúa đến gần hơn với cuộc sống của hết mọi người,
trong những điều kiện của trần thế ; nó làm cho Nước ấy hiện diện giữa lòng thế
gian một cách nào đó.
Do đó, những người tận hiến
thực hiện cứu cánh nội tại của tất cả nhiệm cục cứu chuộc. Thực thế, cứu cánh
này được biểu lộ trong việc làm cho Nước Thiên Chúa, trong chiều kích chung
cục, cánh chung của nó, được đến gần. Bằng lời khấn đức khiết tịnh, những người
tận hiến tham dự vào nhiệm cục cứu chuộc bằng cách tự do khước từ niềm vui tạm bợ của
cuộc sống đôi bạn và gia đình ; và, đàng khác, chính vì “mình làm cho mình yêm
hoạn vì Nước Trời”, nên giữa lòng thế gian đang qua đi, họ loan báo sự phục sinh tương lai (x.
Lc 20,34-36 ; Mt 22,30 ; Mc 12,25) và cuộc sống vĩnh cửu, tức là cuộc sống kết
hiệp với chính Thiên Chúa trong cuộc hưởng kiến và tình yêu bao hàm và thấu
nhập toàn diện vào mọi hình thức khác của tình yêu trong lòng con người.
Và vì thế mà cũng đúng là “Người làm cho chúng ta
được nên giàu sang nhờ sự nghèo khó của Người” như thánh Tông Đồ viết. Người
là Thầy và là người
phát ngôn về sự khó nghèo làm cho nên giàu sang. Đúng vì thế mà
Người nói với chàng thanh niên trong Phúc Âm nhất lãm : “Hãy bán những gì anh có…
cho đi… và anh sẽ có một kho tàng trên trời” (Mt 19,21 ; x. Mc 10,21 ; Lc
18,22). Trong những lời này có một lời mời gọi nhằm làm cho kẻ khác được nên
giàu sang bằng chính sự khó nghèo của mình ; nhưng ở đáy sâu thẳm nhất của lời
mời gọi này có giấu kín chứng tá về sự giàu sang vô tận của Thiên Chúa ; sự
giàu sang vô tận này, khi được ban tặng cho linh hồn con người ngang qua mầu
nhiệm ân sủng, thì tạo nên, trong chính con người, chính nhờ sự khó nghèo, một
nguồn mạch làm cho những kẻ khác được nên giàu sang, không thể sánh ví được với
những gì do của cải vật chất sinh ra, một nguồn mạch để có thể cung cấp cho
người khác theo kiểu cách của chính Thiên Chúa vậy. Sự sung túc này được thực
hiện giữa lòng mầu nhiệm của Đức Ki-tô, “Đấng
làm cho chúng ta được nên giàu sang nhờ sự khó nghèo của Người”. Chúng ta trông
thấy tiến trình của cách làm cho nên giàu có này diễn tiến suốt các trang Phúc
Âm với cao điểm của nó trong biến cố Vượt qua : Đức Ki-tô, Đấng nghèo khó nhất
trong cái chết của Người trên thập giá, đồng thời cũng là Đấng làm cho chúng ta
được nên giàu sang vô tận nhờ sự sung mãn của cuộc sống mới, qua sự phục sinh.
Anh chị em thân mến, các con là
những người khó nghèo trong tinh thần, nhờ việc tuyên khấn Phúc Âm, các con hãy
đón nhận vào tất cả cuộc sống của mình cái đặc tính cứu chuộc ấy của sự khó nghèo của Đức Ki-tô.
Ngày này qua ngày khác, các con hãy tìm cách đào sâu nó hơn. Tiên vàn, các con
hãy “tìm
kiếm Nước Thiên Chúa, và sự công chính của Người, còn các điều khác sẽ được ban
thêm cho” (Mt 6,33). Ước chi nơi các con và qua các con, lời chúc phúc trong
Phúc Âm dành cho những người nghèo (Lc 6,20), dành cho những người có một tâm
hồn của kẻ nghèo, được thành tựu (Mt 5,3) !
Qua những lời trên trong thư
gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê, chúng ta đụng chạm đến chính bản chất của sự
cứu chuộc. Sự vâng phục của Đức Giê-su Ki-tô được viết như yếu tố đầu tiên và
tạo nên của việc cứu chuộc. Tư tưởng này được củng cố trong một bản văn khác
của thánh Tông Đồ trích từ thư gửi các tín hữu Rô-ma : “Vì do sự bất tuân của một
người, nhiều người đã bị liệt hàng tội nhân ; cũng vậy, vì sự vâng phục của một
người, nhiều người sẽ được liệt hàng công chính” (Rm 5,19).
Lời khuyên Phúc Âm về đức vâng
phục là lời mời gọi rút ra từ sự vâng phục “cho đến chết” của Đức Ki-tô. Những người đón
nhận lời mời gọi này được diễn tả qua câu “hãy theo Ta”, thì quyết định – theo giáo
huấn của Công Đồng – đi
theo Đức Ki-tô “Đấng,
do sự vâng phục của mình cho đến chết trên thập giá…, đã cứu chuộc loài người
và thánh hoá họ” (DT 1). Khi thực hiện cụ thể lời khuyên Phúc Âm về đức vâng
phục, họ nắm được bản chất thẳm sâu của tất cả nhiệm cục cứu chuộc. Khi chu
toàn lời khuyên này, họ muốn được tham dự đặc biệt vào sự vâng phục “của một người” ấy, sự
vâng phục nhờ đó mà “nhiều
người sẽ được liệt hàng công chính”.
Như vậy, có thể nói được rằng :
những người quyết tâm sống theo lời khuyên vâng phục thì đặt mình một cách đặc
biệt vào giữa mầu nhiệm về “tội
lỗi” (x. 2 Tx 2,7) và mầu nhiệm về sự công chính hoá và về ơn cứu chuộc. Họ ở
vào “nơi
ấy”, với tất cả hậu cảnh tội lỗi của bản tính nhân loại của họ, với tất cả cái
gia nghiệp của “sự
kiêu hãnh về cuộc sống”, với tất cả cái khuynh hướng ích kỷ muốn thống trị chứ
không muốn phục vụ ; và chính bởi lời khấn vâng phục, họ quyết tâm biến đổi để được nên
giống Đức Ki-tô, Đấng “vì
sự vâng phục của mình… đã cứu chuộc loài người và thánh hoá họ”. Khi tuân giữ
lời khuyên vâng phục, họ muốn tìm thấy vai trò đặc biệt của họ trong công cuộc
cứu chuộc của Đức Ki-tô và trong con đường nên thánh của họ.
Con đường mà Đức Ki-tô đã vạch
ra trong Phúc Âm là thế, khi Chúa nói nhiều lần đến sự chu toàn ý muốn của Thiên Chúa và
sự tìm kiếm liên tục thiên ý ấy. “Lương
thực của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy, và chu toàn công việc của Người”
(Ga 3,34). “Vì
tôi không tìm kiếm ý của tôi mà ý của Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30). “Đấng đã sai tôi ở với tôi
; Người đã không bỏ tôi một mình vì tôi hằng làm những sự đẹp lòng Người” (Ga
8,29). “Vì
tôi đã từ trời xuống, không phải để làm theo ý tôi, mà là ý của Đấng đã sai tôi”
(Ga 6,38). Sự chu toàn liên tục ý của Chúa Cha cũng gợi cho thấy lời tuyên ngôn
về Đấng Cứu Thế của tác giả Thánh vịnh trong Cựu Ước : “Trong sách có lời chép về
con : rằng con thích làm theo thánh ý và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên
Chúa của con” (Tv 39,8-9 ; x. Dt 10,7).
Sự vâng phục này của Chúa Con –
tràn đầy vui sướng – đạt tới tột đỉnh trong cuộc thương khó và trên thập giá
: “Lạy Cha,
nếu Cha muốn, xin cất chén này đi khỏi con ; song đừng cho ý của Con, mà là ý
của Cha được thành sự !” (Lc 22,42). Từ lời nguyện ở Ghết-sê-ma-ni, sự sẵn sàng
của Đức Ki-tô để chu toàn ý Chúa Cha đầy
tràn đau khổ đã trở thành sự vâng phục “cho đến chết và chết trên
thập giá” mà thánh Phao-lô nói đến.
Do lời khấn vâng phục của mình,
những người tận hiến quyết tâm bắt chước cách khiêm tốn sự vâng phục của Đấng
Cứu Thế và bắt chước một cách đặc biệt. Đối với hết mọi người, bất luận ở vào
bậc nào, sự phục tùng ý Thiên Chúa và sự vâng phục luật của Người là điều kiện để sống đời Ki-tô hữu ;
nhưng trong “bậc
tu trì”, trong “bậc
trọn lành”, lời khấn đức vâng phục đặt trong lòng mỗi người các con, hỡi anh
chị em thân mến, cái
nghĩa vụ phải quy chiếu đặc biệt về Đức Ki-tô “vâng lời cho đến chết”.
Và bởi vì sự vâng phục của Đức Ki-tô ở trong chính trọng tâm công cuộc cứu chuộc,
căn cứ vào những lời thánh Tông Đồ trích dẫn trên đây, thì trong việc thực hành
lời khuyên Phúc Âm về đức vâng phục, người ta cũng phải nhận ra như một khoảnh khắc có một ý nghĩa đặc
biệt của “nhiệm
cục cứu chuộc” chiếm đoạt tất cả ơn gọi của các con trong Hội Thánh.
Từ đó xuất phát “thái độ hoàn toàn sẵn sàng để theo
Chúa Thánh Thần” Đấng hành động trước hết trong Hội Thánh,
theo lời của Đức Phao-lô VI, vị tiền nhiệm của cha trong Tông huấn “Chứng Tá Phúc Âm” (x. CT
6), nhưng Người cũng tỏ hiện trong hiến pháp của các Tu hội các con. Từ đó xuất
phát sự phục tùng trong
đời tu mà, trong tinh thần đức tin, các người tận hiến phải có
đối với các bề trên hợp pháp của họ, là những người thay mặt Thiên Chúa. Trong
thư gửi các tín hữu Do-thái, chúng ta thấy có một chỉ dẫn rất rõ nghĩa về vấn
đề này : “Anh
em hãy vâng phục những người lãnh đạo anh em, hãy biết phục tùng, vì họ canh
giữ linh hồn anh em, như những kẻ phải trả lẽ, để họ được vui mừng thi hành
phận sự, chứ không phải than phiền, vì điều ấy chẳng béo bổ gì cho anh em” (Dt
13,17).
Vả lại, vì nhớ rằng phải lấy
tinh thần phục vụ mà thi hành quyền bính đã được trao phó cho mình qua thừa tác
vụ của Hội Thánh, các bề trên hãy tỏ ra sẵn sàng nghe các anh chị em của mình,
để phân định rành mạch hơn những gì Chúa đợi chờ nơi mỗi người trong họ, cho dù
quyền bính phải quyết định và truyền dạy những điều xét là thích hợp.
Song song với sự phục tùng-vâng
phục được hiểu như thế, còn có thái
độ phục vụthấm nhuần tất cả cuộc đời các con, theo gương Con Người,
Đấng “đến
không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và thí mạng sống mình làm giá
chuộc thay cho nhiều người” (Mt 20,28). Về phần Mẹ của Người, trong giây phút
quyết liệt của mầu nhiệm truyền tin và nhập thể, được thấu triệt ngay từ đầu
tất cả nhiệm cục chuộc tội của sự cứu chuộc, thì Mẹ đã thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa,
xin hãy thành sự cho tôi theo lời ngài” (Lc 1,38).
Anh chị em thân mến, các con
cũng nên nhớ rằng : đức vâng phục mà các con tự ý ràng buộc khi hiến thân trọn
vẹn cho Thiên Chúa bằng việc tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm là một biểu thị đặc biệt
của sự tự do nội tâm,
cũng giống như sự biểu thị quyết liệt của Đức Ki-tô về sự tự do của Người là sự
vâng phục “cho
đến chết” : “Tôi
thí mạng sống tôi, để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống tôi được ; nhưng
chính tôi tự mình thí mạng sống tôi” (Ga 10,17-18).
Anh chị em thân mến, Hội Thánh
bày tỏ với các con niềm tri ân của Hội Thánh đối với việc tận hiến và việc
tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm của các con, vì đó chính là chứng tá đặc biệt
của tình yêu.
Đồng thời Hội Thánh nói lại một lần nữa niềm tin tưởng lớn lao mà Hội Thánh đặt
nơi các con, những người đã lựa chọn một bậc sống vốn là hồng ân đặc biệt của
Thiên Chúa đối với Hội Thánh. Hội Thánh mong mỏi sự cộng tác hoàn toàn và quảng
đại của các con ngõ hầu, với tính cách là những người quản lý trung tín một
hồng ân rất cao quý, các con “cảm
nghĩ với Hội Thánh” và luôn luôn cùng với Hội Thánh hành động sao cho thật phù
hợp với những lời dạy bảo của quyền giáo huấn của thánh Phê-rô và các vị chủ
chăn hiệp thông với người, bằng cách nuôi dưỡng, trong lãnh vực cá nhân cũng
như tập thể, một ý thức luôn luôn đổi mới về Hội Thánh. Cùng một lúc, Hội Thánh
cầu nguyện cho các con, ngõ hầu chứng tá về tình yêu của các con không bao giờ
khiếm khuyết và Hội Thánh cũng yêu cầu các con đón nhận sứ điệp này của Năm
Thánh cứu chuộc theo tinh thần ấy.
Chính thánh Tông Đồ đã cầu
nguyện trong thư gửi các tín hữu Phi-líp-phê như thế này : “Điều tôi khấn nguyện là
lòng yêu mến nơi anh em được đầy tràn thêm lên mãi… khiến anh em phân định được
điều phải điều chăng. Như thế anh em sẽ được tinh tuyền và vô phương trách cứ
vào ngày của Đức Ki-tô, dư đầy những hoa quả công chính…” (Pl 1,9.11).
Nhờ vào sự cứu chuộc Đức Ki-tô
đã thực hiện, “tình
yêu Thiên Chúa đã toả lan trong lòng chúng ta nhờ bởi Chúa Thánh Thần đã được
ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Cha không ngừng cầu xin Chúa Thánh Thần để Người ban cho mỗi
người, trong các con, tuỳ theo “ơn
riêng” của từng người (x. 1 Cr 7,7), được làm chứng cho tình yêu ấy theo cách
riêng của mình. Ước chi, nơi các con, “luật
của Thánh Thần ban sự sống trong Đức Ki-tô Giê-su, luật đã giải thoát chúng ta
khỏi… luật của sự chết” (Rm 8,2), luôn dành được phần thắng, theo cách xứng với
ơn gọi của các con. Vì vậy các con hãy sống cuộc đời mới ấy sao cho tương xứng
với sự hiến thánh của
mình và cũng tuỳ theo mức độ của các ân
huệ khác nhau của Thiên Chúa tương xứng với ơn gọi của các
loại gia đình dòng tu. Việc tuyên khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm chỉ cho từng
người trong các con biết làm thế nào để có thể “nhờ Thần Khí, tiêu diệt” (x. Rm 8,13) tất cả
những gì nghịch lại sự sống và phục vụ cho tội lỗi và sự chết, tất cả những gì
đối nghịch với tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và loài người. Thế giới
đang cần đến sự “mâu
thuẫn” đích thực của sự tận hiến tu trì như một chất men lâu bền cho cuộc canh
tân cứu độ. “Anh em
đừng rập theo đời này, nhưng hãy canh tân lương tri mà biến hình
đổi dạng làm sao cho anh em thẩm định được ý Thiên Chúa là gì, điều gì là tốt
lành, thú vị, trọn hảo” (Rm 12,2). Sau thời gian đặc biệt dành cho việc thử
nghiệm và canh tân theo sự tiên liệu của tự sắc Ecclesiae Sanctae, các Tu
hội của các con đã tiếp nhận hoặc sắp sửa tiếp nhận sự phê chuẩn của Hội Thánh
về hiến pháp được tu chính của dòng các con. Ước chi món quà ấy của Hội Thánh khích
lệ các con tìm hiểu, yêu mến và nhất là sống những hiến pháp ấy với lòng quảng
đại và trung tín, nhớ rằng vâng phục là một cách biểu thị minh bạch tình yêu.
Chính chứng tá này của tình yêu
là điều mà thế giới và nhân loại ngày nay cần đến. Thế giới và nhân loại đang
cần đến chứng tá của ơn
cứu chuộc như đã được ghi khắc trong việc tuyên khấn giữ những
lời khuyên Phúc Âm. Những lời khuyên này, từng lời một, tuỳ theo cách riêng của
nó và tất cả một trật, trong sự liên kết chặt chẽ với nhau, đều “làm chứng” cho ơn cứu
chuộc : ơn cứu chuộc này, nhờ quyền năng của thập giá và sự phục sinh của Đức
Ki-tô, dẫn đưa thế giới và nhân loại, trong Chúa Thánh Thần, đến sự hoàn thành trọn vẹn mà
con người và, nhờ con người, mọi loài thọ tạo tìm gặp được nơi Thiên Chúa và duy chỉ nơi Thiên
Chúa mà thôi. Chứng tá của các con như vậy quả là vô giá. Các
con phải kiên trì vận dụng sao cho việc làm chứng đó được thật trong sáng và
thật hữu hiệu ở giữa loài người. Điều này cũng có thể đạt được nhờ việc trung
thành tuân giữ những quy định của Hội Thánh, liên quan tới dấu hiệu của sự biểu
lộ đời tận hiến và việc thực hành đức khó nghèo (x. GL 669).
Thực khó mà mô tả và liệt kê
muôn vàn phương thế khác nhau mà những người tận hiến sử dụng để thể hiện tình yêu của họ đối với Hội Thánh bằng
việc tông đồ. Việc tông đồ này luôn luôn phát xuất từ đặc sủng của
các vị sáng lập dòng các con, đặc sủng lãnh nhận từ Thiên Chúa và được Hội
Thánh công nhận đã trở thành một đoàn sủng của toàn thể cộng đoàn. Ơn ấy tương
ứng với các nhu cầu khác nhau của Hội Thánh và của thế giới vào mỗi thời kỳ của
lịch sử, và, đến lượt nó, ơn ấy được kéo dài và được củng cố trong đời sống của
các cộng đoàn tu sĩ, như là một trong những yếu tố bền vững của đời sống và
hoạt động tông đồ của Hội Thánh. Nơi từng yếu tố nói trên, trong bất cứ lãnh
vực nào – dù là lãnh
vực chiêm niệm làm phong phú cho việc tông đồ, dù là lãnh vực trực tiếp hoạt
động tông đồ -, Hội Thánh không ngừng sát cánh với các con
bằng sự chúc lành và, đồng thời, bằng sự ân cần mục vụ và mẫu tử để bảo toàn
căn tính thiêng liêng trong đời sống của các con và tính cách đúng đắn trong
hoạt động của các con giữa lòng cộng đoàn phổ quát bao gồm các ơn gọi và các đoàn sủng của
toàn thể Dân Thiên Chúa. Cho dù có nhờ vào mỗi Tu hội riêng biệt, hoặc nhờ vào
tổng thể hữu cơ của các Tu hội ấy, thì nhiệm cục cứu chuộc cũng được làm nổi
bật đặc biệt trong toàn thể sứ mệnh của Hội Thánh : mỗi người trong các con,
hỡi anh chị em thân mến, đều mang nơi mình dấu chỉ sâu đậm của nhiệm cục này,
nhân danh việc tận hiến và tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm.
Do đó, mặc dầu các hoạt động
tông đồ đa dạng của các con có cực kỳ quan trọng mấy đi nữa, thì hoạt động tông
đồ thực sự cơ bản vẫn
luôn luôn là cái mà các con là, căn tính của các con trong Hội
Thánh (*).
Mỗi người trong các con đặc biệt có thể nhắc lại những lời này của thánh Tông
Đồ : “Quả
vậy, anh em đã chết, và sự sống của anh em đã được giấu ẩn với Đức Ki-tô trong
Thiên Chúa” (Cl 3,3). Và đồng thời sự kiện “được giấu ẩn với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa”
cho phép áp dụng vào các con những lời của chính Thầy chí thánh : “Ánh sáng của anh em phải
chói lọi trước mặt thiên hạ, ngõ hầu họ thấy việc lành anh em làm mà ngợi khen Cha
của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Để có thể “chói lọi trước mặt thiên
hạ” bằng ánh sáng ấy, các con phải làm chứng cho đức ái giữa các con với nhau,
làm chứng cho tinh thần huynh đệ nơi mỗi cộng đoàn, như lời Chúa nói : “Chính nơi điều này mà mọi
người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy : đó là anh em yêu mến nhau” (Ga
13,35).
Bản chất cộng đoàn của đời sống
tu trì của các con, được nuôi dưỡng bằng giáo lý Phúc Âm, bằng phụng vụ thánh
và nhất là bằng Thánh Thể, diễn tả một phương thức ưu việt để thực hiện chiều
kích liên vị và xã hội ấy : đầy lòng săn sóc ân cần và chú ý đến nhau, trong
khi người này mang gánh nặng cho người kia, các con chứng tỏ, qua sự hiệp nhất
của các con, rằng Đức Ki-tô sống giữa các con (x. DT 15). Đối với việc tông đồ
của các con trong Hội Thánh, điều quan trọng là các con phải hết sức bén nhạy trước những nhu cầu
và những đau khổ của con người, hiện đang biểu lộ một cách
thật rõ ràng và hiển nhiên trong thế giới ngày nay. Quả vậy, thánh Tông Đồ đã
dạy : “Hãy
mang gánh nặng cho nhau, và như thế anh em sẽ làm trọn luật của Đức Ki-tô” (Gl
6,2) ; Người còn nói thêm : “Yêu
mến là chu toàn cả lề luật” (Rm 13,10b).
Sứ mệnh của các con cần phải
thấy được ! Mối dây nối
kết sứ mệnh ấy với Hội Thánh cần phải thâm sâu, thật thâm sâu (x. GL
675,3). Ước chi nhờ tất cả cái gì các con làm và, nhất là, nhờ tất cả cái gì
các con là, chân lý này, một lần nữa, lại được công bố và được xác quyết
: “Đức
Ki-tô đã yêu mến Hội Thánh và đã phó nộp mình vì Hội Thánh” (Ep 5,25) : chân lý
này vốn ở nơi nền tảng của toàn thể nhiệm cục cứu chuộc. Ước chi từ Đức Ki-tô,
Đấng Cứu Chuộc thế gian, vọt lên nguồn suối vô tận của lòng yêu mến của các con
đối với Hội Thánh !
“Những
cặp mắt tâm trí được ngời sáng” ; đấy là điều mà Hội Thánh liên lỉ cầu xin cho
từng người trong các con, những
kẻ đã đi vào con đường tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm. Và
cũng “những
cặp mắt ngời sáng” ấy, Hội Thánh, cùng với các con, cầu xin cho nhiều Ki-tô
hữu, đặc biệt cho các thanh niên nam nữ, ngõ hầu họ có thể khám phá ra con đường ấy và
không sợ dấn thân vào, để ngay giữa những hoàn cảnh không thuận lợi
của cuộc sống hiện tại, họ vẫn có thể nghe được lời mời “hãy theo tôi” (Lc 5,27)
của Đức Ki-tô. Chính các con cũng phải ra sức góp phần vào đó bằng lời cầu
nguyện và cả bằng sự làm
chứng về tình
yêu, nhờ đó “Thiên
Chúa lưu lại trong ta và tình yêu của Người đã được thành toàn ở nơi ta” (1 Ga
4,12). Ước chi việc làm chứng ấy hiện diện khắp nơi và ai ai cũng nhận thấy
được ! Ước chi con người thời đại chúng ta, cho dầu chán nản về tinh thần, vẫn
gặp được ở nơi đó một sự nâng đỡ và một niềm hy vọng ! Vậy các con hãy phục vụ
những anh chị em mình với một niềm vui phát xuất từ một tấm lòng có Đức Ki-tô
ngự trong đó : “Ước
chi thế giới thời đại chúng ta… có thể nhận được Tin Mừng không phải từ người
rao giảng buồn sầu và chán nản… nhưng từ những tác viên Tin Mừng toả ấm nhiệt
tình, vì trước đó đã nhận lấy niềm vui của Đức Ki-tô vào bản thân mình” (LB, số
80).
Vì quý mến các con, Hội Thánh
không ngừng “quỳ
gối trước mặt Chúa Cha” (x. Ep 3,14) để xin Người làm cho, “con người bên trong được
vững mạnh nơi các con”, cũng như nơi nhiều người khác giữa những anh chị em của
chúng ta đã được rửa tội, cách riêng những người trẻ, ngõ hầu họ tìm gặp được
con đường thánh thiện, trên đó suốt dòng lịch sử, biết bao thế hệ đã rảo bước
cùng với Đức Ki-tô – Đấng Cứu Chuộc thế gian và Phu Quân của linh hồn chúng ta
-, để lại cho nhân thế cả một vầng hào quang của ánh sáng Thiên Chúa trên bối
cảnh tẻ nhạt và u tối của đời người.
Cùng với tất cả các con, là
những người đang tiến bước trên con đường ấy trong giai đoạn hiện tại của lịch
sử Hội Thánh và thế giới, cha gửi đến lời cầu chúc nồng nhiệt này của Năm Thánh
cứu chuộc, ngõ hầu “các
con được đâm rễ sâu và có nền kiên cố trong lòng mến. Như thế các con sẽ có sức
mà hiểu được, cùng hết thảy các thánh, các chiều rộng, dài, cao, sâu, và được
biết lòng mến của Đức Ki-tô siêu vời vượt quá sự hiểu biết, và như thế các con
được sung mãn, để được vào trong tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (Ep
3,17-19).
Người nghèo khó biết bao
trong đêm tối Bê-lem, và Người cũng nghèo khó biết bao trên núi Sọ !
Người vâng phục biết
bao lúc được Truyền Tin, rồi dưới chân thập giá – vâng phục đến nỗi
chấp nhận cái chết của Con mình, Đấng đã vâng phục “cho đến chết” ! Với
một tình yêu trong sạch
biết bao, Người đã hiến thân cho đại nghĩa Nước Trời, suốt đời
dương thế !
Nếu Đức Ma-ri-a là gương mẫu thứ nhất đối
với toàn thể Hội Thánh, thì Người lại càng là gương mẫu đối với các con, những
người và những cộng đoàn tận hiến trong lòng Hội Thánh ! Nhân ngày hôm nay là
ngày nhắc cho chúng ta nhớ lại ngày khai mạc Năm Thánh cứu chuộc đã diễn ra năm
ngoái, cha gửi tới các con sứ điệp này để mời gọi các con khơi lại sự tận hiến tu trì của các con theo
gương mẫu sự tận hiến của Mẹ Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến ! “Thiên Chúa là Đấng trung
tín, Người đã mời gọi các con đến chung phần hợp nhất với Con của Người, Đức
Giê-su Ki-tô” (1 Cr 1,9). Các con hãy kiên trì trong sự trung tín với Đấng luôn
trung tín, và các con hãy cố gắng tìm một trợ lực hoàn toàn đặc biệt nơi Đức Ma-ri-a !
Người đã được Thiên Chúa mời gọi hiệp thông một cách hoàn hảo nhất với Con của
Người. Ước chi Người, Đức Trinh Nữ trung tín cũng là Mẹ của các con trên bước
đường Phúc Âm, giúp các con cảm nghiệm và chứng minh cho thế gian biết sự trung tín vô tận
của chính Thiên Chúa !
Với lời ước nguyện đó cha hết
lòng chúc lành cho các con.
Va-ti-ca-nô,
ngày 25
tháng 3 năm thánh cứu chuộc, 1984,
năm thứ
sáu tôi làm giáo hoàng.
Gio-an Phao-lô II
——————–
(*)Theo nghĩa đen, “sở đắc” (avoir, to have) là cái gì
mình có ; còn “nhân cách” (être,
to be) ám chỉ phẩm giá của một người (chú thích của người dịch).
(*)Dịch thoát ý. Trong nguyên bản là : “Hoạt
động tông đồ căn bản vẫn là điều này : các con là gì, các con là ai ở trong Hội
Thánh” (chú thích của người dịch).