Văn Kiện Đời Tu (Tập 1) – Ad Omnes Personas
Consecratas
(catechesis.net) November 18,
2018
GỬI TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI TẬN HIẾN
THUỘC CÁC DÒNG TU VÀ TU HỘI ĐỜI
NHÂN DỊP NĂM THÁNH MẪU
(ad omnes personas consecratas,
22-05-1988)
Bức thư
này là một bài suy niệm chứ không phải là một văn kiện đạo lý. Nhân dịp năm
Thánh Mẫu (25-3-1987), Đức Gio-an Phao-lô II đã viết thông điệp “Redemptoris Mater” (Thân
Mẫu Chúa Cứu Chuộc), trong đó Đức Ma-ri-a được giới thiệu cách đặc biệt như là
người đi tiên phong trong cuộc lữ hành đức tin và trở thành mẫu gương cho hết
mọi thành phần của Giáo Hội. Vào lúc sắp kết thúc năm Thánh Mẫu, Đức thánh cha
gửi một bức thư dành riêng cho các người tận hiến, trong đó người mời gọi họ
hãy nhìn lên Đức Ma-ri-a như mẫu gương của việc đáp lại tiếng Chúa gọi tham gia
vào sứ mạng cứu độ của Chúa Ki-tô.
Bài suy
niệm xoay quanh ba điểm căn bản : “Cùng
với Mẹ Ma-ri–a chúng ta hãy suy niệm mầu nhiệm của:
– 1. ơn
gọi ;
– 2.
việc thánh hiến ;
– 3.
hoạt động tông đồ”.
Ba điểm
đó được liên kết với ba mầu nhiệm :
– 1.
Truyền tin,
– 2.
Vượt qua,
– 3.
Hiện xuống.
Nói
đúng ra, phần lớn bức thư lặp lại tư tưởng tông huấn “Hồng ân cứu chuộc”, nhấn
mạnh đến việc thông dự vào mầu nhiệm Vượt qua của Đức Ki-tô qua việc “giấu ẩn” với Người (Cl
3,3). Về vai trò của Đức Ma-ri-a đối với đời tận hiến, thiết tưởng thông
điệp “Thân
Mẫu Chúa Cứu Chuộc” nói rộng hơn ! Ngoài ra, cũng nhân dịp năm Thánh Mẫu, Đức
Gio-an Phao-lô II còn viết tông thư “Phẩm
giá người phụ nữ” (Mulieris
dignitatem), trong đó mối tương quan giữa Đức Ma-ri-a với các nữ tu
được nhắc tới ở số 46.
————————————-
Cuộc
đời của anh chị em
đã được
giấu ẩn với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa (Cl 3,3).
Anh chị
em thân mến trong Đức Ki-tô !
I. NHẬP
ĐỀ
Thông
điệp “Thân
Mẫu Chúa Cứu Chuộc” đã giải thích ý nghĩa của năm Thánh Mẫu mà chúng ta đang
sống cùng với toàn thể Giáo Hội, từ lễ Hiện Xuống năm ngoái cho đến lễ Mông
Triệu sắp tới. Trong khoảng thời gian đó, chúng ta đã cố gắng theo dõi giáo
huấn của Công Đồng Va-ti-ca-nô II giới thiệu Đức Thiên Mẫu, trong hiến chế tín lý về Giáo
Hội, như là kẻ “dẫn
đầu” toàn thể Dân Thiên Chúa trong cuộc lữ hành đức tin, đức mến và sự kết hợp
hoàn toàn với Đức Ki-tô (x. GH 58, 63). Nhờ thế, toàn thể Giáo Hội nhìn thấy nơi Đức
Ma-ri-a “hình ảnh” trọn hảo của mình. Điều mà Công Đồng, dựa theo
truyền thống các giáo phụ, đã khẳng định cho toàn thể Giáo Hội như là cộng đoàn
phổ quát của Dân Thiên Chúa, cần phải được những phần tử của cộng đoàn ấy suy
niệm qua việc đối chiếu với ơn gọi riêng của mình.
Anh chị
em thân mến, trong năm Thánh Mẫu này, chắc chắn nhiều người trong anh chị em đã
cố gắng đổi mới ý thức về mối liên hệ giữa
Đức Thiên Mẫu với ơn gọi riêng của mình trong Giáo Hội. Bức thư mà
tôi gửi đến anh chị em nhân dịp năm Thánh Mẫu muốn cống hiến những bài suy niệm
chung quanh đề tài này, cùng với những tài liệu mà Bộ Dòng Tu và Tu Hội Đời đã
soạn (*). Đồng thời khi viết bức thư
này, tôi muốn bày tỏ tấm
lòng ưu ái của Giáo Hội dành cho anh chị em, ơn gọi của anh chị em
và sứ mạng mà anh chị em đang thực hiện giữa lòng Dân Thiên Chúa, ở nhiều nơi
và bằng nhiều cách. Tất cả những điều đó là một hồng ân trọng đại Chúa ban cho
Giáo Hội. Và bởi vì Đức Thiên Mẫu, do phận được trao trong mầu nhiệm Chúa
Ki-tô, luôn luôn hiện diện trong đời sống của Giáo Hội, cho nên ơn gọi và việc
phục vụ của anh chị em ra như là phản ánh sự hiện diện của Mẹ. Vì thế, cần phải
tự hỏi xem mối liên hệ như thế nào giữa “hình
ảnh” nói trên với những người tận hiến trong các dòng, hội dòng, tu hội đang cố
gắng sống cuộc dâng hiến mình cho Đức Ki-tô.
II.
CÙNG VỚI ĐỨC MA-RI-A,
CHÚNG
TA HÃY SUY NIỆM
MẦU
NHIỆM VỀ ƠN GỌI CỦA MÌNH
Vào dịp
thăm viếng bà Ê-li-sa-bét, người chị họ của Đức Ma-ri-a đã khen ngợi người có
phúc vì đã tin : “Hạnh
phúc thay người tin rằng những lời của Chúa sẽ hoàn tất” (Lc
1,45). Những lời Chúa
nói với Đức Ma-ri-a trong buổi Truyền Tin quả là khác thường. Khi chăm chú đọc
bản văn của thánh Lu-ca, ta thấy những dòng đó chứa đựng chân lý về Thiên Chúa,
rất hoà hợp với Tin Mừng và với Tân Ước. Trinh nữ Na-da-rét được dẫn vào mầu nhiệm khôn dò về
chính Thiên Chúa hằng sống : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong bối
cảnh đó, trinh nữ nhận được ơn gọi làm mẹ của Đấng Mê-si-a, và người đáp lại ơn
gọi đó bằng lời vâng phục : “Xin
hãy xảy đến nơi tôi điều mà ngài đã nói” (Lc 1,38).
Khi suy
niệm biến cố Truyền Tin, chúng ta cũng nghĩ tới ơn gọi của mình. Tiếng gọi của
Chúa đánh dấu một khúc quặt trong mối liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa hằng
sống. Một viễn tượng mới đã được mở ra trước mặt mỗi người, và cuộc sống Ki-tô
hữu của anh chị em có một ý nghĩa mới và một chiều kích mới. Điều này có ảnh
hưởng tác động đến tương lai, đến cuộc đời mà con người sẽ sống, đến sự lựa
chọn và quyết định chín chắn của mình.
Ơn gọi
luôn liên can trực tiếp đến một con người nào đó. Thế nhưng, cũng như đã xảy ra
tại Na-da-rét trong ngày Truyền Tin, nó đồng thời cũng mang ý nghĩa của một
sự “vén
màn” mầu nhiệm Thiên Chúa. Ơn
gọi, -trước khi trở thành một sự kiện nội tại của con người, trước khi mang hình thù của sự lựa
chọn và quyết định của con người-, đã gợi lên một sự lựa chọn về
phía Thiên Chúa, đi trước sự lựa chọn và quyết định về phía con người. Đức
Ki-tô đã nói cho các tông đồ điều đó trong bài từ biệt : “Không phải anh em đã chọn
Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,16).
Sự lựa
chọn đó thúc giục chúng ta – theo gương Đức Trinh Nữ Na-da-rét trong buổi
Truyền Tin – tìm gặp
mình trong mầu nhiệm hằng cửu của Thiên Chúa là tình yêu. Thực vậy,
khi Đức Ki-tô chọn ta, khi Người gọi “hãy
theo tôi”, thì chính Thiên Chúa, thân phụ của Đức Ki-tô, đã chọn ta trong
Người, theo như ta đọc thấy trong thư gửi các tín hữu Ê-phê-xô : “Trong Đức Ki-tô, Người đã
chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ…, đã tiền định cho ta làm nghĩa tử… để ta
hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử
yêu dấu”. Quả thế, “Người
cho ta biết thiên ý nhiệm mầu, tức là kế hoạch yêu thương mà Người đã định từ
trước trong Đức Ki-tô” (Ep 1,4-6.9).
Những
lời trên đây có tầm phổ quát, nói lên việc Thiên Chúa từ muôn thuở đã chọn hết mọi người và
mỗi người trong Đức Ki-tô, nói lên ơn gọi nên thánh là ơn gọi dành
cho các nghĩa tử của Thiên Chúa. Đồng thời những lời ấy cũng cho phép chúng ta
đào sâu mầu nhiệm của mọi ơn gọi, đặc biệt ơn gọi riêng của những người tận
hiến. Như vậy, mỗi người trong anh chị em có thể nhận thức được thực tại thâm
sâu và siêu việt mà mình đã cảm nghiệm, khi mình đi theo lời mời của Đức Ki-tô
: “Hãy theo
tôi”. Lúc ấy những lời của thánh Phao-lô “Cuộc đời của anh chị em đã được giấu ẩn với Đức Ki-tô
trong Thiên Chúa” (Cl 3,3) trở thành một sự thực gần gũi và
trong sáng với ta. Ơn gọi của chúng ta được giấu ẩn trong mầu nhiệm vĩnh cửu
của Thiên Chúa trước khi trở thành một sự kiện ở trong nội tâm ta, một
tiếng “xin
vâng” của ta, một sự lựa chọn và quyết định của ta.
Cùng
với Đức Ma-ri-a trong biến cố Truyền Tin tại Na-da-rét, chúng ta hãy suy niệm
mầu nhiệm của ơn gọi, nó trở thành “kỷ
phần” của ta trong Đức Ki-tô và trong Giáo Hội.
III.
CÙNG VỚI ĐỨC MA-RI-A,
CHÚNG
TA HÃY SUY NIỆM
MẦU
NHIỆM VỀ SỰ TẬN HIẾN CỦA MÌNH
Thánh
Tông Đồ viết : “Anh chị
em đã chết, và cuộc đời của anh chị em đã được giấu ẩn với Đức Ki-tô trong
Thiên Chúa” (Cl 3,3). Từ mầu nhiệm Truyền Tin chúng ta hãy
bước sang mầu nhiệm Vượt Qua. Những lời của thánh Phao-lô “anh chị em đã chết” gồm
tóm nội dung tư tưởng của thư gửi các tín hữu Rô-ma, khi thánh nhân trình bày ý
nghĩa của bí tích tháp nhập chúng ta vào sự sống của Đức Ki-tô : “Anh chị em không biết
rằng khi được thanh tẩy trong Đức Ki-tô Giê-su thì chúng ta được thanh tẩy
trong cái chết của Người hay sao ?” (Rm 6,3). Như vậy, lời trong thư
Cô-lô-xê “anh
chị em đã chết” có nghĩa là “nhờ
bí tích thánh tẩy, chúng ta (…) được an táng cùng với Người trong
cái chết, ngõ hầu cũng như Đức Ki-tô đã phục sinh từ cõi chết nhờ quyền năng
vinh hiển của Chúa Cha thế nào, thì chúng ta cũng có thể sống cuộc đời mới như
vậy” (Rm 6,4).
Thiên
Chúa đã chọn chúng ta từ muôn thuở trong Thánh Tử rất yêu dấu của Người, Đấng
Cứu Chuộc thế giới. Ơn gọi chúng ta làm nghĩa tử trùng hợp với chân lý hằng cửu
về việc “được
giấu ẩn với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa”. Ơn gọi này của các Ki-tô hữu được thực
hiện dọc theo dòng thời gian nhờ bí tích thánh tẩy mai táng ta trong cái chết
của Đức Ki-tô. Trong bí tích này, việc chúng ta “được giấu ẩn với Đức
Ki-tô trong Thiên Chúa” được khởi sự, và điều này được ghi khắc trong tiểu sử
của từng người Ki-tô hữu. Được thông dự cách bí tích vào cái chết cứu độ của
Đức Ki-tô, chúng ta cũng “được
liên kết với Người trong sự phục sinh (x. Rm 6,5) ; chúng ta
chia sẻ cuộc đời mới (x. Rm 6,4) tuyệt đối do Đức Ki-tô đã khai mào trong lịch
sử nhân loại nhờ sự phục sinh của Người. “Cuộc đời mới” trước tiên có nghĩa là sự giải
thoát khỏi di truyền của tội lỗi, khỏi tròng nô lệ của tội lỗi (x. Rm 6,11).
Đồng
thời – và trên hết – nó có nghĩa là “sự
thánh hiến trong chân lý “ (x. Ga 17,17), nơi bộc lộ hoàn toàn
viễn ảnh của việc kết hợp với Thiên Chúa, viễn ảnh của cuộc sống trong Đức
Ki-tô. Và như vậy cuộc sống phàm nhân của ta “được giấu ẩn với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa”
một cách bí tích và thiết thực. Tương ứng với bí tích là thực tại sống động của
ơn thánh sủng, thấm nhiễm toàn thể cuộc đời chúng ta nhờ việc thông dự vào đời
sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Những
lời của thánh Phao-lô, cách riêng trong thư gửi tín hữu Rô-ma, cho thấy
rằng “cuộc
đời mới”, được thông dự trước tiên nhờ bí tích thánh tẩy, gồm tóm khởi điểm của mọi thứ ơn gọi sẽ
thôi thúc người Ki-tô hữu phải lựa chọn và quyết định trong suốt cuộc đời của
mình. Thực vậy, trong hết mọi ơn gọi của người Ki-tô hữu đều phản chiếu một
khía cạnh của việc “thánh
hiến trong chân lý”, mà Đức Ki-tô đã hoàn tất nhờ cái chết và phục sinh của
Người và tóm lại trong mầu nhiệm Vượt Qua : “Vì họ mà con thánh hiến mình con, ngõ hầu
chính họ cũng được thánh hiến trong chân lý” (Ga 17,19).
Tiếng
gọi một người nào đó hãy thánh hiến trót đời mình được đặt trong mối liên hệ
đặc biệt với việc Đức Ki-tô thánh hiến mình vì nhân loại. Nó phát sinh từ gốc
rễ của bí tích thánh tẩy, gồm tóm sự thánh hiến tiên khởi và cơ bản của con
người cho Thiên Chúa. Việc thánh hiến nhờ tuyên giữ ba lời khuyên Phúc Âm –
bằng lời khấn hay lời hứa – là sự phát triển hữu cơ của việc thánh hiến khởi
điểm nơi bí tích thánh tẩy. Việc tận hiến bao hàm một cuộc chọn lựa Thiên Chúa
cách chín chắn cũng như một sự
đáp trả tình thương của Đức Ki-tô. Khi trao phó bản thân cho Người
hoàn toàn và không chia sẻ, chúng ta ước muốn “đi theo Người”, dốc quyết tuân giữ khiết
tịnh, khó nghèo và vâng phục theo tinh thần của các lời khuyên Phúc Âm. Chúng
ta ước muốn trở nên giống như Đức Ki-tô tối đa, hoà hợp cuộc đời chúng ta với
tinh thần của các mối phúc trong bài giảng trên núi. Nhưng nhất là chúng ta ước
muốn đạt tới đức ái, để cho nó thấm nhập vào hết mọi yếu tố của đời tận hiến và
liên kết chúng ta thành một “dây
ràng buộc của sự trọn lành” (x. Cl 3,14 ; GH 44 ; DT 1.6 ; GL 573 §1 ; 607 §1 ;
701).
Tất cả
những điều vừa nói đều được gói ghém trong tiếng “chết đi” mà thánh Phao-lô
đã dùng, cái chết bắt đầu từ bí tích thánh tẩy. Việc chết với Đức Ki-tô giúp ta thông
dự vào sự phục sinh với Người, giống như hạt lúa mì gieo xuống
đất “chết
đi” để sinh đời sống mới (x. Ga 12,24). Sự tận hiến qua các dây ràng buộc thánh
xác định đời sống mới đó ; điều này chỉ có thể thực hiện được dựa trên
việc “giấu
ẩn” tất cả những gì làm nên cuộc đời phàm nhân của chúng ta trong Đức Ki-tô :
cuộc đời của chúng ta được giấu ẩn với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa.
Nếu
dưới con mắt người đời, việc tận hiến có thể ví được như là “mất mạng sống mình”, thì
đồng thời nó cũng là con đường thật thẳng để “tìm lại mạng sống”. Thực vậy, Đức Ki-tô đã
dạy : “Ai mất mạng sống
mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được” (Mt 10,39). Dĩ nhiên những
lời ấy biểu lộ tính cách triệt để của Phúc Âm, nhưng đồng thời không thể nào
không nhận ra rằng chúng cũng nói tới con người, nói tới chiều kích nhân bản
đặc thù của nó. Thực vậy, đối với con người dù nam hay nữ, thử hỏi có cái gì
căn bản hơn là “tìm
được chính mình”, tìm được chính mình trong Đức Ki-tô, bởi vì Đức Ki-tô
là “tất cả
sự sung mãn” (x. Cl 1,19 ; 2,9).
Những
tư tưởng liên quan tới đề tài tận hiến con người qua việc tuyên giữ ba lời khuyên
Phúc Âm giữ chúng ta ở lại liên lỉ trong lãnh vực của mầu nhiệm Vượt Qua. Cùng
với Đức Ma-ri-a, chúng ta hãy tìm cách thông phần vào cái chết ấy, cái chết có
sức mang lại “đời
sống mới” trong sự phục sinh. Cái chết trên thập giá quả thực là ô nhục, và là
cái chết của chính Con mình ! Thế nhưng, chính ở đó, “khi mà Đức Ma-ri-a đã
đứng gần kề dưới chân thập giá không phải là ngoài chương trình của Thiên Chúa”
(x. GH 58), phải chăng Mẹ đã chẳng hiểu ra cách mới mẻ những gì đã nghe được
trong ngày Truyền Tin đó ư ? Chính ở đó, nhờ “lưỡi gươm đâm thâu qua lòng bà” (x. Lc
2,35), nhờ việc “tự
huỷ mình trong đức tin” (x. TM 18), phải chăng Đức Ma-ri-a đã chẳng am tường
hơn chân lý về chức làm
mẹ của mình đó sao ? Chính ở đó, nhờ kinh nghiệm của Núi Sọ,
phải chăng Người đã chẳng dứt khoát tự đồng hoá với chân lý là cần phải “mất mạng sống mình” cách
đau thương vì Đức Ki-tô và vì Phúc Âm hầu “tìm lại mạng sống” đó sao ?
Chính
trong việc “tìm
lại” chân lý về chức làm Mẹ Thiên Chúa, – được tỏ lộ từ lúc Truyền Tin, mà
những lời của Đức Ki-tô nói từ trên thập giá được xen vào, tỏ cho thấy thiên
chức làm Mẹ tông đồ Gio-an, Mẹ của con người : “Này là con của bà” (x. Ga 19,26).
Anh chị
em thân mến, chúng ta
hãy kiên trì trở về chiều sâu thẳm của mầu nhiệm Vượt Qua, bằng ơn
gọi của chúng ta, bằng sự tận hiến của chúng ta. Chúng ta hãy đứng kề bên thập
giá Đức Ki-tô, bên cạnh thân mẫu của Người. Chúng ta hãy học với Mẹ về ơn gọi
của mình. Chính Đức Ki-tô đã chẳng nói rằng : “Ai thi hành ý của Cha Thầy trên trời, thì Thầy
coi kẻ ấy là anh chị em và là Mẹ” (Mt 12,50) đó sao ?
VI.
CÙNG VỚI ĐỨC MA-RI-A,
CHÚNG
TA HÃY SUY NIỆM
MẦU
NHIỆM VỀ HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ
Những
biến cố của lễ Vượt Qua dẫn chúng ta tới lễ Ngũ Tuần, ngày mà “Thánh Thần chân lý” đến
để dẫn đưa các Tông Đồ vào chân lý sung mãn (x. Ga 16,13) và, qua dòng lịch sử
nhân loại, toàn thể Giáo Hội được xây trên nền tảng các Tông Đồ (x. GH 19).
Tại nhà
tiệc ly chuẩn bị đón Thánh Thần, Đức Ma-ri-a mang “chức làm mẹ mới” đã
trở thành “kỷ
phần” của mình dưới chân thập giá. Chức làm mẹ này cần phải tồn tại nơi Người,
và đồng thời, từ Người như là “hình
ảnh” mà chuyển sang cho toàn thể Giáo Hội, được tỏ bày ra trước thế giới trong
ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Tất cả những người hiện diện tại nhà Tiệc ly
đều ý thức rằng, kể từ khi Đức Ki-tô trở về với Chúa Cha, cuộc đời của họ được
giấu ẩn với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa. Đức Ma-ri-a đã ý thức điều đó hơn ai
hết.
Thiên
Chúa đã đến thế gian, đã được Đức Ma-ri-a sinh hạ như là “Con người”, ngõ hầu hoàn
tất ý định hằng cửu của Chúa Cha, Đấng đã “quá yêu thế gian” (x. Ga 3,16). Tuy nhiên,
khi Ngôi Lời trở thành Đấng Em-ma-nu-en (Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta) thì Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cũng mặc khải rằng thế gian này “ở trong Thiên Chúa” (x.
1 Ga 3,24). Thực vậy, “trong
Người chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (x. Cv 17,28). Thiên Chúa đã ôm ấp
mọi vật với quyền năng sáng tạo của Người, quyền năng đã được mặc khải nhờ Đức
Ki-tô như là quyền năng tình thương. Cuộc nhập thể của Ngôi Lời, dấu hiệu khôn
tả và bất diệt của việc Thiên Chúa “ở
trong” thế gian, đã mặc khải cho thấy tính cách “siêu việt” của thế gian.
Tất cả những điều ấy đã hoàn tất và kết thúc trong khung cảnh của mầu nhiệm
Vượt Qua. Sự ra đi của Người Con, “được
sinh ra trước khi vũ trụ được tạo dựng” (x. Cl 1,15) đã gợi lên niềm trông mong
Đấng có thể làm đầy mọi sự : quả vậy “Thánh
Thần Chúa tràn đầy vũ trụ” (x. Kn 1,7).
Những
người cùng với Đức Ma-ri-a trong nhà Tiệc ly ở Giê-ru-sa-lem mong
đợi lễ Hiện Xuống đều đã cảm nghiệm “thời
mới”. Dưới làn gió thổi của Thánh Thần chân lý, họ phải ra khỏi nhà Tiệc ly để
hợp với Thánh Thần làm chứng cho Đức Ki-tô chịu thương khó và phục sinh (x. Ga
15,26-27). Vì thế họ phải tỏ bày Thiên Chúa, Đấng là tình yêu ôm ấp và thâm
nhập thế gian ; họ phải thuyết phục mọi người rằng cùng với Đức Ki-tô, họ được
kêu mời “chết
đi” trong quyền năng của cái chết của Người, để sống lại trong cuộc đời giấu ẩn
với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa.
Chính
điều này làm nên cốt
tuỷ sứ mạng tông đồ của Giáo Hội. Các tông đồ, những người đã ra
khỏi nhà tiệc ly trong ngày lễ Hiện Xuống, đã trở thành nguyên uỷ của Giáo Hội,
một Giáo Hội hoàn toàn tông đồ và được đặt trong tình trạng sứ vụ (= được sai
đi). Trong Giáo Hội này mỗi người, ngay từ khi lãnh bí tích thánh tẩy và tiếp
đó là bí tích thêm sức, đã lãnh nhận ơn gọi làm tông đồ, như Công Đồng
Va-ti-ca-nô II đã nhắc lại (x. TĐ 2).
Năm
Thánh Mẫu đã được khai mạc vào lễ Hiện Xuống, ngõ hầu hết mọi người cùng với
Đức Ma-ri-a cảm thấy được mời tiến vào nhà Tiệc ly, nơi khai mạc mọi nẻo đường
tông đồ của Giáo Hội từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong số những kẻ được mời
dĩ nhiên có cả anh chị em nữa, những người nhờ Thánh Thần tác động đã xây dựng
trót cuộc đời và ơn gọi của mình trên nguyên lý của một sự tận hiến đặc biệt,
một sự hiến thân hoàn toàn cho Thiên Chúa. Lời mời tiến vào nhà Tiệc ly lễ Hiện
Xuống có nghĩa là anh chị em phải canh
tân và đào sâu ý thức về ơn gọi của mình dựa theo hai chiều
hướng sau đây. Chiều hướng thứ nhất là củng cố việc tông đồ trong chính bản
chất của sự tận hiến ; chiều hướng thứ hai là làm sống lại những công tác tông
đồ đa dạng phát sinh từ sự tận hiến đó trong khuôn khổ của linh đạo và mục tiêu
hoặc là của các cộng đoàn và hội dòng của anh chị em hoặc là của cá nhân mỗi
người.
Anh chị
em hãy tìm cách để gặp gỡ Đức Ma-ri-a trong nhà Tiệc ly lễ Hiện
Xuống. Không có ai hơn Mẹ đã thấu triệt được chân lý về Thiên Chúa và về con
người, về Thiên Chúa và về thế giới, được gói ghém trong những lời của thánh
Phao-lô : “Anh
chị em đã chết, và cuộc đời của anh chị em đã được giấu ẩn với Đức Ki-tô trong
Thiên Chúa”. Đó là những lời gồm tóm sự nghịch lý và đồng thời là cốt tuỷ của
sứ điệp Phúc Âm. Anh chị em thân mến, những người đã tận hiến cho Thiên Chúa,
anh chị em có những phẩm tính đặc biệt để có thể mang sự nghịch lý và sứ điệp Phúc
Âm tới gần con người thời đại hôm nay. Anh chị em cũng có sứ mạng đặc biệt là
nói cho hết mọi người – trong mầu nhiệm thập giá và phục sinh – rằng tất cả thế
giới và toàn thể vũ trụ “ở
trong Thiên Chúa”, rằng “chúng
ta sống, cử động và hiện hữu” trong Người, rằng Thiên Chúa là tình thương ôm ấp hết
mọi loài, rằng “tình
thương của Thiên Chúa đã được đổ xuống lòng ta nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng đã
được ban cho ta” (Rm 5,5).
Đức
Ki-tô đã “chọn
anh chị em khỏi thế
gian” và thế gian cần tới sự chọn lựa của anh chị em, cho dù
lắm lần họ có vẻ thờ ơ với điều đó và không nhận ra tầm quan trọng của điều đó.
Thế gian cần “anh
chị em được giấu ẩn với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa”, cho dù đôi khi họ chỉ
trích các hình thức nội cấm của đan tu. Thực vậy, chính nhờ sức mạnh của
việc “giấu
ẩn” mà anh chị em có thể cùng với các Tông Đồ và toàn thể Giáo Hội nhận lấy cho
mình sứ điệp lời nguyện tư tế của Chúa Cứu Thế : “Lạy Cha, cũng như Cha đã
sai con vào thế gian, đến
lượt con cũng sai họ đi vào thế gian” (Ga 17,18). Anh chị em
đã tham gia vào sứ vụ này, sứ vụ tông đồ của Giáo Hội (x. GL 574 §2). Anh chị
em tham gia một cách riêng biệt, theo “ân
điển riêng” (x. 1 Cr 7,7). Mỗi một người trong anh chị em đều tham gia vào sứ
vụ, và mức độ tham gia sâu đậm bao nhiêu là tuỳ theo cuộc sống của mình “được giấu ẩn với Đức
Ki-tô trong Thiên Chúa” tới mức nào. Chính đây là nguồn mạch cho hoạt động tông
đồ của anh chị em.
Cái “hình thức” cơ bản này của
việc tông đồ không được thay
đổi vội vàng, nghiêng chiều theo não trạng của thế gian (x. Rm
12,2). Tiếc thay anh chị em thường nghiệm thấy rằng thế gian yêu chuộng “cái gì thuộc về nó”
: “Nếu các
con thuộc về thế gian, hẳn thế gian đã yêu chuộng cái thuộc về mình” (Ga
15,19). Thực vậy, Đức Ki-tô đã chọn anh chị em khỏi thế gian, Người đã chọn anh
chị em “ngõ
hầu thế gian nhờ Người mà được cứu độ” (x. Ga 3,17). Chính vì lý do đó mà anh
chị em không thể nào khước từ việc “giấu
ẩn với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa”, bởi vì đó là điều kiện không thể thay thế
được để cho thế gian tin vào quyền năng cứu chuộc của Đức Ki-tô. Sự “giấu ẩn”, phát sinh do
việc tận hiến, biến mỗi người anh chị em thành con người đáng tin và trong sáng. Và
điều đó không đóng cửa thế gian lại, trái lại nó “mở cửa” thế gian đến với
anh chị em. Thực vậy, như tôi đã viết trong tông huấn Hồng ân cứu chuộc, “các lời khuyên Phúc Âm tự
bản chất nhắm tới việc đổi mới tạo vật : nhờ có chúng, thế giới sẽ quy phục và
được hiến cho con người, ngõ hầu chính con người được tận hiến hoàn toàn cho
Thiên Chúa” (HA 9).
Việc
tham gia vào công trình của Giáo Hội “được
tăng triển sâu xa với Đức Ma-ri-a”, như là hoa trái đầu mùa
của năm Thánh Mẫu, sẽ mang những hình thái và cách diễn tả khác biệt, tuỳ theo
ơn gọi riêng của mỗi tu hội : các tu hội càng hoạt động trung thành với đặc
sủng của mình bao nhiêu thì công trình vừa nói lại càng mang lại nhiều hoa trái
bấy nhiêu. Bởi vậy :
1/ “Các tu
hội chuyên lo chiêm niệm”, chỉ bận tâm “lo lắng cho một mình
Thiên Chúa trong cô tịch và thinh lặng, liên lỉ cầu nguyện và hãm mình đền tội,
luôn giữ một vị thế ưu việt trong Nhiệm Thể của Đức Ki-tô, cho dù nhu cầu hoạt
động tông đồ có cấp bách mấy đi chăng nữa”, như Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã
nhắc nhở (DT 7).
Thực
vậy, khi nhìn lên Đức Ma-ri-a trong năm hồng ân đặc biệt này, Giáo Hội cảm thấy
đặc biệt quan tâm và quý trọng truyền thống phong phú của đời chiêm niệm mà bao
người nam nữ trung thành với đặc sủng này đã khai mở và nuôi dưỡng nhằm mưu ích
cho cộng đoàn Giáo Hội và toàn thể xã hội. Đức Trinh Nữ Ma-ri-a chí thánh đã
mang lại sự phong phú thiêng liêng dồi dào đến nỗi Người đã trở thành Mẹ của
Giáo Hội và của loài người. Trong thinh lặng, trong việc chuyên chăm lắng nghe
Lời Thiên Chúa và kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su, người đã trở nên dụng cụ
cứu độ bên Con mình là Đức Ki-tô Giê-su. Vì thế, tất cả các tâm hồn tận hiến
sống đời chiêm niệm hãy phấn chấn lên, bởi vì Giáo Hội, và thế giới mà Giáo Hội
rao giảng Tin Mừng, đã lãnh nhận không ít ánh sáng và nghị lực Chúa ban nhờ
cuộc đời giấu ẩn và cầu nguyện của họ. Noi theo tấm gương người Nữ tì của Chúa,
khiêm tốn, ẩn giấu và kết hợp liên lỉ với Thiên Chúa, họ hãy tăng trưởng trong
lòng ái mộ ơn gọi của những tâm hồn chuyên lo chiêm niệm.
2/ Các
tu sĩ chuyên về hoạt động tông đồ, truyền giáo hoặc các công tác
bác ái từ thiện, tìm thấy nơi Đức Ma-ri-a một tấm gương mến Thiên Chúa và yêu
con người. Khi trung kiên quảng đại dõi theo tấm gương ấy, họ sẽ tìm được giải
đáp cho những đòi hỏi của nhân loại đang đau khổ vì thiếu xác tín, thiếu chân
lý, thiếu cảm quan về Thiên Chúa ; hoặc những đòi hỏi của nhân loại đang lo âu
vì bất công, kỳ thị, áp bức, chiến tranh, đói khát. Cùng với Đức Ma-ri-a, họ sẽ
biết chia sẻ số phận của anh chị em mình và giúp đỡ Giáo Hội nhờ thái độ sẵn
sàng phục vụ sự cứu thoát những con người mà Giáo Hội gặp trên đường đời.
3/
Những phần tử các tu hội đời, khi sống cuộc đời thường nhật
giữa các thành phần xã hội khác nhau, tìm thấy nơi Đức Ma-ri-a một tấm gương và
trợ lực để cống hiến cho những người mà họ chia sẻ điều kiện sinh sống ngoài
đời, ý nghĩa của một cuộc đời hài hoà tốt đẹp, càng mở rộng đến Thiên Chúa bao
nhiêu thì càng cao cả và vui tươi bấy nhiêu ; họ cống hiến chứng tá của một đời
sống dùng việc lành để xây dựng những cộng đoàn xứng đáng hơn với con người ;
họ cống hiến chứng tá là những thực tại thế trần được sống theo tinh thần Phúc
Âm có thể mang lại sinh khí cho xã hội, biến đổi xã hội nên tự do và công bình
hơn, giúp ích cho hết mọi con cái Thiên Chúa, Đấng là Chủ Tể của vũ trụ và là
Đấng ban phát mọi ơn lành. Đó sẽ là bài ca mà con người có thể, cùng với Đức
Ma-ri-a, cất lên để tán dương Thiên Chúa toàn năng và thương xót.
Với
quyết tâm sống trọn vẹn sự tận hiến của mình, và nhìn lên tấm gương tuyệt vời
của Thân Mẫu của Đức Giê-su và của Giáo Hội, người đã tận hiến vẹn toàn cho
Chúa, chứng tá Phúc Âm của anh chị em sẽ tăng thêm hiệu năng, và do đó, mục vụ ơn gọi cũng sẽ
được hưởng nhờ. Quả thực, hiện nay không ít tu hội đang thiếu ơn gọi và nhiều
vùng trong Giáo Hội đang cảm thấy cần phải có thêm nhiều ơn gọi sống đời tận
hiến. Năm Thánh Mẫu có thể đánh dấu một mùa làm sống dậy ơn gọi nhờ việc tín
thác van nài Đức Ma-ri-a như người mẹ chăm lo những nhu cầu của gia đình, và
nhờ sự tăng gia nơi hết mọi thành phần của Giáo Hội ý thức trách nhiệm cổ võ ơn
gọi sống đời tận hiến.
V. KẾT
LUẬN
Trong
Năm Thánh Mẫu, hết mọi tín hữu được mời gọi hãy suy niệm về sự hiện diện của Đức Trinh Nữ và Thiên
Mẫu trong mầu nhiệm của Đức Ki-tô và của Giáo Hội, dựa theo tư
tưởng của Giáo Hội (x. GH 52-69). Bức thư này muốn khuyến khích anh chị em hãy
suy niệm về sự hiện diện của Mẹ trong trái tim của mình, trong lịch sử của linh
hồn mình, trong ơn gọi cá nhân và đồng thời trong các cộng đoàn dòng tu, hội
dòng và tu hội đời.
Có thể
nói được rằng Năm Thánh Mẫu đã trở thành thời kỳ của một cuộc “hành hương” đặc biệt theo
bước của người đã “dẫn
đầu” toàn thể Dân Thiên Chúa trong cuộc lữ hành đức tin : Người đã đi trước hết
tất cả mọi người và từng người một. Cuộc hành hương này mang nhiều chiều kích
và lãnh vực : hàng quốc gia và thậm chí hàng đại lục tụ họp nhau tại các thánh
điện kính Đức Ma-ri-a, đó là chưa kể đến việc từng người Ki-tô hữu có thánh
điện “nội
tâm”, nơi mà Đức Ma-ri-a trở nên người hướng đạo trên đường đức tin, đức cậy và
kết hiệp âu yếm với Đức Ki-tô (x. GH 63, 68).
Nhiều
khi các dòng tu, hội dòng, tu hội, với những kinh nghiệm lắm khi cả hàng thế
kỷ, cũng có những
“thánh điện” của sự hiện diện của Đức Ma-ri-a, nơi gắn liền với
linh đạo hoặc kể cả lịch sử hiện hữu và sứ vụ của Dòng trong Giáo Hội.
Những “nơi
chốn” đó nhắc nhớ những mầu nhiệm riêng tư của Đức Ma-ri-a, các đức tính, các
biến cố cuộc đời của Mẹ, các cảm nghiệm thiêng liêng hoặc việc tỏ lộ đặc sủng
của vị lập dòng và rồi được chuyển thông cho cả cộng đoàn.
Trong
năm nay anh chị em hãy cố gắng hiện diện tại các “nơi chốn”, các “thánh điện” vừa nói. Anh
chị em hãy tìm ở nơi đó sức mạnh mới, những con đường dẫn tới việc canh tân
đích thực đời tận hiến, canh tân những hướng đi và phương pháp làm việc tông
đồ. Hãy tìm ở nơi đó
bản sắc của mình giống như người quản gia, giống như người
khôn ngoan “biết
rút ra những điều cũ mới từ kho tàng của mình” (x. Mt 13,52). Đúng thế, nhờ Mẹ
Ma-ri-a, anh chị em hãy tìm sức sống thiêng liêng, hãy trẻ trung hoá với Mẹ.
Hãy cầu nguyện cho các ơn thiên triệu. Sau cùng, “hãy làm những gì Chúa
dạy”, như Đức Trinh Nữ đã nhắc nhở ở Ca-na miền Ga-li-lê (x. Ga 2,5). Đó là
điều mà Đức Ma-ri-a, hiền thê huyền nhiệm của Thánh Thần và Mẹ chúng ta, mong
ước nơi anh chị em và
vì anh chị em. Tôi mời anh chị em đáp lại lòng mong ước ấy bằng với
một hành vi ký thác cộng đoàn : việc ký thác đó thực là “đáp ứng lại tình thương
của Mẹ” (TM 45).
Trong
Năm Thánh Mẫu này tôi cũng hết lòng ký thác cho Mẹ từng người cũng như các cộng
đoàn của anh chị em, và tôi chúc lành cho tất cả nhân danh Chúa Cha và Chúa Con
và Chúa Thánh Thần.
Rô-ma,
cạnh đền thánh Phê-rô,
ngày 22 tháng 5 năm 1988,
lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống,
năm thứ mười tôi làm giáo
hoàng.
Gio-an
Phao-lô II
(*) Xem Các
tu sĩ theo vết chân của Đức Ma-ri-a, Ed. Vaticana, 1987.