(catechesis.net) November 15,
2018
Nhân dịp Năm Thánh mừng ơn cứu
chuộc (1983-1984, kỷ niệm 1500 năm biến cố Thập giá và Phục sinh), Đức Gio-an
Phao-lô II viết một tông thư cho các tu sĩ, trình bày mối liên hệ giữa sự tận
hiến tu trì và mầu nhiệm cứu chuộc. Với giọng văn suy niệm, người mời gọi các
tu sĩ khám phá những chiều kích thần bí sâu xa của việc tận hiến : đó là
một “giao
ước tình yêu” với Chúa Cha, trong Đức Ki-tô, nhờ quyền năng của Thánh Thần (số
8). Qua giao ước đó, người tu sĩ chia sẻ với Chúa Cha và Đức Ki-tô mối ưu tư về
việc cứu độ nhân loại, và tham gia vào sứ mạng tông đồ của Giáo Hội. Việc tuyên
giữ ba lời khuyên Phúc Âm biểu lộ việc thông dự vào mầu nhiệm thập giá của Đức
Ki-tô (số 10).
Bố cục của văn kiện khá đơn
giản. Trong bảy chương (gồm cả nhập đề và kết luận) gồm 17 số, Đức thánh cha
cho thấy ý nghĩa sâu xa của những yếu tố làm nên đời tận hiến : Ơn gọi (3-6) ;
Sự tận hiến (7-8) ; Các lời khuyên Phúc Âm (9-13) ; Lòng yêu mến Giáo Hội qua
việc làm chứng và hoạt đồng tông đồ (14-15).
——————————————–
Anh chị em thân mến trong Đức
Ki-tô Giê-su !
Lời mời gọi ấy nhắm đến tất cả
mọi thành phần trong Hội Thánh, nhưng
đối với các con là những tu sĩ nam nữ, lời mời gọi ấy được gửi
đến một cách đặc biệt bởi vì do việc tận hiến cho Thiên Chúa qua việc tuyên giữ
các lời khuyên Phúc Âm, các con hướng đến một sự viên mãn đặc biệt của đời sống
Ki-tô hữu. Ơn gọi riêng của các con cũng như toàn bộ đời sống của các con trong
Hội Thánh và trong thế giới, sở dĩ có được tính chất và sức mạnh thiêng liêng
là nhờ chính chiều sâu
của mầu nhiệm cứu chuộc. Khi bước theo Đức Ki-tô trên đường “chật… và hẹp” (Mt 7,14),
các con cảm nghiệm được một cách phi thường rằng “ơn cứu chuộc nơi Người
chan chứa” : copiosa
apud eum redemptio (Tv 129,7).
Cha chào thăm các con với tâm
tình quý mến của vị Giám mục Rô-ma và là người kế nhiệm thánh Phê-rô, mà các
cộng đoàn của các con vốn hiệp nhất với, một cách đặc biệt. Từ toà của thánh
Phê-rô này, những lời của thánh Phao-lô cũng vang lên như một tiếng vọng liên
lỉ : “Tôi đã đính hôn
anh em với một người độc nhất, để tiến dâng anh em cho Đức Ki-tônhư một nữ trinh
thanh khiết” (x. 2 Cr 11,2). Sau thời các Tông Đồ, Hội Thánh lãnh nhận kho tàng
lễ cưới với Đấng Phu Quân thiên linh, do đó, với một tình yêu tột bậc, Hội
Thánh ngắm nhìn tất cả mọi con trai và con gái của mình là những người, do việc
khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, đã thiết lập, nhờ vào sự trung gian của Hội
Thánh, một giao ước tuyệt vời với Đấng Cứu Chuộc thế gian.
Các con hãy đón nhận lời này
của Năm Thánh cứu chuộc như một lời yêu thương mà Hội Thánh gửi đến các con.
Hãy đón nhận lời ấy, bất cứ các con ở đâu : hoặc ở trong nội vi những cộng đoàn
chiêm niệm hoặc ở giữa những cách thức hoạt động tông đồ đa dạng như : truyền
giáo, sinh hoạt mục vụ, các bệnh viện hay các nơi khác để phục vụ con người đau
khổ, các viện giáo dục, các nhà trường hoặc viện đại học, và sau cùng ngay tại
mỗi một ngôi nhà của các con, nơi mà các con “tề tựu lại nhân danh Đức Ki-tô” với ý thức
là có Chúa “ở
giữa các con” (x. Mt 18,30).
Ước chi lời nói yêu thương mà Hội Thánh ngỏ
với các con trong năm thánh cứu chuộc này phản ánh được lời
yêu thương mà chính Đức Ki-tô đã ngỏ với mỗi một người trong các con, khi một
ngày kia Người thốt ra lời huyền nhiệm “Hãy
theo Ta” (x. Mt 19,21 ; Mc 10,21 ; Lc 18,22), để từ đó làm phát sinh ơn gọi của
các con trong Hội Thánh.
“Đức
Giê-su nhìn người ấy và đem lòng trìu mến”. Tình yêu của Đấng Cứu Chuộc là thế
đấy : một tình yêu bừng lên từ cõi thâm sâu thiên linh và nhân loại của sự cứu
chuộc. Tình yêu này phản ánh tình
yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa Cha, Đấng “đã yêu mến thế gian đến
nỗi đã ban Con một của Người, ngõ hầu mọi kẻ tin vào Người Con ấy thì không
phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3,16). Được chiếm đoạt bởi tình yêu
ấy, Chúa Con đã lãnh nhận sứ mệnh từ nơi Cha Người trong Chúa Thánh Thần và đã
trở thành Đấng Cứu Chuộc thế gian. Tình yêu của Cha đã được biểu lộ nơi Con của
Người như một tình yêu
cứu chuộc. Chính tình yêu ấy làm thành giá cứu chuộc nhân loại và
thế giới. Các thánh tông đồ đã nói tới giá cứu chuộc với một niềm cảm kích sâu
xa, như thánh Phê-rô đã viết : “Anh
em biết : không phải bằng những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã
được cứu thoát… nhưng là bằng máu châu báu của Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích,
là Đức Ki-tô” (1 Pr 1,18-19). Thánh Phao-lô thì quả quyết : “Anh em đã được chuộc lại
với giá rất đắt” (1 Cr 6,20).
Lời mời gọi đi vào con đường
các lời khuyên Phúc Âm phát sinh từ
sự gặp gỡ bên trong với tình yêu của Đức Ki-tô, tình yêu cứu
chuộc. Chính đó là tình yêu mà Đức Ki-tô dùng để mời gọi. Trong cơ cấu của ơn
gọi, sự gặp gỡ với tình yêu ấy trở thành một cái gì thật là cá biệt. Các nam nữ
tu sĩ thân mến, Đức Ki-tô “sau
khi đã nhìn các con và đem lòng trìu mến các con”, thì Người mời gọi mỗi một
người trong các con, và lúc đó tình yêu cứu chuộc của Người được dành riêng cho
một cá nhân nhất định và đồng thời mặc lấy tính chất hôn ước : tình yêu ấy trở
thành một thứ tình yêu tuyển
chọn. Một tình yêu như thế vây bọc con người toàn diện, cả hồn lẫn
xác, dầu là nam hay nữ, trong chính cái “bản
ngã” cá biệt và duy nhất. Đấng đã phó mình muôn thuở cho Cha Người, Đấng ấy
tự “trao
hiến” chính mình trong mầu nhiệm cứu chuộc, thì này đây Người đã mời gọi con
người, để đến lượt mình họ cũng tự hiến hoàn toàn cho một công việc phục vụ đặc
biệt của công trình cứu chuộc, bằng cách gia nhập một cộng đoàn huynh đệ được
Hội Thánh công nhận và phê chuẩn. Lời mời gọi này chẳng được vọng lại cách đích
đáng qua những câu nói của thánh Phao-lô dưới này sao : “Hay là anh em lại không
biết rằng thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần … và anh em không còn
thuộc về mình nữa sao ? Anh em đã được chuộc lại với giá rất đắt” (1 Cr
6,19-20) ?
Đúng thế, tình yêu của Đức
Ki-tô đã bắt được từng người trong các con, hỡi anh chị em thân mến, bằng
chính “giá”
cứu chuộc. Do đó, các con nhận ra rằng các
con không còn thuộc về mình nữa, nhưng là thuộc về Người. Sự nhận
thức ấy là hoa trái do “cái
nhìn” của Đức Ki-tô trong cõi lòng kín nhiệm của các con. Các con đã đáp lại
cái nhìn ấy bằng cách chọn lấy Đấng đã chọn từng người trong các con, bằng cách
mời gọi các con với tình yêu vô biên cứu chuộc của Người. Khi gọi mỗi người
bằng “tên
riêng của họ”, Người luôn luôn nại
tới sự tự do của con người. Đức Ki-tô nói : “Nếu anh muốn …”. Sự đáp
trả lời mời gọi ấy là một lựa chọn tự do. Các con đã chọn Đức Giê-su Na-da-rét,
Đấng Cứu Chuộc thế gian, khi các con chọn con đường mà Người đã vạch ra cho các
con.
Bởi vậy, lời mời gọi trở nên
trọn lành nằm ngay trong chính yếu tính của ơn gọi Ki-tô hữu. Cũng phải quy chiếu vào lời
mời gọi ấy để hiểu những lời Đức Giê-su ngỏ với chàng thanh niên trong Phúc Âm.
Những lời ấy được liên kết một cách đặc biệt với mầu nhiệm cứu chuộc con người
trong thế gian. Quả thực, sự cứu chuộc trả lại cho Thiên Chúa cái công trình
sáng tạo đã bị tội lỗi làm ô nhiễm, bằng cách làm cho sự trọn lành được biểu
lộ, sự trọn lành mà toàn thể tạo thành – cách riêng con người – có được trong
tư tưởng và trong ý định của chính Thiên Chúa. Đặc biệt là con người cần phải
được hiến dâng và trao trả cho Thiên
Chúa, nếu như con người cũng cần phải được trao trả cách trọn vẹn cho chính mình. Do đó mới
có lời mời gọi muôn thuở : “Hãy
trở lại với Ta, vì Ta đã cứu chuộc ngươi rồi” (Is 44,22). Những lời của Đức
Ki-tô “Nếu
anh muốn nên trọn lành, thì hãy đi và bán đứt của cải anh có mà cho người
nghèo…” chắc hẳn đưa chúng ta vào trong khuôn khổ của lời khuyên nghèo khó
trong Phúc Âm, là lời khuyên nằm trong chính yếu tính của ơn gọi và của sự
tuyên khấn dòng.
Đồng thời có thể hiểu những lời
nói ấy theo nghĩa rộng hơn, và nói được là rộng rãi hơn và chủ yếu. Vị Thầy
Na-da-rét mời gọi kẻ đối thoại với Người hãy khước từ một thứ chương trình sống,
trong đó phạm trù nổi bật hàng đầu là phạm trù chiếm hữu, phạm trù “sở đắc” để, thay vào
đó, đón nhận một
chương trình sống quy hướng về giá trị của nhân vị, về “nhân cách” với tất cả tầm
cao quý của con người (*).
Hiểu được những lời nói của Đức
Ki-tô như thế là tạo được bối cảnh rộng lớn hơn cho lý tưởng sống khó nghèo
theo Phúc Âm, một cách đặc biệt cho sự khó nghèo, với tư cách là lời khuyên
Phúc Âm vốn nằm trong lãnh vực cốt yếu của hôn lễ huyền nhiệm của các con với
Đấng Phu Quân thiên linh trong Hội Thánh. Dựa vào ánh sáng của nguyên lý “nhân cách thì lớn hơn là
sở đắc” (nhất là khi “sở
đắc” được hiểu theo vật chất và lợi ích), để đọc những lời nói của Đức Ki-tô,
thì hầu như chúng ta đạt tới những
nền tảng nhân học của ơn gọi trong Phúc Âm. Trong bối cảnh của
nền văn minh hiện tại, đây quả là một khám phá có tính chất rất thời sự. Và
cùng một lúc, ơn gọi sống theo “con
đường trọn lành”, như Đức Ki-tô đã vạch ra, cũng trở thành một vấn đề thời sự.
Trong khung cảnh của nền văn minh hiện đại, nhất là trong bối cảnh của một xã
hội tiêu thụ, nếu như con người cảm nghiệm một cách đau xót về sự thiếu thốn
chính “nhân
cách” do bởi tất cả các hình thức “sở
đắc” quá thừa thãi, thì lúc đó con người sẽ trở nên thuận lợi hơn để đón nhận
chân lý về ơn gọi đã được Phúc Âm công bố một lần cho tới mãn đại. Đúng thế,
anh chị em thân mến, lời mời gọi mà các con đón nhận khi bước vào con đường
tuyên khấn dòng đạt tới ngay
chính gốc rễ của nhân tính, gốc rễ của vận mệnh con người trong thế
giới hiện tại. Bậc “sống
trọn lành” theo Phúc Âm không tách biệt các con khỏi những gốc rễ ấy. Ngược lại
bậc ấy giúp cho các con bám víu mạnh mẽ hơn vào cái gì làm cho con người thực
sự là một con người, bằng cách đem men thần nhân của mầu nhiệm cứu chuộc thâm
nhập vào nhân tính ấy, một nhân tính đã bị tội lỗi làm cho ra trì trệ bằng muôn
ngàn cách.
Dưới ánh sáng của những lời ấy
thì lời mời gọi của Đức Ki-tô trở thành hết sức hiển nhiên : “Anh hãy đi và bán đứt
những của cải anh có mà cho người nghèo và anh sẽ có một kho tàng trên trời ;
đoạn hãy đến theo tôi” (Mt 19,21). Giữa lời nói “hãy đi” và những từ tiếp
theo “hãy
đến, theo tôi” có một tương quan chặt chẽ. Có thể nói được là những lời cuối
xác định ngay chính yếu tính của ơn gọi ; những lời ấy thực ra nói tới vấn đề
đi theo Đức Ki-tô (Sequi –
đưa tới thành ngữ Sequela
Christi). Các từ ngữ “hãy
đi – hãy bán, – hãy đem cho” dường như xác định tình trạng trước khi nhận ơn
gọi. Dẫu vậy, mặt khác, tình trạng ấy không nằm “bên ngoài” ơn gọi ; tình
trạng ấy đã được “bao
hàm ở trong” ơn gọi rồi. Bởi vì con người khám phá ra ý nghĩa mới của nhân tính
mình không phải chỉ để “theo”
Đức Ki-tô thôi, nhưng còn thực hiện tất cả yêu sách của việc bước
theo Người. Khi con người “bán
cái mình có” và “đem
cho người nghèo”… thì con người khám phá ra rằng của cải với tiện nghi mà mình
chiếm hữu được trước đây không phải là kho tàng để cho mình dừng lại ở đó
: kho tàng ở trong con
tim của mình, con tim mà Đức Ki-tô đã uốn nắn cho có khả năng “trao tặng” cho người khác
bằng cách tự trao tặng
mình. Người giàu không phải là người chiếm hữu nhưng là người ban
phát, người có khả năng để
ban phát, trao tặng.
Về điểm này, nghịch lý Phúc Âm
quả là có ý vị đặc biệt. Nghịch lý ấy trở thành một chương trình hiện hữu :
trở nên người nghèo, theo nghĩa mà Vị Thầy Na-da-rét đã gán cho cách “hiện hữu” ấy, có nghĩa là
trở nên, ngay trong nhân cách của mình, một người phân phát điều tốt lành. Điều
đó cũng có nghĩa là “khám
phá ra kho tàng”. Kho tàng này không
thể bị huỷ diệt. Kho tàng này cùng với con người bước vào chiều
kích vĩnh cửu, kho tàng này thuộc về vận mệnh cánh chung thiên linh của con
người. Nhờ kho tàng này, con người có được tương lai vĩnh viễn của mình nơi
Thiên Chúa. Đức Ki-tô nói : “Anh
sẽ có kho tàng trên trời”. Kho tàng này không phải là một “phần thưởng” sau khi chết
dành cho những hoạt động đã được thực thi nhằm noi gương Thầy thiên linh, cho
bằng là sự hoàn tất có
tính cách cánh chung của những gì tiềm ẩn ở đàng sau những
hoạt động mà, ngay khi còn ở đời này, đã có ở trong “kho tàng” nội tại của con
tim. Quả thế, chính Đức Ki-tô, trong bài giảng trên núi, sau khi đã mời gọi
thâu góp cho được những kho tàng trên trời, đã nói thêm : “Kho tàng của anh ở đâu,
thì lòng anh cũng ở đấy” (x. Mt 6,21). Lời quả quyết ấy nói lên tính cách cánh
chung của ơn gọi được thể hiện qua con đường hôn lễ thiêng liêng với Đức Ki-tô
bằng việc thực hành những lời khuyên Phúc Âm.
Bởi đó, lời mời gọi đi vào con
đường các lời khuyên Phúc Âm luôn phát sinh từ Thiên Chúa : “Không phải các con đã
chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, đã cắt đặt các con, ngõ hầu các
con đi và sinh hoa quả và để hoa quả của các con được bền mãi” (Ga 15,16). Ơn
gọi, nhờ đó con người khám phá ra, từ mãi tận nơi sâu thẳm của nó, cái định
luật Phúc Âm về việc trao ban được ghi khắc trong nhân tính của mình, chính ơn
gọi ấy là một hồng ân được
ban. Đây là một hồng ân phong phú hàm chứa cái gì thâm sâu, trong đó phản ánh
khía cạnh thần nhân của mầu nhiệm cứu chuộc thế gian. “Tình yêu cốt ở điều này :
không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương
chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga
4,10).
Việc tuyên khấn này tạo ra,
trong Đức Giê-su Ki-tô, một dây liên hệ mới giữa con người với một Thiên Chúa
Ba Ngôi. Dây liên hệ này phát triển từ dây
liên hệ nguyên thuỷ hình thành nhờ bí tích rửa tội. Sự khấn
dòng “ăn rễ
sâu trong sự tận hiến của phép rửa tội và biểu lộ sự tận hiến này cách sung mãn
hơn” (x. DT 3 ; YT 5). Như thế, sự tận hiến này với những yếu tố cấu thành của
nó, trở thành một sự tận hiến mới, sự tận hiến và hiến dâng bản thân con người
cho Thiên Chúa đáng mến trên hết mọi sự. Với lời khấn, các con đã ràng buộc
mình sống cách cụ thể những lời khuyên Phúc Âm khiết tịnh, khó nghèo và vâng
phục tuỳ theo những quy định riêng biệt của gia đình dòng tu các con, như đã ấn
định trong các Hiến pháp : sự ràng buộc này biểu lộ một sự tận hiến cho Thiên Chúa
và đồng thời nói lên phương tiện giúp thực hiện sự tận hiến ấy. Từ đó thành
hình chứng tá và hoạt động tông đồ riêng biệt của các người tận hiến. Tuy
nhiên, cần phải tìm nguồn gốc của sự tận
hiến ý thức và tự do này, và cũng là nguồn gốc của sự hiến thân cho Thiên
Chúa để thuộc về Người, ở bí tích rửa tội : bí tích này dẫn đưa
chúng ta đến mầu nhiệm vượt qua là chóp đỉnh và trung tâm của ơn cứu chuộc đã
được Đức Ki-tô đã hoàn tất.
Cho nên, để làm nổi bật đầy đủ
thực tại về việc khấn dòng, cần phải tham khảo những lời rung động của thánh
Phao-lô trong thư gửi các tín hữu Rô-ma : “Anh em không biết rằng : Hết thảy ta đã được
thanh tẩy trong Đức Ki-tô Giê-su, thì chính trong sự chết của Người mà ta đã được
thanh tẩy sao ? Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng với Người trong sự chết
ngõ hầu như Đức Ki-tô… cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới. Con người
cũ của ta đã cùng bị đóng đinh thập giá với Người… ngõ hầu ta khỏi làm nô lệ
cho tội nữa… Cả anh em cũng vậy, hãy kể mình là đã chết đối với tội, và đang
sống cho Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô” (Rm 6,3-4.11).
Sự khấn dòng – đặt nền tảng
trên bí tích rửa tội – là một sự “mai
táng” mới trong cái chết của Đức Ki-tô : mới, bởi ý thức rõ rệt và lựa chọn ;
mới, bởi tình yêu và ơn gọi ; mới, bởi sự “hoán cải không ngừng”. Một sự “mai táng trong cái chết”
như thế làm cho con người, “đã
được mai táng với Đức Ki-tô”, “bước
đi với Đức Ki-tô trong một đời sống mới”. Chính trong Đức Ki-tô
chịu đóng đinh mà sự hiến thánh rửa tội cũng như sự tuyên giữ các lời khuyên
Phúc Âm tìm được nền tảng tối hậu của mình : sự tuyên giữ các lời khuyên Phúc
Âm, theo lời lẽ của Công Đồng Va-ti-ca-nô II, “cấu thành một sự hiến thánh mới”. Nó vừa là sự chếtvừa là
sự giải thoát.
Thánh Phao-lô viết : “Anh
em hãy kể mình như đã chết đối với tội” ; thế nhưng, đồng thời, người cũng gọi
cái chết đó là “sự
giải thoát khỏi làm nô lệ cho tội”. Nhưng, tiên vàn, sự tận hiến tu trì, đặt
trên nền tảng bí tích rửa tội, tạo nên “một
đời sống mới cho Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô”.
Vì thế, khi khấn giữ những lời
khuyên Phúc Âm, thì đồng thời người ta cũng “cởi bỏ con người cũ” một cách chín chắn và ý
thức nhiều hơn và, cũng bằng cách ấy, người ta “mặc lấy con người mới đã được sáng tạo
theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện thực sự”, như đã chép trong
thư gửi các tín hữu Ê-phê-xô (x. Ep 4,22.24).
Lời mời gọi trong Phúc Âm
: “Nếu anh
muốn nên trọn lành…, hãy theo tôi” hướng dẫn chúng ta dưới ánh sáng những lời
của vị Thầy thiên linh. Từ đáy sâu thẳm của sự cứu chuộc, phát ra lời mời gọi
của Đức Ki-tô và, từ sự sâu thẳm này, lời mời gọi ấy thấu đến linh hồn con
người : nhờ hồng ân cứu
chuộc, lời mời gọi cứu độ này mang một hình thù cụ thể trong lòng
kẻ được mời gọi, đó là sự tuyên khấn giữ những lời khuyên Phúc Âm. Chính dưới
hình thù này mà các con đáp trả lời mời gọi của tình yêu cứu chuộc, và lời đáp
trả này cũng lại là một lời đáp trả của tình yêu : tình yêu trao hiến, tình
yêu này là linh hồn của
sự tận hiến, hiểu theo nghĩa là sự tận hiến bản thân. Những lời của
ông I-sai-a “Ta đã
chuộc lấy ngươi – ngươi là của Ta” dường như đóng ấn chắc chắn
vào tình yêu này, tình yêu của một sự tận hiến toàn diện và độc hữu cho Thiên
Chúa.
Như thế, giao ước đặc biệt
của tình yêu hôn ước được
thiết lập, từ đó dội lên như một tiếng vang liên lỉ những lời nói về Ít-ra-en
mà Chúa “đã
chọn lấy cho mình… để làm sản nghiệp riêng” (x. Tv 134,4). Trong mỗi một người
tận hiến, thì quả thực là “Ít-ra-en”
của giao ước mới và vĩnh viễn đã được lựa chọn. Toàn dân thời cứu thế -toàn thể
Hội Thánh– được lựa
chọn trong mỗi người nào mà Chúa lựa chọn giữa lòng dân ấy,
trong mỗi con người mà, vì
hết thảy mọi người, tự hiến mình cho Thiên Chúa để được thuộc về
một mình Người mà thôi. Thực ra, không ai, kể cả người thánh thiện nhất, có thể
lặp lại những lời của Đức Ki-tô “vì
họ, Con tự hiến thánh” (Ga 17,19) với tất cả quyền năng cứu chuộc đặc thù của
các lời ấy ; nhưng, nhờ sự hiến dâng bản thân vì tình yêu, trong khi dâng mình
cho Thiên Chúa để chỉ thuộc về Người mà thôi, thì mỗi người có thể thấy mình,
nhờ đức tin, nằm ở trong hướng đi của các lời ấy.
Những lời khác của vị tông đồ,
trong thư gửi tín hữu Rô-ma mà chúng ta lặp đi lặp lại và suy niệm nhiều lần,
chẳng dẫn chúng ta đến điều ấy sao ? “Tôi
khuyên anh em : nhân vì lòng thương xót của Thiên Chúa, anh em hãy hiến dâng
thân mình anh em làm lễ tế sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là
sự thờ phượng thiêng liêng của anh em” (Rm 12,1). Trong những lời này vang lên
như một tiếng vọng xa xa từ Đấng, khi đi vào thế giới và trở thành người, đã
nói : “Ngài đã nặn nên
thân xác cho con… Này con đến để thi hành ý muốn Ngài, lạy Thiên
Chúa” (Dt 10,5.7).
Vậy, trong khung cảnh đặc biệt
của Năm Thánh cứu chuộc này, chúng ta hãy trở về với mầu nhiệm thân xác và linh
hồn Đức Ki-tô, như về với chủ thể trọn vẹn của tình yêu hôn ước và cứu chuộc :
hôn ước, bởi vì cứu chuộc. Vì
yêu, Người đã tự hiến mình, vì yêu Người đã thí thân xác mình để
chuộc tội thế gian. Khi dìm mình vào mầu nhiệm vượt qua của Đấng Cứu Thế, bằng
sự hiến thánh do các lời khấn dòng, thì chính các con, với tình yêu hiến dâng
trọn vẹn, các con ước mong cho linh hồn và thân xác các con được thấm nhuần
tinh thần hy sinh, như thánh Phao-lô mời gọi chúng ta làm điều ấy qua những lời
trong thư gửi các tín hữu Rô-ma vừa được trích dẫn trên đây, là “hiến dâng thân mình anh
em làm lễ tế sống động”. Bằng cách ấy, sự khấn dòng của các con được in dấu
bằng sự giống như tình
yêu ở trong trái tim Đức Ki-tô, nó vừa có tính cách cứu chuộc vừa
có tính cách hôn ước. Một tình yêu như thế phải tuôn trào, nơi mỗi người các
con, hỡi anh chị em thân mến, tự chính nguồn mạch của sự tận hiến đặc biệt :
sự tận hiến này, trên nền tảng thánh bí tích rửa tội, là khởi đầu cho cuộc sống mới của các
con trong Đức Ki-tô và trong Hội Thánh, khởi đầu của cuộc tạo thành mới.
Cùng với tình yêu này, ước chi
cũng ăn sâu vào mỗi người các con, sự
vui mừng được thuộc độc quyền sở hữu của Thiên Chúa, được làm cơ
nghiệp riêng của Ba Ngôi rất thánh là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần !
Đồng thời các con hãy lặp lại những lời linh hứng của tác giả Thánh vịnh
: “Con còn
ai chốn trời xanh, bên Ngài thế sự thật tình chẳng ham ! Dẫu cho hồn xác suy
tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn” (Tv 72,25-26).
Hoặc những lời này : “Con thưa cùng Chúa :
‘Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc ?’… Lạy Chúa, Chúa là
phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con, số mạng con,
chính Ngài nắm giữ” (Tv 15,2.5).
Ước chi sự ý thức được thuộc về
chính Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu chuộc thế gian và Đấng Phu
Quân của Hội Thánh, nên như một ấn
tín in dấu người hiền thê trong Kinh Thánh vào những cõi lòng (x. Dc
8,6), vào hết mọi tư tưởng, vào lời nói và việc làm của các con ! Như các con
đã biết, sự hiểu biết nồng nhiệt và sâu sắc này về Đức Ki-tô được thực hiện và
ăn rễ mỗi ngày thêm sâu đậm nhờ đời sống cầu nguyện riêng tư, cộng đoàn và
phụng vụ riêng của mỗi gia đình dòng tu của các con. Ở đây nữa, và nhất là ở
đây, những nam nữ tu sĩ hoàn toàn chuyên về chiêm niệm đem lại cho các anh chị
em của mình đang chăm lo làm việc tông đồ một sự giúp đỡ thiết thực và một sự
yểm trợ khích lệ. Ước chi sự ý thức được thuộc về Đức Ki-tô này mở lòng, mở tâm tư và hành
động của các con, với cái chìa khoá của mầu nhiệm cứu chuộc, trước mọi đau khổ,
mọi nhu cầu và mọi hy vọng của nhân loại và của thế giới : giữa lòng họ, sự tận
hiến Phúc Âm của các con được đính vào như một dấu hiệu đặc biệt nói lên sự
hiện diện của Thiên Chúa, “mọi
người đều sống cho Người” (x. Lc 20,38), mọi người đều được Nước Trời ôm ấp
cách vô hình.
Anh chị em thân mến, lời “hãy theo tôi” mà Đức
Ki-tô đã nói khi “Người
nhìn” mỗi người các con “và
đem lòng yêu mến”, cũng có ý nghĩa này là : hãy tham dự đầy đủ hết sức và triệt
để hết sức vào công việc hình thành của “cuộc
tạo thành mới”, thành quả của công trình cứu chuộc thế gian với sức mạnh của
Thánh Thần Chân Lý tác động, qua mầu nhiệm vượt qua của Đức Ki-tô tràn trề ân
sủng.
Yếu tố cốt yếu của “nhiệm cục” này là biến đổi tất cả vũ
trụ qua trái tim con
người, nghĩa là từ bên trong : “Muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi chờ
ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người… với hy vọng là có ngày
cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với
con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,19.20-21). Sự biến
đổi này đi đôi với tình yêu mà lời mời gọi của Đức Ki-tô gieo vào lòng con
người, cái tình yêu tạo nên chính bản chất của sự tận hiến, là hành vi nhờ đó
người nam hay người nữ tự hiến mình cho Thiên Chúa, bằng việc khấn dòng, trên
nền tảng của sự tận hiến trong bí tích rửa tội. Chúng ta có thể tìm thấy những
nền tảng của nhiệm cục cứu chuộc khi đọc những lời trong thư thứ nhất của thánh
Gio-an : “Anh
em đừng yêu mến thế gian và các điều trong thế gian. Nếu ai yêu mến thế gian,
thì lòng mến của Chúa Cha không có trong kẻ ấy. Vì mọi sự trong thế gian – đam
mê của xác thịt, đam mê của con mắt, và kiêu hãnh về cuộc sống – các điều ấy
không do tự Chúa Cha, nhưng là do tự thế gian mà có. Và thế gian đang qua đi và
đam mê của nó ; còn kẻ làm theo ý Thiên Chúa thì lưu tồn vạn đại” (1 Ga
2,15-17).
Anh chị em thân mến, việc khấn
dòng đặt vào trái tim các con, nam và nữ, tình yêu của Chúa Cha, là chính tình
yêu ở trong trái tim Đức Ki-tô, Đấng Cứu Chuộc thế gian. Đó là một tình yêu ôm
ấp tất cả thế gian và các
điều tự Chúa Cha mà có trong thế gian, và đồng thời đánh bại
tất cả những gì, trong thế gian, không
do tự Chúa Cha mà có. Tình yêu này nhằm mục đích đánh bại bộ ba đam
mê. “Đam mê
của xác thịt, đam mê của con mắt và kiêu hãnh về cuộc sống” trú ẩn trong con
người như gia tài của
tội nguyên tổ : vì nó mà mối quan hệ với thế gian mà Thiên
Chúa đã dựng nên và ban tặng cho con người để con người làm chủ (x. St 1,28) đã
bị méo mó nhiều cách trong lòng con người. Trong nhiệm cục cứu chuộc, những lời
khuyên Phúc Âm khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là những phương tiện triệt để
để biến đổi trong trái tim con người mối quan hệ ấy với “thế gian”, với thế gian
bên ngoài và với “chính
bản ngã”, của con người : “bản
ngã này, theo một nghĩa nào đó, là phần trung tâm “của thế gian” theo viễn
tượng của Kinh Thánh, tuỳ theo mức độ nó làm phát sinh ra những “gì không do tự Chúa Cha
mà có”.
Dựa vào thư thứ nhất của thánh
Gio-an đã trích dẫn, ta dễ nhận thấy tầm quan trọng nền tảng của ba lời khuyên
Phúc Âm trong tất cả nhiệm cục cứu chuộc. Đức khiết tịnh Phúc Âmgiúp chúng ta biến đổi,
trong cuộc sống nội tâm của chúng ta, tất cả những gì bắt nguồn từ đam mê của
xác thịt ; đức khó
nghèo Phúc Âm giúp biến đổi tất cả những gì bắt nguồn từ đam
mê của con mắt ; đức
vâng phục Phúc Âm giúp biến đổi triệt để những gì, trong lòng
con người, phát xuất từ kiêu hãnh về cuộc sống. Ở đây chúng ta cố ý nói đến sự
vượt thắng như một sự biến đổi, bởi vì tất cả nhiệm cục cứu chuộc đều được thu
gọn trong những lời mà Đức Ki-tô đã dâng lên Chúa Cha trong lời nguyện hiến tế
: “Con
không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ họ khỏi kẻ dữ” (Ga
17,15). Những lời
khuyên Phúc Âm, theo cứu cánh chính của nó, nhằm phục vụ “sự canh tân cuộc sáng
tạo” là : “thế
gian”, nhờ những lời khuyên này, phải phục quyền con người, để chính con người
được hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa.
10. Cứu
cánh nội tại của những lời khuyên Phúc Âm cũng còn giúp chúng ta khám phá thêm
những khía cạnh khác làm nổi bật mối liên hệ mật thiết của nó với nhiệm cục cứu
chuộc. Ta biết rằng : cao điểm của nhiệm cục là mầu nhiệm Vượt qua của Đức
Giê-su Ki-tô, nơi kết hiệp sự tự
huỷ trong cái chết và sự khai sinh vào một cuộc sống mới trong
sự phục sinh.
Tự nó, việc giữ các lời khuyên Phúc Âm phản ánh cách sâu xa tính cách lưỡng
diện của cuộc Vượt qua (x. DT 5) : sự huỷ diệt triệt để những gì nơi chúng ta
thuộc về tội lỗi và những hậu quả của nó, và khả năng được tái sinh mỗi ngày vào một sự thiện sâu
xa hơn, ẩn kín trong linh hồn con người. Sự thiện này tỏ hiện ra
dưới hành động của ân sủng, mà việc giữ khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục làm
cho linh hồn được nhạy cảm đặc biệt để đón nhận. Tất cả nhiệm cục cứu chuộc
được thể hiện thực sự trong sự đón nhận hành
độngnhiệm mầu của Chúa Thánh Thần, tác giả đích thực của mọi sự
thánh thiện. Như thế thì việc giữ các lời khuyên Phúc Âm tạo ra, nơi mỗi người
các con, hỡi anh chị em thân mến, một khoảng không gian rộng lớn cho “cuộc sáng tạo mới” : cuộc
sáng tạo mới này được tỏ hiện trong “bản
ngã nhân loại” của các con chắc chắn là nhờ nhiệm cục cứu chuộc, và đồng thời,
ngang qua cái “bản
ngã nhân loại” này, cũng tỏ hiện trong những chiều kích liên hệ giữa con người
với nhau và với xã hội nữa. Vậy thì, đồng thời nó cũng tỏ hiện trong nhân loại,
như một phần tử của thế gian do Thiên Chúa dựng nên : thế gian được Chúa Cha
yêu mến với một tình yêu “mới”
trong Người Con vĩnh cửu, Đấng Cứu Chuộc thế gian.
Thánh Phao-lô nói về Chúa Con
rằng : “Tuy
là Thiên Chúa… song Người đã huỷ mình ra không, là lãnh lấy thân phận tôi đòi,
trở thành giống hẳn phàm nhân” (Pl 2,6-7). Vậy thì sự huỷ mình, mà việc giữ các
lời khuyên Phúc Âm đòi hỏi, có đặc tính hoàn toàn quy hướng về Đức Ki-tô. Và
cũng theo ý nghĩa đó, Vị Thầy Na-da-rét cho thấy rõ thập giá là một điều kiện để đi theo
Người. Đấng, một ngày nọ, đã nói với mỗi người các con, “hãy theo tôi”, thì cũng
đã nói : “Nếu
ai muốn theo tôi, thì hãy từ bỏ chính mình, hãy vác lấy thập giá của mình và
hãy theo tôi”, (nghĩa là hãy đi theo vết chân tôi) (Mc 8,34 ; Mt 16,24). Điều
này, Người nói với tất cả những người đang nghe Người, chứ không phải chỉ nói
với các môn đệ Người thôi. Như vậy thì định
luật từ bỏ nằm trong chính bản chất của ơn gọi làm Ki-tô hữu.
Tuy vậy, một cách đặc biệt, nó thuộc về bản chất của ơn gọi liên kết với sự
tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm. Những người theo đuổi con đường ơn gọi này
sẽ biết hiểu kiểu nói với những từ ngữ khó hiểu, mà chúng ta đọc trong thư gửi
các tín hữu Phi-líp-phê : “Vì
Người tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Ki-tô, và
được thuộc về Người…” (Pl 3,8.9).
Vậy thì từ bỏ – phản ánh của
mầu nhiệm Núi Sọ – để “tìm
thấy mình” cách đầy đủ hơn, trong Đức Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh ; từ bỏ
để nhận ra trong sự từ bỏ ấy mầu nhiệm về chính nhân tính của chúng ta trong
tất cả mức độ sâu xa của nó, và thừa nhận mầu nhiệm ấy bằng cách đi vào con
đường của tiến trình lạ lùng mà thánh Tông Đồ đã diễn tả ở nơi khác rằng
: “Dẫu rằng
con người bên ngoài nơi chúng tôi tiêu hao tàn tạ, thì con người bên trong nơi
chúng tôi cứ ngày ngày canh tân đổi mới” (2 Cr 4,16). Như thế thì nhiệm cục cứu
chuộc đem quyền lực của mầu nhiệm vượt qua vào địa bàn của nhân loại ngoan
ngoãn nghe lời mời gọi của Đức Ki-tô mà sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng
phục, nghĩa là sống theo những lời khuyên Phúc Âm.
Thực thế, phải căn cứ vào nhiệm
cục cứu chuộc mà đánh giá và thực hành khiết
tịnh mà mỗi người các con, đã tuyên hứa bằng lời khấn, làm một
với đức khó nghèo và đức vâng phục. Đây là lời đáp trả cho lời của Đức Ki-tô,
cũng là một lời mời gọi, là : “và
có những người yêm hoạn bởi
mình làm cho mình yêm hoạn vì Nước Trời. Ai hiểu nổi thì hãy lo hiểu lấy” (Mt
19,12). Vừa mới trước đây, Đức Ki-tô đã nhấn mạnh rằng : “Không phải mọi người đều
hiểu được lời này, nhưng chỉ những ai điều ấy đã được ban cho” (Mt 19,11).
Những lời cuối cùng này cho thấy rõ ràng rằng : lời mời gọi này là một lời
khuyên. Về điểm này, tông đồ Phao-lô cũng đã quảng diễn suy tư của người trong
thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô (1 Cr 7,28-40). Lời khuyên này gửi đến cho
tình yêu của trái tim con người. Nó làm nổi bật nhất là tính cách hôn ước của
tình yêu ấy, trong khi đó thì đức khó nghèo và, hơn thế nữa, đức vâng phục
dường như làm nổi bật trên hết khía cạnh cứu chuộc của tình yêu mà sự tận hiến
trong dòng tu đòi hỏi. Ở đây, như đã biết, người ta đề cập đến đức khiết tịnh
với ý nghĩa là “mình
làm cho mình yêm hoạn vì Nước Trời”, nghĩa là đến đức khiết tịnh như một sự
biểu thị tình yêu hôn ước đối với chính Đấng Cứu Thế. Về ý nghĩa này, vị Tông
Đồ dạy rằng : Ai lựa chọn bậc hôn nhân thì “làm tốt” và ai lựa chọn bậc trinh khiết
thì “làm
tốt hơn” (x. 1 Cr 7,38). Người độc thân thì lo việc Chúa, sao cho hài lòng Chúa và “người phụ nữ độc thân,
cũng như người trinh nữ, thì lo việc Chúa, để nên thánh, thân xác và tinh thần”
(1 Cr 7,32.34).
Ở đây – trong những lời của Đức
Ki-tô cũng như trong những lời của thánh Phao-lô – không hề có ý khinh chê hôn
nhân. Lời khuyên Phúc Âm về đức khiết tịnh chỉ có ý gợi cho biết rằng : trái
tim con người, nam hay nữ, đặc biệt có thể có tình yêu hôn ước đối với chính Đức Ki-tô, với
Đức Giê-su là “Đức
Chúa”. Thực thế, việc “mình
làm cho mình yêm hoạn vì Nước Trời” không phải chỉ là một sự tự ý khước từ kết
bạn và đời sống gia đình, nhưng là một lựa
chọn đặc sủng nhận lấy Đức Ki-tô, như một Đấng Phu Quân độc
nhất. Một sự lựa chọn như thế, tự nó, đã khiến người ta “phải lo việc Chúa” rồi,
nhưng thêm vào đó – khi lựa chọn ấy được thực hiện “vì Nước Trời” – thì nó
làm cho Nước cánh chung
của Thiên Chúađến gần hơn với cuộc sống của hết mọi người, trong
những điều kiện của trần thế ; nó làm cho Nước ấy hiện diện giữa lòng thế gian
một cách nào đó.
Do đó, những người tận hiến
thực hiện cứu cánh nội tại của tất cả nhiệm cục cứu chuộc. Thực thế, cứu cánh
này được biểu lộ trong việc làm cho Nước Thiên Chúa, trong chiều kích chung
cục, cánh chung của nó, được đến gần. Bằng lời khấn đức khiết tịnh, những người
tận hiến tham dự vào nhiệm cục cứu chuộc bằng cách tự do khước từ niềm vui tạm bợ của
cuộc sống đôi bạn và gia đình ; và, đàng khác, chính vì “mình làm cho mình yêm
hoạn vì Nước Trời”, nên giữa lòng thế gian đang qua đi, họ loan báo sự phục sinh tương lai (x.
Lc 20,34-36 ; Mt 22,30 ; Mc 12,25) và cuộc sống vĩnh cửu, tức là cuộc sống kết
hiệp với chính Thiên Chúa trong cuộc hưởng kiến và tình yêu bao hàm và thấu
nhập toàn diện vào mọi hình thức khác của tình yêu trong lòng con người.
Và vì thế mà cũng đúng là “Người làm cho chúng ta
được nên giàu sang nhờ sự nghèo khó của Người” như thánh Tông Đồ viết. Người
là Thầy và là người
phát ngôn về sự khó nghèo làm cho nên giàu sang. Đúng vì thế mà
Người nói với chàng thanh niên trong Phúc Âm nhất lãm : “Hãy bán những gì anh có…
cho đi… và anh sẽ có một kho tàng trên trời” (Mt 19,21 ; x. Mc 10,21 ; Lc
18,22). Trong những lời này có một lời mời gọi nhằm làm cho kẻ khác được nên
giàu sang bằng chính sự khó nghèo của mình ; nhưng ở đáy sâu thẳm nhất của lời
mời gọi này có giấu kín chứng tá về sự giàu sang vô tận của Thiên Chúa ; sự
giàu sang vô tận này, khi được ban tặng cho linh hồn con người ngang qua mầu
nhiệm ân sủng, thì tạo nên, trong chính con người, chính nhờ sự khó nghèo, một
nguồn mạch làm cho những kẻ khác được nên giàu sang, không thể sánh ví được với
những gì do của cải vật chất sinh ra, một nguồn mạch để có thể cung cấp cho
người khác theo kiểu cách của chính Thiên Chúa vậy. Sự sung túc này được thực
hiện giữa lòng mầu nhiệm của Đức Ki-tô, “Đấng
làm cho chúng ta được nên giàu sang nhờ sự khó nghèo của Người”. Chúng ta trông
thấy tiến trình của cách làm cho nên giàu có này diễn tiến suốt các trang Phúc
Âm với cao điểm của nó trong biến cố Vượt qua : Đức Ki-tô, Đấng nghèo khó nhất
trong cái chết của Người trên thập giá, đồng thời cũng là Đấng làm cho chúng ta
được nên giàu sang vô tận nhờ sự sung mãn của cuộc sống mới, qua sự phục sinh.
Anh chị em thân mến, các con là
những người khó nghèo trong tinh thần, nhờ việc tuyên khấn Phúc Âm, các con hãy
đón nhận vào tất cả cuộc sống của mình cái đặc tính cứu chuộc ấy của sự khó nghèo của Đức Ki-tô.
Ngày này qua ngày khác, các con hãy tìm cách đào sâu nó hơn. Tiên vàn, các con
hãy “tìm
kiếm Nước Thiên Chúa, và sự công chính của Người, còn các điều khác sẽ được ban
thêm cho” (Mt 6,33). Ước chi nơi các con và qua các con, lời chúc phúc trong
Phúc Âm dành cho những người nghèo (Lc 6,20), dành cho những người có một tâm
hồn của kẻ nghèo, được thành tựu (Mt 5,3) !
Qua những lời trên trong thư
gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê, chúng ta đụng chạm đến chính bản chất của sự
cứu chuộc. Sự vâng phục của Đức Giê-su Ki-tô được viết như yếu tố đầu tiên và
tạo nên của việc cứu chuộc. Tư tưởng này được củng cố trong một bản văn khác
của thánh Tông Đồ trích từ thư gửi các tín hữu Rô-ma : “Vì do sự bất tuân của một
người, nhiều người đã bị liệt hàng tội nhân ; cũng vậy, vì sự vâng phục của một
người, nhiều người sẽ được liệt hàng công chính” (Rm 5,19).
Lời khuyên Phúc Âm về đức vâng
phục là lời mời gọi rút ra từ sự vâng phục “cho đến chết” của Đức Ki-tô. Những người đón
nhận lời mời gọi này được diễn tả qua câu “hãy theo Ta”, thì quyết định – theo giáo
huấn của Công Đồng – đi
theo Đức Ki-tô “Đấng,
do sự vâng phục của mình cho đến chết trên thập giá…, đã cứu chuộc loài người
và thánh hoá họ” (DT 1). Khi thực hiện cụ thể lời khuyên Phúc Âm về đức vâng
phục, họ nắm được bản chất thẳm sâu của tất cả nhiệm cục cứu chuộc. Khi chu
toàn lời khuyên này, họ muốn được tham dự đặc biệt vào sự vâng phục “của một người” ấy, sự
vâng phục nhờ đó mà “nhiều
người sẽ được liệt hàng công chính”.
Như vậy, có thể nói được rằng :
những người quyết tâm sống theo lời khuyên vâng phục thì đặt mình một cách đặc
biệt vào giữa mầu nhiệm về “tội
lỗi” (x. 2 Tx 2,7) và mầu nhiệm về sự công chính hoá và về ơn cứu chuộc. Họ ở
vào “nơi
ấy”, với tất cả hậu cảnh tội lỗi của bản tính nhân loại của họ, với tất cả cái
gia nghiệp của “sự
kiêu hãnh về cuộc sống”, với tất cả cái khuynh hướng ích kỷ muốn thống trị chứ
không muốn phục vụ ; và chính bởi lời khấn vâng phục, họ quyết tâm biến đổi để được nên
giống Đức Ki-tô, Đấng “vì
sự vâng phục của mình… đã cứu chuộc loài người và thánh hoá họ”. Khi tuân giữ
lời khuyên vâng phục, họ muốn tìm thấy vai trò đặc biệt của họ trong công cuộc
cứu chuộc của Đức Ki-tô và trong con đường nên thánh của họ.
Con đường mà Đức Ki-tô đã vạch
ra trong Phúc Âm là thế, khi Chúa nói nhiều lần đến sự chu toàn ý muốn của Thiên Chúa và
sự tìm kiếm liên tục thiên ý ấy. “Lương
thực của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy, và chu toàn công việc của Người”
(Ga 3,34). “Vì
tôi không tìm kiếm ý của tôi mà ý của Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30). “Đấng đã sai tôi ở với tôi
; Người đã không bỏ tôi một mình vì tôi hằng làm những sự đẹp lòng Người” (Ga
8,29). “Vì
tôi đã từ trời xuống, không phải để làm theo ý tôi, mà là ý của Đấng đã sai
tôi” (Ga 6,38). Sự chu toàn liên tục ý của Chúa Cha cũng gợi cho thấy lời tuyên
ngôn về Đấng Cứu Thế của tác giả Thánh vịnh trong Cựu Ước : “Trong sách có lời chép về
con : rằng con thích làm theo thánh ý và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên
Chúa của con” (Tv 39,8-9 ; x. Dt 10,7).
Sự vâng phục này của Chúa Con –
tràn đầy vui sướng – đạt tới tột đỉnh trong cuộc thương khó và trên thập giá
: “Lạy Cha,
nếu Cha muốn, xin cất chén này đi khỏi con ; song đừng cho ý của Con, mà là ý
của Cha được thành sự !” (Lc 22,42). Từ lời nguyện ở Ghết-sê-ma-ni, sự sẵn sàng
của Đức Ki-tô để chu toàn ý Chúa Cha đầy
tràn đau khổ đã trở thành sự vâng phục “cho đến chết và chết trên
thập giá” mà thánh Phao-lô nói đến.
Do lời khấn vâng phục của mình,
những người tận hiến quyết tâm bắt chước cách khiêm tốn sự vâng phục của Đấng
Cứu Thế và bắt chước một cách đặc biệt. Đối với hết mọi người, bất luận ở vào
bậc nào, sự phục tùng ý Thiên Chúa và sự vâng phục luật của Người là điều kiện để sống đời Ki-tô hữu ;
nhưng trong “bậc
tu trì”, trong “bậc
trọn lành”, lời khấn đức vâng phục đặt trong lòng mỗi người các con, hỡi anh
chị em thân mến, cái
nghĩa vụ phải quy chiếu đặc biệt về Đức Ki-tô “vâng lời cho đến chết”.
Và bởi vì sự vâng phục của Đức Ki-tô ở trong chính trọng tâm công cuộc cứu
chuộc, căn cứ vào những lời thánh Tông Đồ trích dẫn trên đây, thì trong việc
thực hành lời khuyên Phúc Âm về đức vâng phục, người ta cũng phải nhận ra
như một khoảnh khắc có
một ý nghĩa đặc biệt của “nhiệm cục cứu chuộc” chiếm đoạt tất cả ơn
gọi của các con trong Hội Thánh.
Từ đó xuất phát “thái độ hoàn toàn sẵn sàng để theo
Chúa Thánh Thần” Đấng hành động trước hết trong Hội Thánh,
theo lời của Đức Phao-lô VI, vị tiền nhiệm của cha trong Tông huấn “Chứng Tá Phúc Âm” (x. CT
6), nhưng Người cũng tỏ hiện trong hiến pháp của các Tu hội các con. Từ đó xuất
phát sự phục tùng trong
đời tu mà, trong tinh thần đức tin, các người tận hiến phải có
đối với các bề trên hợp pháp của họ, là những người thay mặt Thiên Chúa. Trong
thư gửi các tín hữu Do-thái, chúng ta thấy có một chỉ dẫn rất rõ nghĩa về vấn
đề này : “Anh
em hãy vâng phục những người lãnh đạo anh em, hãy biết phục tùng, vì họ canh
giữ linh hồn anh em, như những kẻ phải trả lẽ, để họ được vui mừng thi hành
phận sự, chứ không phải than phiền, vì điều ấy chẳng béo bổ gì cho anh em” (Dt
13,17).
Vả lại, vì nhớ rằng phải lấy
tinh thần phục vụ mà thi hành quyền bính đã được trao phó cho mình qua thừa tác
vụ của Hội Thánh, các bề trên hãy tỏ ra sẵn sàng nghe các anh chị em của mình,
để phân định rành mạch hơn những gì Chúa đợi chờ nơi mỗi người trong họ, cho dù
quyền bính phải quyết định và truyền dạy những điều xét là thích hợp.
Song song với sự phục tùng-vâng
phục được hiểu như thế, còn có thái
độ phục vụ thấm nhuần tất cả cuộc đời các con, theo gương Con
Người, Đấng “đến
không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và thí mạng sống mình làm giá
chuộc thay cho nhiều người” (Mt 20,28). Về phần Mẹ của Người, trong giây phút
quyết liệt của mầu nhiệm truyền tin và nhập thể, được thấu triệt ngay từ đầu
tất cả nhiệm cục chuộc tội của sự cứu chuộc, thì Mẹ đã thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa,
xin hãy thành sự cho tôi theo lời ngài” (Lc 1,38).
Anh chị em thân mến, các con
cũng nên nhớ rằng : đức vâng phục mà các con tự ý ràng buộc khi hiến thân trọn
vẹn cho Thiên Chúa bằng việc tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm là một biểu thị đặc biệt
của sự tự do nội tâm,
cũng giống như sự biểu thị quyết liệt của Đức Ki-tô về sự tự do của Người là sự
vâng phục “cho
đến chết” : “Tôi
thí mạng sống tôi, để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống tôi được ; nhưng
chính tôi tự mình thí mạng sống tôi” (Ga 10,17-18).
Anh chị em thân mến, Hội Thánh
bày tỏ với các con niềm tri ân của Hội Thánh đối với việc tận hiến và việc
tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm của các con, vì đó chính là chứng táđặc biệt của tình yêu. Đồng thời Hội
Thánh nói lại một lần nữa niềm tin tưởng lớn lao mà Hội Thánh đặt nơi các con,
những người đã lựa chọn một bậc sống vốn là hồng ân đặc biệt của Thiên Chúa đối
với Hội Thánh. Hội Thánh mong mỏi sự cộng tác hoàn toàn và quảng đại của các
con ngõ hầu, với tính cách là những người quản lý trung tín một hồng ân rất cao
quý, các con “cảm
nghĩ với Hội Thánh” và luôn luôn cùng với Hội Thánh hành động sao cho thật phù
hợp với những lời dạy bảo của quyền giáo huấn của thánh Phê-rô và các vị chủ
chăn hiệp thông với người, bằng cách nuôi dưỡng, trong lãnh vực cá nhân cũng
như tập thể, một ý thức luôn luôn đổi mới về Hội Thánh. Cùng một lúc, Hội Thánh
cầu nguyện cho các con, ngõ hầu chứng tá về tình yêu của các con không bao giờ
khiếm khuyết và Hội Thánh cũng yêu cầu các con đón nhận sứ điệp này của Năm
Thánh cứu chuộc theo tinh thần ấy.
Chính thánh Tông Đồ đã cầu
nguyện trong thư gửi các tín hữu Phi-líp-phê như thế này : “Điều tôi khấn nguyện là
lòng yêu mến nơi anh em được đầy tràn thêm lên mãi… khiến anh em phân định được
điều phải điều chăng. Như thế anh em sẽ được tinh tuyền và vô phương trách cứ
vào ngày của Đức Ki-tô, dư đầy những hoa quả công chính…” (Pl 1,9.11).
Nhờ vào sự cứu chuộc Đức Ki-tô
đã thực hiện, “tình
yêu Thiên Chúa đã toả lan trong lòng chúng ta nhờ bởi Chúa Thánh Thần đã được
ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Cha không ngừng cầu xin Chúa Thánh Thần để Người ban cho mỗi
người, trong các con, tuỳ theo “ơn
riêng” của từng người (x. 1 Cr 7,7), được làm chứng cho tình yêu ấy theo cách
riêng của mình. Ước chi, nơi các con, “luật
của Thánh Thần ban sự sống trong Đức Ki-tô Giê-su, luật đã giải thoát chúng ta
khỏi… luật của sự chết” (Rm 8,2), luôn dành được phần thắng, theo cách xứng với
ơn gọi của các con. Vì vậy các con hãy sống cuộc đời mới ấy sao cho tương xứng
với sự hiến thánh của
mình và cũng tuỳ theo mức độ của các ân
huệ khác nhau của Thiên Chúa tương xứng với ơn gọi của các
loại gia đình dòng tu. Việc tuyên khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm chỉ cho từng
người trong các con biết làm thế nào để có thể “nhờ Thần Khí, tiêu diệt” (x. Rm 8,13) tất cả
những gì nghịch lại sự sống và phục vụ cho tội lỗi và sự chết, tất cả những gì
đối nghịch với tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và loài người. Thế giới
đang cần đến sự “mâu
thuẫn” đích thực của sự tận hiến tu trì như một chất men lâu bền cho cuộc canh
tân cứu độ. “Anh em
đừng rập theo đời này, nhưng hãy canh tân lương tri mà biến hình
đổi dạng làm sao cho anh em thẩm định được ý Thiên Chúa là gì, điều gì là tốt
lành, thú vị, trọn hảo” (Rm 12,2). Sau thời gian đặc biệt dành cho việc thử
nghiệm và canh tân theo sự tiên liệu của tự sắc Ecclesiae Sanctae, các Tu
hội của các con đã tiếp nhận hoặc sắp sửa tiếp nhận sự phê chuẩn của Hội Thánh
về hiến pháp được tu chính của dòng các con. Ước chi món quà ấy của Hội Thánh
khích lệ các con tìm hiểu, yêu mến và nhất là sống những hiến pháp ấy với lòng
quảng đại và trung tín, nhớ rằng vâng phục là một cách biểu thị minh bạch tình
yêu.
Chính chứng tá này của tình yêu
là điều mà thế giới và nhân loại ngày nay cần đến. Thế giới và nhân loại đang
cần đến chứng tá của ơn
cứu chuộc như đã được ghi khắc trong việc tuyên khấn giữ những
lời khuyên Phúc Âm. Những lời khuyên này, từng lời một, tuỳ theo cách riêng của
nó và tất cả một trật, trong sự liên kết chặt chẽ với nhau, đều “làm chứng” cho ơn cứu
chuộc : ơn cứu chuộc này, nhờ quyền năng của thập giá và sự phục sinh của Đức
Ki-tô, dẫn đưa thế giới và nhân loại, trong Chúa Thánh Thần, đến sự hoàn thành trọn vẹn mà
con người và, nhờ con người, mọi loài thọ tạo tìm gặp được nơi Thiên Chúa và duy chỉ nơi Thiên
Chúa mà thôi. Chứng tá của các con như vậy quả là vô giá. Các
con phải kiên trì vận dụng sao cho việc làm chứng đó được thật trong sáng và
thật hữu hiệu ở giữa loài người. Điều này cũng có thể đạt được nhờ việc trung
thành tuân giữ những quy định của Hội Thánh, liên quan tới dấu hiệu của sự biểu
lộ đời tận hiến và việc thực hành đức khó nghèo (x. GL 669).
Thực khó mà mô tả và liệt kê
muôn vàn phương thế khác nhau mà những người tận hiến sử dụng để thể hiện tình yêu của họ đối với Hội Thánh bằng
việc tông đồ. Việc tông đồ này luôn luôn phát xuất từ đặc sủng của
các vị sáng lập dòng các con, đặc sủng lãnh nhận từ Thiên Chúa và được Hội
Thánh công nhận đã trở thành một đoàn sủng của toàn thể cộng đoàn. Ơn ấy tương
ứng với các nhu cầu khác nhau của Hội Thánh và của thế giới vào mỗi thời kỳ của
lịch sử, và, đến lượt nó, ơn ấy được kéo dài và được củng cố trong đời sống của
các cộng đoàn tu sĩ, như là một trong những yếu tố bền vững của đời sống và
hoạt động tông đồ của Hội Thánh. Nơi từng yếu tố nói trên, trong bất cứ lãnh
vực nào – dù là lãnh
vực chiêm niệm làm phong phú cho việc tông đồ, dù là lãnh vực trực tiếp hoạt
động tông đồ -, Hội Thánh không ngừng sát cánh với các con
bằng sự chúc lành và, đồng thời, bằng sự ân cần mục vụ và mẫu tử để bảo toàn
căn tính thiêng liêng trong đời sống của các con và tính cách đúng đắn trong
hoạt động của các con giữa lòng cộng đoàn phổ quát bao gồm các ơn gọi và các đoàn sủng của
toàn thể Dân Thiên Chúa. Cho dù có nhờ vào mỗi Tu hội riêng biệt, hoặc nhờ vào
tổng thể hữu cơ của các Tu hội ấy, thì nhiệm cục cứu chuộc cũng được làm nổi
bật đặc biệt trong toàn thể sứ mệnh của Hội Thánh : mỗi người trong các con,
hỡi anh chị em thân mến, đều mang nơi mình dấu chỉ sâu đậm của nhiệm cục này,
nhân danh việc tận hiến và tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm.
Do đó, mặc dầu các hoạt động
tông đồ đa dạng của các con có cực kỳ quan trọng mấy đi nữa, thì hoạt động tông
đồ thực sự cơ bản vẫn
luôn luôn là cái mà các con là, căn tính của các con trong Hội
Thánh (*).
Mỗi người trong các con đặc biệt có thể nhắc lại những lời này của thánh Tông
Đồ : “Quả
vậy, anh em đã chết, và sự sống của anh em đã được giấu ẩn với Đức Ki-tô trong
Thiên Chúa” (Cl 3,3). Và đồng thời sự kiện “được giấu ẩn với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa”
cho phép áp dụng vào các con những lời của chính Thầy chí thánh : “Ánh sáng của anh em phải
chói lọi trước mặt thiên hạ, ngõ hầu họ thấy việc lành anh em làm mà ngợi khen
Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Để có thể “chói lọi trước mặt thiên
hạ” bằng ánh sáng ấy, các con phải làm chứng cho đức ái giữa các con với nhau,
làm chứng cho tinh thần huynh đệ nơi mỗi cộng đoàn, như lời Chúa nói : “Chính nơi điều này mà mọi
người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy : đó là anh em yêu mến nhau” (Ga
13,35).
Bản chất cộng đoàn của đời sống
tu trì của các con, được nuôi dưỡng bằng giáo lý Phúc Âm, bằng phụng vụ thánh
và nhất là bằng Thánh Thể, diễn tả một phương thức ưu việt để thực hiện chiều
kích liên vị và xã hội ấy : đầy lòng săn sóc ân cần và chú ý đến nhau, trong
khi người này mang gánh nặng cho người kia, các con chứng tỏ, qua sự hiệp nhất
của các con, rằng Đức Ki-tô sống giữa các con (x. DT 15). Đối với việc tông đồ
của các con trong Hội Thánh, điều quan trọng là các con phải hết sức bén nhạy trước những nhu cầu
và những đau khổ của con người, hiện đang biểu lộ một cách
thật rõ ràng và hiển nhiên trong thế giới ngày nay. Quả vậy, thánh Tông Đồ đã
dạy : “Hãy
mang gánh nặng cho nhau, và như thế anh em sẽ làm trọn luật của Đức Ki-tô” (Gl
6,2) ; Người còn nói thêm : “Yêu
mến là chu toàn cả lề luật” (Rm 13,10b).
Sứ mệnh của các con cần phải
thấy được ! Mối dây nối
kết sứ mệnh ấy với Hội Thánh cần phải thâm sâu, thật thâm sâu (x. GL
675,3). Ước chi nhờ tất cả cái gì các con làm và, nhất là, nhờ tất cả cái gì
các con là, chân lý này, một lần nữa, lại được công bố và được xác quyết
: “Đức Ki-tô
đã yêu mến Hội Thánh và đã phó nộp mình vì Hội Thánh” (Ep 5,25) : chân lý này
vốn ở nơi nền tảng của toàn thể nhiệm cục cứu chuộc. Ước chi từ Đức Ki-tô, Đấng
Cứu Chuộc thế gian, vọt lên nguồn suối vô tận của lòng yêu mến của các con đối
với Hội Thánh !
“Những
cặp mắt tâm trí được ngời sáng” ; đấy là điều mà Hội Thánh liên lỉ cầu xin cho
từng người trong các con, những
kẻ đã đi vào con đường tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm. Và
cũng “những
cặp mắt ngời sáng” ấy, Hội Thánh, cùng với các con, cầu xin cho nhiều Ki-tô
hữu, đặc biệt cho các thanh niên nam nữ, ngõ hầu họ có thể khám phá ra con đường ấy và
không sợ dấn thân vào, để ngay giữa những hoàn cảnh không thuận lợi
của cuộc sống hiện tại, họ vẫn có thể nghe được lời mời “hãy theo tôi” (Lc 5,27)
của Đức Ki-tô. Chính các con cũng phải ra sức góp phần vào đó bằng lời cầu
nguyện và cả bằng sự làm
chứng về tình
yêu, nhờ đó “Thiên
Chúa lưu lại trong ta và tình yêu của Người đã được thành toàn ở nơi ta” (1 Ga
4,12). Ước chi việc làm chứng ấy hiện diện khắp nơi và ai ai cũng nhận thấy
được ! Ước chi con người thời đại chúng ta, cho dầu chán nản về tinh thần, vẫn
gặp được ở nơi đó một sự nâng đỡ và một niềm hy vọng ! Vậy các con hãy phục vụ
những anh chị em mình với một niềm vui phát xuất từ một tấm lòng có Đức Ki-tô
ngự trong đó : “Ước
chi thế giới thời đại chúng ta… có thể nhận được Tin Mừng không phải từ người
rao giảng buồn sầu và chán nản… nhưng từ những tác viên Tin Mừng toả ấm nhiệt
tình, vì trước đó đã nhận lấy niềm vui của Đức Ki-tô vào bản thân mình” (LB, số
80).
Vì quý mến các con, Hội Thánh
không ngừng “quỳ
gối trước mặt Chúa Cha” (x. Ep 3,14) để xin Người làm cho, “con người bên trong được
vững mạnh nơi các con”, cũng như nơi nhiều người khác giữa những anh chị em của
chúng ta đã được rửa tội, cách riêng những người trẻ, ngõ hầu họ tìm gặp được
con đường thánh thiện, trên đó suốt dòng lịch sử, biết bao thế hệ đã rảo bước
cùng với Đức Ki-tô – Đấng Cứu Chuộc thế gian và Phu Quân của linh hồn chúng ta
-, để lại cho nhân thế cả một vầng hào quang của ánh sáng Thiên Chúa trên bối
cảnh tẻ nhạt và u tối của đời người.
Cùng với tất cả các con, là
những người đang tiến bước trên con đường ấy trong giai đoạn hiện tại của lịch
sử Hội Thánh và thế giới, cha gửi đến lời cầu chúc nồng nhiệt này của Năm Thánh
cứu chuộc, ngõ hầu “các
con được đâm rễ sâu và có nền kiên cố trong lòng mến. Như thế các con sẽ có sức
mà hiểu được, cùng hết thảy các thánh, các chiều rộng, dài, cao, sâu, và được
biết lòng mến của Đức Ki-tô siêu vời vượt quá sự hiểu biết, và như thế các con
được sung mãn, để được vào trong tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (Ep
3,17-19).
Người nghèo khó biết bao
trong đêm tối Bê-lem, và Người cũng nghèo khó biết bao trên núi Sọ !
Người vâng phục biết
bao lúc được Truyền Tin, rồi dưới chân thập giá – vâng phục đến nỗi
chấp nhận cái chết của Con mình, Đấng đã vâng phục “cho đến chết” ! Với
một tình yêu trong sạch
biết bao, Người đã hiến thân cho đại nghĩa Nước Trời, suốt đời
dương thế !
Nếu Đức Ma-ri-a là gương mẫu thứ nhất đối
với toàn thể Hội Thánh, thì Người lại càng là gương mẫu đối với các con, những
người và những cộng đoàn tận hiến trong lòng Hội Thánh ! Nhân ngày hôm nay là
ngày nhắc cho chúng ta nhớ lại ngày khai mạc Năm Thánh cứu chuộc đã diễn ra năm
ngoái, cha gửi tới các con sứ điệp này để mời gọi các con khơi lại sự tận hiến tu trì của các con theo
gương mẫu sự tận hiến của Mẹ Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến ! “Thiên Chúa là Đấng trung
tín, Người đã mời gọi các con đến chung phần hợp nhất với Con của Người, Đức
Giê-su Ki-tô” (1 Cr 1,9). Các con hãy kiên trì trong sự trung tín với Đấng luôn
trung tín, và các con hãy cố gắng tìm một trợ lực hoàn toàn đặc biệt nơi Đức Ma-ri-a !
Người đã được Thiên Chúa mời gọi hiệp thông một cách hoàn hảo nhất với Con của
Người. Ước chi Người, Đức Trinh Nữ trung tín cũng là Mẹ của các con trên bước
đường Phúc Âm, giúp các con cảm nghiệm và chứng minh cho thế gian biết sự trung tín vô tận
của chính Thiên Chúa !
Với lời ước nguyện đó cha hết
lòng chúc lành cho các con.
Va-ti-ca-nô,
ngày 25 tháng 3 năm thánh cứu chuộc, 1984,
năm thứ sáu tôi làm giáo hoàng.
Gio-an Phao-lô II
——————–
(*) Theo nghĩa đen, “sở đắc” (avoir, to have) là cái gì
mình có ; còn “nhân cách” (être,
to be) ám chỉ phẩm giá của một người (chú thích của người dịch).
(*) Dịch thoát ý. Trong nguyên bản là : “Hoạt
động tông đồ căn bản vẫn là điều này : các con là gì, các con là ai ở trong Hội
Thánh” (chú thích của người dịch).