DÒNG SÔNG THANH TẨY (1)

(Tâm tình sống Mùa Chay)

 

Mùa chay – Mùa Sám hối. Sám hối trước tiên là trở về với Chúa từ trong sâu thẳm của lòng mình, vì Chúa chính là đại dương của tình yêu, để càng ngụp lặn trong nguồn cội, ta lại càng đón nhận được sức sống tuôn trào. Như vậy, cụ thể của việc sám hối là thanh tẩy tâm hồn mình. Thanh tẩy không chỉ là rửa sạch những bợn nhơ của tâm hồn, nhưng còn chính là “thay đổi lối sống”, đúng hơn là “thay đổi não trạng” (metanoia), để cho tinh thần của chúng ta (nous) được “đảo ngược” (meta) nhờ Thần Khí của Chúa. Những kiểu cách suy nghĩ theo “tinh thần thế gian” ít nhiều đã nằm vùng trong đầu óc chúng ta, nên cần đảo ngược lại theo “tinh thần của Chúa”.

Tội lỗi đã làm đảo lộn mọi sự trong đời sống con người, đảo lộn sự hoà hợp giữa tinh thần, linh hồn và thân xác; đảo lộn bậc thang giá trị sống… Sự đảo ngược của Thần Khí Thiên Chúa là thiết lập lại trật tự ban đầu của việc tạo dựng, làm nên sự hài hòa và thống nhất toàn thể thân-tâm. Khi bản thân còn bị phân rẽ và xáo trộn thì mọi sự đều mờ tối, khiến mọi hành động của ta đều bị biến dạng, biến chất. Khi hợp nhất với chính mình, ta mới có thể tiến đến sự hợp nhất với Chúa, và mọi sự đều sáng lên. Kinh nghiệm ấy chính là dấu chỉ của sự sống đích thực mà ta phải nhận ra trong đời sống đức tin, và phải òa lên vui sướng khi tìm lại được chân tính của đời mình.

Hành vi sám hối trong sự thanh tẩy là nền tảng để xây dựng tòa nhà thiêng liêng, để từ đó làm nên những tầng cao của đời sống thánh thiện. Muốn vậy, ta phải bắt đầu bằng sự thực hiện một cuộc thanh tẩy toàn diện: từ bên trong đến bên ngoài. 

I. THANH TẨY BÊN TRONG

Người ta thích làm sạch đẹp cái bên ngoài, và thường dựa vào đó để yên tâm hoặc tự hào về cái sạch đẹp bên trong tâm hồn. Biết rằng điều đó không trung thực, nhưng nó đã trở thành lối sống của người đời, có khi đã trở thành một thứ văn hóa hay một truyền thống mang tính tôn giáo. Chẳng hạn truyền thống rửa tay trước khi ăn của người Do Thái được coi như một phương dược tôn giáo để thanh tẩy những ô uế bên trong (x. Lc 11, 37- 41). Thế nhưng Đức Giêsu đã vạch trần sự thật:“Bên ngoài chén đĩa thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong thì các ngươi đầy những chuyện cướp bóc gian tà”.

Người Việt ta vốn chuộng hình thức, ham sĩ diện, và trong xã hội hôm nay, nó trở thành một thứ bệnh. Phải chăng vì vậy mà cuộc sống trở nên bát nháo, vàng thau lẫn lộn, tình trạng nội tâm ngày càng hỗn độn, truyền thống đạo đức ngày càng xuống cấp, tạo nên bao điều thị phi điên đảo. So với người xưa, có lẽ chúng ta đã kém xa. Câu chuyện trong Cổ học tinh hoa sau đây cho ta một hình ảnh về việc thanh tẩy nội tâm rất thi vị.

Rửa tai hay rửa lòng?

Theo truyền thuyết của Trung Quốc, Vua Nghiêu nghe tiếng Hứa Do là người tài giỏi nên xin nhường cả thiên hạ. Hứa Do từ chối, lui về ẩn ở núi Trung Nhạc, phía nam sông Dĩnh Thúy.

Sau, vua Nghiêu lại tìm đến, cố mời Hứa Do làm tổng quản cả chín châu. Hứa Do không muốn nghe chuyện nữa, bỏ ra bờ sông Dĩnh Thúy rửa tai. Ngay lúc bấy giờ Sào Phủ đang dắt trâu xuống bờ sông, gặp Hứa Do đang rửa tai, hỏi:

- Vì việc gì mà anh phải rửa tai?

Hứa Do thuật lại câu chuyện, Sào Phủ liền gò cổ trâu lại mà nói:

- Ta toan cho trâu uống nước đây, e rằng lại bẩn cả miệng trâu.

Nói xong, dắt trâu lên quãng sông trên cho trâu uống nước. Sau đó Sào Phủ lên tiếng:

- Anh đã làm gì để đến nỗi vua Nghiêu biết anh là người hiền trong thiên hạ mà mời anh ra làm vua?”

Có cả thiên hạ mà cố nhường cho người khác là chuyện lạ. Người được nhường thiên hạ cho mà không nhận cũng thật lạ. Nghe chuyện nhường thiên hạ mà cho là chuyện bẩn, phải đi rửa tai lại lạ hơn. Không để cho trâu uống phải nước đã rửa tai ấy, sợ bẩn miệng trâu lại càng lạ hơn nữa. Rửa tai là một hành vi biểu tượng của sự thanh tẩy để lòng không vướng bận những cao vọng thường tình. Quả là một tâm hồn trong sáng.

Các cao sĩ đã bàn rằng đây là câu chuyện thâm thúy bậc thượng thừa của người xưa. Cái độc đáo không phải là Hứa Do rửa tai hay Sào Phủ dẫn trâu ngược dòng sông để tránh cho trâu uống phải nước bẩn của danh lợi, mà ở câu hỏi bất thần của Sào Phủ: “Anh đã làm gì...?”. Đến trong sạch như Hứa Do chắc cũng sửng sốt xem lại cái gọi là trong sạch của mình.

1. Thanh tẩy cái “mình là”

Mong muốn trở thành nhân vật tầm cỡ nào đó, hoặc mơ ước làm được điều gì đó thật lớn lao, thường là tâm trạng phát xuất từ sự lẩn tránh cô đơn, lẩn tránh thực tại, mà theo Krishnamurti là lẩn tránh cái đang là. Mong muốn thế chỉ nuôi dưỡng và làm tăng thêm nỗi buồn và sầu khổ vốn có.

Khi mong muốn làm tốt cho đời, có khi chúng ta cũng đồng thời nuôi dưỡng tranh chấp và khổ lụy. Mong muốn nhiều khi đã trở thành tham vọng. Tham vọng được biện minh là để có tiến bộ. Muốn tiến bộ thì phải thành công, phải trở thành nhân vật nào đó. Tại sao ta phải nỗ lực để giành thế thượng phong? Tại sao phải cố gắng hết sức để khẳng định mình, dù trực tiếp hoặc thông qua một ý thức hệ hay quốc gia, hoặc ngay trong phạm vi tôn giáo? Sự tự khẳng định mình như thế không phải là lý do chính cho sự xung đột và hỗn loạn sao? Không phải tham vọng này là do sự thôi thúc lẩn tránh cái đang là sao? 

Tại sao chúng ta lại sợ hãi cái đang là? Chạy trốn thì có ích lợi gì khi mà những gì chúng ta đang là luôn luôn hiện diện ở đó? Chúng ta có thể thành công trong việc chạy trốn, nhưng những gì chúng ta đang là vẫn ở đó, chỉ nuôi dưỡng thêm sự xung đột. Bản thân ta ngày càng trở nên phức tạp và vô phương giải quyết, vì chúng ta không dám đối mặt với cái hiện trạng mà mình đang là

Cái đang là chính là “Chim ri làm tổ trong rừng sâu không cần nhiều hơn một cành; chuột chũi đi uống nước sông không cần đầy hơn một bụng” (Trang Tử). Sự phức tạp sẽ trở nên nghiêm trọng khi chim ri có tham vọng đặt tổ trên nhiều cành và chuột chũi uống nước mãi quên ngừng.

Đối với người lý tưởng hóa thì bình đẳng là một ý niệm; đối với người biết quan sát thì nó là một sự kiện. Có sự bất bình đẳng thế này: anh khôn khéo hơn tôi, anh có nhiều khả năng hơn, anh biết yêu còn tôi thì không; anh biết vẽ, biết sáng tạo, biết suy nghĩ, còn tôi chỉ là kẻ bắt chước; anh giàu có còn tôi nghèo khổ. Sự bất bình đẳng đó đang tồn tại, đó là một sự kiện, dù chúng ta có thích hay không. Càng không thể cào bằng về năng lực, vì mỗi người mỗi khác theo thiên hướng của mình, nhưng đáng buồn là ta biến nó thành sự bất bình đẳng trong thân phận con người.

Chúng ta không xem năng lực như là năng lực, mà dùng năng lực để chiếm quyền lực, địa vị, danh giá, và rồi các thứ ấy trở thành danh phận. Và vì chúng ta quan tâm đến danh phận nhiều hơn năng lực, chúng ta tiếp tục duy trì sự bất bình đẳng. Không chỉ có sự bất bình đẳng ở bên ngoài mà rõ ràng còn có bất bình đẳng ở bên trong. Tất cả điều này là sự thực. Chẳng có pháp chế nào xóa tan được sự bất bình đẳng này. Nhưng nếu ta hiểu rằng, phải có tự do nội tâm để thoát khỏi mọi quan điểm độc đoán, lúc đó bình đẳng sẽ có một ý nghĩa khác hẳn. Chỉ khi ta xóa sạch được sự bất bình đẳng tâm lý mà mình đã tạo ra khi dựa vào danh phận, chức tước, địa vị, khả năng… ta mới có thể tiếp nhận một sức sống mới. Nói cách khác, nếu xóa tan được sự phấn đấu tâm lý để trở thành một ai đó, lúc đó mới có thể có tình yêu.

Làm sao một người đầy tham vọng biết được bình đẳng hay biết được tình yêu? Tất cả chúng ta đều có tham vọng và chúng ta hay nghĩ rằng đó là sự thăng tiến. Từ thuở nhỏ chúng ta được giáo dục để có tham vọng, để thành công, để trở thành ai đó, và như thế trong tâm chúng ta đã ẩn tàng một sự phân chia bất bình đẳng.

Hãy nhìn cách chúng ta đối xử với nhau, cách chúng ta kính trọng người này và khinh miệt người kia. Nếu nhìn vào nội tâm mình chúng ta sẽ thấy rằng, chính cảm thức bất bình đẳng này đã tạo ra nhiều thứ giai cấp, nên cũng tạo ra nhiều thứ tranh chấp ngay trong tư tưởng. Bên trong thâm tâm chúng ta xây dựng sự bất bình đẳng và lệ thuộc vào người khác, nên không còn tự do. Luôn luôn có sự phân hóa giữa người với người, bởi vì mỗi chúng ta đều muốn thành công, muốn trở thành ai đó.

Chỉ khi nào chúng ta làm cuộc thanh tẩy nội tâm, chúng ta mới thấy mình chẳng là gì cả, và trong tự do, chúng ta mới không lợi dụng sự bất bình đẳng để thăng tiến cá nhân. Nhờ đó, sự hiện hiện của ta lúc nào cũng có thể mang lại bình yên và an lành.

Chính Chúa Giêsu đã đặt nền tảng cho sự bình đẳng này khi Ngài tuyên bố: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là thầy, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô.” (Mt 23, 8-11).

Khi tâm bình đẳng giữa mọi người và mọi việc, ta cảm thấy bình an và thanh thản biết bao. Vì không còn đối chọi và tranh chấp trong chính mình, không còn hố sâu ngăn cách giữa người với người, nên không còn phải lo toan, phòng thủ, hơn thua, được mất… chỉ còn lại niềm vui rất thanh tịnh cho tâm hồn.

Lm. Thái Nguyên

 

 


Tu Đức