MẦU NHIỆM PHỤC SINH TRONG ĐỜI SỐNG
(Ga 20, 1-9)
Chúng ta hân hoan
mừng ngày Đức Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên
thập tự và mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm
tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời
rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng»
(1Cr 15,14); «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật
hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những
người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào
Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết
mọi người» (1Cr 15,17-19).
Niềm tin vào Chúa
Phục Sinh là cả một chặng đường dài trong cuộc sống. Nói đến TIN là nói đến
YÊU, hay trái lại cũng thế. Đó là cặp sóng đôi trong đời sống Kitô hữu.
Tình
yêu mến, tương ứng nhưng lại khác biệt
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Mađalena nhưng cũng cần có sự
nhạy cảm để tin như Gioan. Nhờ lòng mến thiết tha mà Mađalena khám phá ra mồ
trống trước tiên. Nhưng rất tiếc khi chỉ dừng lại ở mức độ tình cảm trong cơn
hốt hoảng, Chị đã không có khả năng nhận ra ý nghĩa của các dấu chỉ, và trở nên
buồn rầu, lo lắng, khóc lóc. Có thể chúng ta cũng sẽ như vậy khi đứng trước
những lầm than, mất mát và đổ vỡ trong đời, chỉ còn lại nuối tiếc và đau thương
của một tình cảm đã chôn vùi. Đời chúng ta lắm khi giống như ngôi mộ trống
trải. Những gì chúng ta yêu quí nay chẳng còn. Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều
đã mất trong nước mắt và đau khổ như Mađalena. Nhưng nếu xác Chúa Giêsu cứ nằm
yên trong mồ để cho Chị thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa Phục Sinh. Chị ta
sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ, nhưng chỉ gặp chính Đấng Phục Sinh
ở ngoài ngôi mộ (Ga 20, 11-17), ở ngoài sự đau xót cho một quá khứ đã qua, ở
ngoài sự bám níu vào một cách thế, một hình thức cố định nào đó. Mọi sự ràng buộc bên ngoài đều làm mất đi tự do chân chính trong tinh
thần, mất đi ánh sáng của niềm tin và hy vọng vươn lên của một sự sống luôn mời
gọi triển nở.
Gioan, người môn đệ Chúa yêu, cũng rất yêu Thầy, nhưng tình
cảm của ông được đức tin hướng dẫn. Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các
biến cố, cũng giống như Gioan, ông khám phá ra ý nghĩa của cái chết bi đát trên
đồi Canvê như một dấu chỉ của sự sống mới (Ga 12, 24); ông khám phá ra ý nghĩa
của ngôi mộ trống và các tấm khăn đã được xếp gọn gàng như dấu chỉ của một trật
tự mới (Mt 9, 17). Dấu chỉ chẳng làm cho tin nhưng giúp người ta bắt đầu tin.
Vì thế, khởi
đi từ các dấu chỉ hữu hình, đức tin vẫn là sự gắn bó vào cái vô hình. Khi quan sát kỹ những dấu vết để lại,
Gioan nhận ra cách thức hành động của Chúa Giêsu trước đây và nhất là ông hiểu
được Kinh Thánh, đồng thời nhớ lại những lần tiên báo phục sinh của Thầy.
Chúng ta cần ra khỏi tình cảm bi lụy của mình, ra khỏi tâm trạng buồn
thương do tác động của hoàn cảnh bên ngoài, phải vượt trên cái thấy cách vật
chất để thấy trong đức tin nhờ cái nhìn trầm tĩnh và sâu lắng hơn trước những
gì xảy ra. Sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục Sinh
luôn bao trùm mọi ngõ ngách của cuộc đời chúng ta, đừng đòi buộc Ngài
phải hiện diện trở lại theo phương cách cũ của một thân xác hay chết, đừng bắt
buộc Ngài phải hành động theo một khuôn khổ cố định và hạn hẹp theo lối nhìn
của chúng ta. Cần phải mở lòng để đón nhận ơn cao cả này : “Phúc thay những người không thấy mà tin”(Ga
20, 24-29) : tin vào sự hiện diện và cách hành động rất mới mẻ và rất tuyệt vời
trong mọi biến cố của cuộc đời chúng ta. Đức tin đó đem lại bình an và hạnh
phúc biết bao.
Hành vi đức tin chính là việc Thần Khí hoạt động trong tâm
hồn một con người để làm cho kẻ ấy vừa nhận ra một thực tại chất chứa mạc khải
vừa nhận ra ý nghĩa của Lời quy hướng về thực tại đó. Nguồn gốc của mạc khải
duy nhất lưỡng diện này (thực tại và Lời) là Thánh Thần. Chính Ngài cho tín hữu
niềm xác tín rằng mình có lý để tin (Ga 16, 7-11). Đức tin khởi đi từ các sự
kiện lịch sử mà nhiều nhân chứng đã “thấy”, nhưng sự chắc chắn dứt khoát của
chúng ta rốt cuộc chỉ dựa vào chứng từ của Thần Khí trong chính tâm hồn mình mà
thôi. Như vậy, đức tin là sự phối
hợp nhịp nhàng của con tim và lý trí, dựa trên hoạt động của Chúa Thánh Thần
trước dấu chỉ hữu hình để đạt tới một thực tại vô hình.
Con
tim và lý trí
Dĩ
nhiên, trong đời sống đức tin, ngoài việc hoạt động nền tảng của Chúa Thánh
Thần trong tâm hồn mỗi người, thì trước tiên là con tim chứ không phải lý trí.
Chính vì thế mà ta thấy Gioan luôn được đặt trổi vượt hơn Phêrô về lòng mến,
trong bửa tiệc ly (Ga 13, 24), trong nhà thượng tế (Ga 18, 12-16), và rồi ông
bỏ xa Phêrô trong khi chạy tới mồ (Ga 20, 3-4). Điều đó cho thấy rằng, dù trách
nhiệm của mỗi người ra sao chăng nữa, thì tình yêu vẫn là cái dẫn tới niềm tin
vào Chúa Giêsu hằng sống. Sau này chính Chúa Giêsu Phục sinh cũng đã mời gọi
lòng yêu mến của Phêrô đến 3 lần trước khi giao quyền tối thượng cho ông trên
đoàn chiên (Ga 21, 15-17). Chính tình yêu là động lực giúp khám phá hoặc đi mau
hơn và xa hơn trong mọi diễn biến của cuộc sống. Chính tình yêu làm cho ta thực sự biết được chiều sâu của
các biến cố.
Cái
nhìn đức tin
Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự
thất vọng hay hoảng hốt trước những thất bại, đổ vỡ và mất mát trong cuộc đời.
Là Kitô hữu, chúng ta vẫn có cái nhìn tự nhiên như mọi người, nhưng vẫn phải có
cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất
thanh thản và lạc quan. Có thể ví cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các
sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tin hồng ngoại, nên có thể nhìn thấy
những điều mà mắt thường không nhìn thấy được.
Bằng cái nhìn đức tin,
Thánh Phaolô khi đối diện với tình trạng nguy biến có thể kết thúc cuộc đời
mình, Ngài đã suy nghĩ rằng sống hay chết đều tốt cả : “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”(Pl 1, 21).
Thánh Têrêsa cũng thế, sau khi nhìn những sự việc xảy đến trong đời mình bằng
cặp mắt đức tin, đã kết luận rằng “Tất cả
đều là hồng ân”. Tình yêu mến Chúa dạy cho người ta có
cái nhìn đức tin. Dù bất cứ người tín hữu nào miễn có một lòng mến sâu xa vẫn có thể mau
mắn nhận ra sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh trong những biến cố của cuộc
đời mình.
Đức Giêsu phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất
cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu
tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt
đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất
lên tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này : Halleluia !+
Lạy Chúa, điều mà con khao khát và cầu xin hằng ngày là
được yêu mến Chúa trên tất cả. Nhưng tình yêu mến đó mời gọi con phải có cái nhìn
đức tin trong mọi sự, nhất là thấy được Chúa Phục sinh đang hiện trong mọi biến
cố và trong từng anh chị em của con. Cái nhìn này đòi con phải xóa sạch những
quá khứ ngổng ngang của con và của mọi người, để nhìn thấy đó như những chặng
đường phải đi qua để thành hình một con người mới. Con không thể cứ ôm lấy cái
xác đã chết để kêu gào, than van và nuối tiếc. Con không thể cứ trói buộc mình
vào những tư tưởng, những hình ảnh, những con người của một thời đã qua để phê
phán, than van và trách móc hoặc để dựa dẫm, khen ngợi và ca tụng. Nếu cứ như
thế thì con vẫn chết trong quá khứ, đang khi Chúa đã Phục sinh trong hiện tại.
Thật ra, tất cả đã được chôn vùi rồi, và giờ đây trước mắt là ngôi mộ trống.
Ngôi mộ trống chẳng còn lại gì của quá khứ, nhưng có một vài dấu chỉ rất tinh
tế đủ để cho con đọc ra sự hiện diện Phục sinh của Chúa và giải mã những điều
huyền nhiệm trong cuộc đời mà Chúa đã làm nên cho con và cho mọi người. Như
Gioan đã thấy và đã tin, thì xin cho con được bừng sáng lên niềm tin yêu hy vọng
để thấy Chúa đang hình thành và làm nên những điều mới lạ trong con và trong
mọi anh chị em; cho cõi lòng con rộng mở để thấy được nét mặt Chúa trên khuôn
mặt kẻ khác. Đó chính là niềm vui và hạnh phúc của con trong đời sống hằng
ngày, để con luôn phấn khởi ra đi cho một niềm tin, để được sống bên Chúa bây
giờ và mãi mãi. Amen.
Lm. Thái Nguyên.