THẬP GIÁ CHÚA GIÊSU TRƯỚC CÁI NHÌN CỦA CON NGƯỜI
Chủ thuyết nhân bản
Ngày
nay con người rất sợ khi phải đề cập đến thập giá, vì thập giá tiêu biểu cho
những đau thương khốn khổ mà ai cũng hết sức tránh né. Ai cũng khao khát an
bình, hạnh phúc và tình yêu thương, nhưng không muốn có thập giá chen lẫn vào.
Một tôn giáo không thập giá, đó cũng là bản chất của chủ thuyết nhân bản thế
tục. Họ coi đức tin, ơn thánh và trật tự siêu nhiên là những cái vô bổ, trên
thực tế chẳng có gì là quan trọng. Họ còn cho rằng ngay trên bình diện tự
nhiên, con người có thể xây dựng một nền luân lý hoàn hảo mà không cần đến tôn
giáo. Người ta có thể trở thành một Đấng Kitô mà không cần đến thập giá. Điều
này làm ta nhớ đến nền nhân học của Mạnh Tử với chủ trương : “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Những đức
tính : Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín cũng là bản tính tự nhiên của con người, tiềm
tàng từ trước nơi lòng người. Từ khởi điểm, gọi là “đoan”. Từ đầu mối tốt lành
đó, Mạnh Tử cho thấy ai cũng có thể trở thành thánh nhân, quân tử, nếu biết
phát huy khởi đoan tính Thiện của mình.
Tuân Tử thì chủ trương ngược lại
: “Nhân chi sơ tính bản ác”, vì con
người thường hành động theo theo dục vọng và bản năng mù quáng, “vị kỷ” chứ không “vị tha” như Mạnh Tử tin tưởng. Tuân Tử còn cho thấy chất của tính là tình; phản ứng hay biểu hiện của tình là dục. Lập trường này lại đụng độ với chủ trương của Cáo
Tử, và Mặc Tử. Cáo Tử cho rằng tính tự nhiên của người ta giống như nước, tùy
địa thế, hoàn cảnh, mà chảy khắp ngã. Bản chất con người vốn trung tín, không
thiện không ác. Mặc Tử cũng nói tính người y như nước, nhưng nó chỉ chảy xuống
thấp, nghĩa là chỉ trở về một gốc thiện mà thôi. Nói chung, dù “Trời
sinh” như thế nào đi nữa, thì đều có thể cải tạo con người bằng chế độ xã hội,
bằng kỷ cương nhân tạo, bởi vì Đạo là đường của con người, chứ chẳng phải của
Trời Đất nào khác.
Một nhân bản thuyết khá hấp dẫn,
cho thấy con người có thể tự cường, tự lực, tự cứu độ mình không cần tới một
Đấng cao siêu nào khác. Đức Thích-Ca cũng đưa ra phương cách để thực hiện như
thế. Nhưng rồi có chủ trương gì đi nữa thì tình trạng khốn khổ tệ rạc của nhân
loại vẫn tiếp tục qua hàng ngàn năm nay, cho thấy không phải như vậy. Nhân loại
không thể vắng bóng Thiên Chúa. Khi vắng bóng Thiên Chúa thì con người không
còn là con người. Nó trở thành “nửa người,
nửa ngợm, nửa đười ươi”. Khi coi Thiên Chúa chỉ là một con người thành
toàn, thì con người trở thành một Thiên Chúa biến thái. Cũng vậy, khi nhân loại
hóa Thiên Chúa là phi nhân hóa con người. Khi chối bỏ cái siêu nhiên nơi con
người thì tính tự nhiên của con người cũng bị hủy hoại.
“Những kẻ qua đường”
Điển
hình cho những người theo chủ thuyết nhân bản ngày nay là “những kẻ qua đường” mà ngày xưa Kinh Thánh đã nói tới. Đối diện
với thập giá Chúa Giêsu, họ đã lên tiếng : “Nếu
ngươi thật là con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá thử coi” (Mt 27-40). Đối
với họ, thập giá là điều ô nhục, là sự dữ, là điều mà con người không thể chấp
nhận và là điều mà Thiên Chúa quyền năng càng không thể dung túng. Dưới ánh mắt
phàm nhân, thập giá không thể là một phương tiện cứu chữa và phục hồi nhân phẩm
của con người, mà trái lại chỉ là dấu chỉ của sự oan khiên, phi nhân bản. Khi buông
lời thách thức, họ cho thấy nếu thật sự Chúa Giêsu là con Thiên Chúa thì phải
tách rời khỏi thập giá, tách rời khỏi sự hy sinh thấp kém để chứng minh một thế
giá cao cả và quyền năng siêu vượt.
Đau đớn thay, một phương thế
tuyệt hảo mà Thiên Chúa đã chọn để biểu lộ tình yêu sâu thẳm của Ngài đối với
con người thì lại trở nên cớ vấp phạm cho chính con người. Một mầu nhiệm cứu độ
cao cả vượt sức tưởng tượng của con người thì nay lại trở thành trò cười của
họ. Tiếc thay những kẻ qua đường không thấy rõ điều họ đang thấy, không hiểu
biết điều họ đang biết, nên trở những kẻ bàng quan ngạo mạn. Trớ trêu thay, khi
buông lời sỉ nhục một người đau khổ với thái độ cao ngạo đó, những người chủ
trương đời sống nhân bản lại trở nên phi nhân bản nhất. Lời lẽ họ thốt ra lại là điều tố cáo chính
con người họ, là sự phơi trần con người thô thiển, trơ trọi rất đáng thương của
mình qua con người Chúa Giêsu trên thập giá. Chính vì tội lỗi điên rồ của họ mà
cần có một tình yêu điên rồ của Chúa Giêsu trên thập giá với tiếng thì thầm tha
thiết : “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì
chúng không biết việc chúng làm”.
Thập giá : trung tâm của
cuộc sáng tạo
Ai cũng nói rằng
Đạo phải là tình thương, nhưng người ta vẫn muốn thứ tình thương không thập
giá. Còn Chúa, Ngài cho thấy điều đó không thể có được, vì tình thương có thể
nào tha thứ được khi không thỏa mãn được sự công bình ? Tình thương có nghĩa là
cứ để người tội lỗi tiếp tục phạm tội, hay có nghĩa là giải thoát người tội lỗi
cho khỏi tội ? Loại trừ thập giá khỏi tình thương là biến tình thương thành hận
thù. Trần gian không thập giá là trần gian đã tự biến thành thập giá. Chúa Giêsu
đã ngã gục trên thập giá vì Ngài không muốn thôi yêu. Ngài chết vì xung đột với
hận thù, và Ngài chịu đóng đinh vì đối nghịch với tội lỗi. Tình yêu không quyền
lực tất bị tội lỗi vượt thắng, còn tình yêu có quyền lực thì thà chết chứ không
chịu từ bỏ nghĩa khí.
Thiên Chúa phải đau khổ bằng sự đau khổ của loài người, vì tình yêu đâu
có còn là tình yêu khi không còn giá trị cho người mình yêu. Vì thế thập
giá là vĩnh cửu, không ai có quyền và có khả năng dứt bỏ. Thập giá ở trung tâm
của công cuộc sáng tạo và cứu chuộc. Thập giá đó là gốc rễ những thập giá nhỏ
bé của chúng ta. Vì chúng ta nên đã có thập giá, và vì thập giá nên lại có
chúng ta. Thập giá đưa Thiên Chúa đến cho chúng ta, và đưa chúng ta đến với
Thiên Chúa. Người ta muốn Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, bởi vì thập giá như
cái gai châm chích vào cơ chế an toàn do con người dựng nên, muốn bắt người ta
phải ra khỏi sự bình an đã được thiết lập: một thứ bình an không có thập
giá. Hơn nữa, thập giá còn như một dấu
chỉ buộc người ta phải ý thức về tội lỗi của mình, làm cho tâm hồn con người
day dứt không ngơi.
Một người không thể sống nhân bản mà
thiếu thập giá, vì người đó một
là thiên thần, hai là cầm thú, không thể là người suông được. Nếu người đó từ
loài vật mà đến, thì không thể thoát ly khỏi loài vật; nếu người đó từ Thiên
Chúa mà đến, thì người đó không thể từ bỏ tính cách nhân loại của mình, để trở
thành con Chúa. Đó mới là chủ nghĩa nhân bản đích thực, vì đặt trên nền tảng là
chính Thiên Chúa, và cùng đích của nhân bản cũng chính là Ngài. Nhân bản trước
tiên không phải là vấn đề của con người, mà là của Thiên Chúa, đấng đã dựng nên
con người giống hình ảnh Ngài. Mọi sứt mẻ trong đời sống làm người đều làm sứt
mẻ tình yêu Thiên Chúa, Đấng đau khổ trong chính những đau khổ của con người do
tội lỗi gây ra. Và bằng khổ hình thập giá, Chúa Giêsu muốn đánh đổi và cứu
chuộc lại vẻ đẹp thiện hảo đã bị băng hoại nơi từng con người, đưa họ ra khỏi
sự mê lầm của bình an giả tạo và vực thẳm tối tăm của sự chết. Vì thế, khi “những người qua đường” thách thức Chúa
Giêsu xuống khỏi thập giá, không phải họ thách thức quyền năng Thiên Chúa cho
bằng thách thức chính bản thân mình khi đứng trước vực thẳm. Tội đã làm cho con
người trở nên ngu si, đần độn, u mê trước tình yêu cao cả của Thiên Chúa qua
thập giá. Không có thập giá sẽ chẳng còn tội, cũng chẳng còn Thiên Chúa nào
khác. Càng vươn lên cuộc sống cao thượng người ta càng phải chọn lấy khó khăn
và đau khổ hơn là tiện nghi và dễ dãi. Thế nhưng người ta lại e dè sợ sệt chọn thập
giá như hành động cao cả để biểu lộ tình yêu sâu thẳm, và cũng là một cách chọn
lấy Thiên Chúa vĩnh cửu cho cuộc đời tạm bợ này.
Bản thân tôi trong những người qua đường
Thái độ của “những người qua đường” trước thập giá Chúa Giêsu, cũng mang tính
cách con người của tôi, của chúng ta, trên con đường theo Chúa :
-
đó là thái độ lạnh nhạt,
hờ hững, vô tâm, vô tình trước sự đau khổ của một con người mà ta cho đó là lầm
lỗi của họ, nên họ xứng đáng phải chịu như vậy : một thái độ cố sát.
-
đó là
những lời lẽ khích bác, phê phán, khinh thị, sỉ vả một con người trước một tình
trạng mà ta chưa hiểu hết những hoàn cảnh bi đát và bất công xã hội đã đưa đẩy
cuộc đời họ : một xét đoán hàm hồ.
-
đó là
cái nhìn chủ quan, thiên kiến, xu thời trước một biến cố đau thương, tạo nên
bức màn che chắn mọi diễn biến của sự thật, để rồi chính mình cũng rơi vào sự
tối tăm, mù quáng : một lối ứng xử nông nổi đầy cảm tính.
-
đó là những nhận định,
phán đoán, đánh giá hoàn toàn phàm tục, mang tính triệt hạ trước một nghĩa cử
cao vượt, do lòng ghen ghét, tranh chấp, hận thù mà ra : một tính cách hạ cấp.
-
đó là những suy tư thô
thiển, hời hợt, nông cạn trước một thảm trạng rất tinh tế mà chỉ với kinh
nghiệm từng trải trong đời sống thiêng liêng mới thấu cảm được : một biểu hiện
non nớt, ấu trĩ.
Lạy Chúa, có những điều cao cả ngay
trước mắt mà con không thấy; có những điều tốt đẹp chung quanh mà con không
hay; có những điều thiện hảo hằng ngày mà con không biết; có những biến cố đầy
ý nghĩa sâu xa mà con không hiểu; có một tình yêu đầy sinh động đang tuôn tràn
mà con không cảm thấu. Dường như lúc nào con cũng bị nặng lòng về những toan
tính cho bản thân mình; bị cố định trong những kiểu cách của mình; bị ngập chìm
trong công việc của mình; bị phong tỏa bởi lối suy nghĩ thiển cận và lý lẽ thiên kiến của mình; bị
giam hãm trong các thói quen máy móc và tập tục cổ hủ của mình; bị bế tắc trong
những ham muốn riêng tư và khuynh hướng đam mê của mình, nên mọi cái đều dễ trở
nên phàm tục dưới cái nhìn của con, và rồi ngay cả những khi đối diện với thập
giá Chúa, nguồn ơn cứu độ, con cũng dễ trở thành kẻ vô cảm. Thiếu cảm ứng trước
thập giá Chúa nên con cũng dễ mất cảm ứng trước mọi tương quan, tiếp xúc, mà
Chúa dành cho để phong phú hóa cuộc đời mình. Xin Chúa giải thoát con khỏi
những cái mà con tự ràng buộc mình; thoát khỏi thập giá mà con tự dựng nên cho
mình, để yêu lấy thập giá Chúa muốn trao ban. Xin khơi rộng tâm trí con trước
thập giá Chúa để con có thể đón nhận một luồng sinh khí mới, một sự sống mới từ
thập già Chúa tuôn tràn. Amen.
Lm
Thái Nguyên