NHỮNG ĐIỀU KỲ DIỆU NƠI ĐỨC MARIA (1)
“Tôi không biết”(Lc 1, 34)
Giá
trị của sự bất tri
Bản tính của con người luôn ham biết, ham
tìm tòi. Tâm trí con người có khuynh hướng vươn lên không ngừng về mọi lãnh
vực. Nhưng trong Đạo đức kinh, ở chương 20 Lão tử lại chủ trương “Tuyệt học vô ưu”: ‘dứt hẳn cái học thì
khỏi phải lo lắng’. Hơn nữa, ở chương 38 lại có câu:“Tiền thức giả, Đạo chi hoa, nhi ngu chi thủy”: ‘tri thức chỉ là đồ
trang điểm của Đạo, là khởi thủy của sai lầm’. Ông còn nói tiếp : “Tri giả bất bác, bác giả bất tri”: ‘người
biết không phải là thông, người thông thường lại không biết’. Cho nên cái biết
của thánh nhân nhiều khi khác cái biết của thường nhân: “Biết được cái không biết là cao. Không biết cái biết là bệnh. Biết đó
là bệnh thì không bệnh nữa”. Cái biết không ưa tranh luận ồn ào, vì người
biết không nói, mà người nói thì không biết: “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri”.
Nói thế, Lão tử cố ý đưa ta vào con đường
nội tâm sâu thẳm. Những cái học biết bên ngoài thêm vào cho trí óc không thể là
bản thể của tri thức được. Còn cái hiểu biết đích thực là cái nảy nở do chính
tâm hồn. Vì thế, cần giữ tâm hồn vô tư, vô sự để có thể thấu đạt được mọi lý
lẽ, căn cơ của cuộc đời. Bởi thế, có những người biết rất nhiều, hiểu rất rộng,
uyên bác mọi sách vở nhưng tâm hồn vẫn trống rỗng, trí óc vẫn mông lung, cuộc
sống vẫn gian tà. Điều cần là giữ tâm hồn thanh tịnh, không nên biết những gì
không cần biết, để cho những cảm nghĩ của tâm hồn được tự do triển nở như những
cánh hoa rạng rỡ dưới ánh bình minh.
Hướng
nhìn về Đức Maria
Dựa trên nền tâm học của Lão tử, ta mới
khám phá ra tâm hồn kỳ diệu của Đức Maria. Khi nghe con mình từ trên thập giá
thốt lên hai tiếng “không biết” ["Lạy
Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." ](Lc 23,
34), thì không biết Đức Mẹ có nhớ mình cũng đã thốt ra hai tiếng “không
biết” trong lời nói đầu tiên khi Thiên thần truyền tin không ? ["Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không
biết đến đàn ông" ](Lc 1, 31-34). Lạ thay, hai tiếng “không biết”
gặp nhau giữa Mẹ và Con trong giây phút linh thiêng nhất. Dưới chân thánh giá
Đức Giêsu, Đức mẹ đứng vào hàng ngũ những tội nhân mặc dù Mẹ vô tội, như đang
cầu bầu cho kẻ có tội. Vì Đức Mẹ vô tội nên “không biết”, vì họ “không biết”
nên vô tội. Cho dù sự tương-biệt này rất khác nhau, một cái ở đầu nguồn ân
sủng, một cái ở cuối đoạn thứ tha, nhưng lại gặp nhau ở một chữ “vô” hay một
chữ “không”. Những lời này của Đức Giêsu và Đức Mẹ có vẻ gợi ý rằng: bất tri
đôi khi lại là khôn ngoan.
Ở đây bất tri không phải là không biết, mà là biết
điều mình không biết được coi như là một ân phúc. Điều này có vẻ va
chạm tự ái con người thời nay, nhất là những người suy tôn trí thức, nhưng lại không
nhận định rằng khôn ngoan có thứ thật, thứ giả. Khôn ngoan không phải là biết
hết mọi thứ, nhưng có những thứ không cần biết và không nên biết. Có những cái
biết khiến người ta mất không ngoan. Có những cái khôn mà khôn = dại; có những
cái dại mà dại = khôn. Thánh Phaolô gọi sự không ngoan thế tục là sự ngu dại. Đức
Giêsu cũng tạ ơn Cha vì đã không mạc khải sự khôn ngoan trên trời cho những bậc
hiền triết thế gian (x. Lc 10, 21).
Bất tri ở đây không phải là bất tri chân
lý, mà là bất tri tội phạm. Đó là sự bất tri của những kẻ hành hình Đức Giêsu.
Họ có thể được tha thứ, vì họ không hiểu rõ tội ác ghê ghớm của họ. Chính sự
bất tri đã cứu vãn được họ. Cũng như Thánh Phêrô đã nói trong ngày Hiện xuống: “Tôi đã biết rõ các người đã hành động ngu
xuẩn như bọn tài phán của các người” (CV3, 17). Cũng vậy, chúng ta được ơn
tha thứ là vì không thấy rõ hết hậu quả của nó. Còn các thiên thần đã bị kết án
thì thấu suốt nguyên ủy sự việc, không còn cách nào sửa lại được. Họ bị tuyên
phạt đời đời là vì vậy. Như thế, chúng ta mới biết trách nhiệm về tri thức đáng
sợ chừng nào. Người biết chân lý, bao giờ cũng bị xử đoán nghiêm ngặt hơn người
không biết : “Giả như Thầy không đến và
không nói với họ, họ đã chẳng có tội” (Ga 15, 22).
Chữ “không
biết” của Đức Maria có giá trị vượt bực vì Mẹ đã khấn hiến trinh tiết của
mình cho Chúa. Trong khi người phụ nữ nào cũng mơ ước đặc ân là Mẹ Chúa Cứu Thế
thì Đức Mẹ lại từ bỏ kỳ vọng đó. Thế nhưng đặc ân lại được ban cho Đức Mẹ. Nếu
phải từ bỏ lời khấn hứa để làm thân mẫu của Thiên Chúa, chắc chắn Đức Mẹ không
thể chấp nhận sự từ bỏ đó. Đã khấn hứa rồi, Đức Mẹ coi việc biết đến đàn ông là
điều tội lỗi, mặc dù trong những trường hợp khác chẳng tội lệ gì.
“Không
biết đàn ông” là một hình thức bất tri, nhưng ở đây bất tri trở thành một
ân phúc vĩ đại, đến độ trong khoảnh khắc Chúa Thánh Thần ban xuống cho Đức Mẹ
tràn đầy ơn thánh hiến, trở thành “hòm bia Thiên Chúa ngự”, bình đựng Thánh
Thể.
Hiểu
biết và khôn ngoan của thế gian
Những
người được coi là hạng Minh triết vẫn thường cho rằng, chưa biết đời thì kể như
chưa biết sống, và phải nhờ kinh nghiệm sống mới có tri thức: kinh nghiệm cái
tốt và cả cái xấu. Chính với luận điệu dối trá đó mà Satan đã cám dỗ Ađam-Eva.
Từ ngày xảy ra sự lường gạt lớn lao ở vườn địa đàng, chưa hề có ai đã thành
công trong việc nhờ thử nghiệm điều xấu mà có được tri thức tốt bao giờ. Biết
bao người dở sống dở chết chỉ vì đôi phút tò mò muốn biết, muốn nếm thử, muốn
có kinh nghiệm. Làm sao có thể học được sự sạch sẽ khi sống trong cống rãnh, và
học biết văn hóa trong lối sống thô bỉ.
“Lỗi
lầm lớn nhất của nền giáo dục hiện đại là tin tưởng rằng sự ngu dốt là căn cớ
phát sinh sự xấu xa trên thế giới, cho nên cứ phải dồn thật nhiều sự hiểu biết
vào đầu óc thanh thiếu niên. Nếu đúng như vậy thì phải công nhận rằng dân tộc
nào càng học biết nhiều, càng đạo đức hơn. Thực tế khác hẳn, chưa bao giờ nền
giáo dục được đẩy mạnh như ngày nay, nhưng chưa bao giờ người ta ít biết đến
chân lý như ngày nay” (Fulton J. Sheen).
Ai cũng
muốn cho mình là người hiểu biết, và luôn muốn tỏ ra sự hiểu biết của mình. Sự
hiểu biết thì vô cùng vô tận, cho dù chúng ta có những hiểu biết chuyên biệt về
một điều gì thôi, thì cũng giống như kênh rạch so với biển cả mênh mông trong
chính điều đó. Bởi vậy nhà Hiền triết Socrates đã nói : “Đối với tôi, những điều tôi biết là những điều tôi không biết gì cả”.
Chiều sâu của cuộc sống không phải là hơn thua nhau về số lượng hay chất lượng
của những gì mình biết. Nhiều cái biết bên ngoài chỉ làm cho cuộc sống thêm tản
mạn, và năng lực bị tản mát. Có những
cái biết cần phải xóa mờ đi để những điều không biết được sáng tỏ. Hơn thế
nữa, trong đời sống đức tin, người ta cũng chỉ chọn biết một điều ưu tiên giữa
muôn điều không biết. Thánh Phaolô đã xác quyết “Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô”(1Cr
2,2).
Phải chứng
thực rằng, sự ngu dốt có giá trị hơn sự sai lầm, vì lẫn lộn tri thức với trí
tri (Scientia et sapeientia). Tri thức
không làm cho người ta khôn ngoan nhưng chính sự khôn ngoan mới cho người ta
biết tri thức. Hậu quả của nền giáo dục chỉ biết nhồi nhét sự hiểu biết làm
cho giới trẻ càng nghi ngờ về sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Nền giáo dục chân
chính thì trái lại, giúp họ nhận ra sự hiện diện quyền năng và tình yêu của
Người.
Cũng vậy, giáo dục sinh lý làm cho người ta
lầm tưởng rằng, nếu con trẻ biết được hậu quả tác hại thì chúng sẽ tránh xa
những hành động đó. Nhưng thực ra, sự hiểu biết đó không làm cho người ta khá
hơn, mà còn có nguy cơ làm cho người ta ao ước điều xấu, nhất là khi biết được
rằng, những hậu quả tác hại có thể tránh được. Điều này cho thấy không thể lẫn
lộn giữa sinh lý và luân lý. Sự xấu không phát xuất do việc hiểu biết thiếu
xót, nhưng do sự bất chính về hành động của con người. Cũng vậy, tính hạnh phát
lộ không phải qua sự hiểu biết mà là qua sự lựa chọn. Điều quan trọng để trở thành đạo đức không phải là biết nhiều hơn nhưng
là làm tốt hơn.
Mọi hiểu biết phải được thanh lọc để giúp
cho cuộc sống bớt đi những cản trở và phân tán. Tri thức theo chiều rộng của lý
trí phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự tập trung vào chiều sâu của tâm hồn, để
tâm hồn trở nên tinh ròng hơn, có khả năng nếm hưởng những niềm vui thanh cao
hơn. Không có niềm vui nào sánh kịp với niềm
vui vô tội. Chính niềm vui này mới tạo nên sức mạnh làm cho cuộc sống vươn cao
và tỏa sáng.
Chúng ta không hoàn toàn nằm trong tình
trạng tội lỗi, nhưng chúng ta luôn dễ bị kềm chế bởi ảnh hưởng của tội lỗi: bởi
những hiểu biết lệch lạc; bởi những nghe biết không chính xác; bởi chất chứa những
thành kiến và ác cảm; bởi tình trạng tâm lý bị thất đoạt; bởi lối sống tầm
thường; bởi một não trạng khô cứng; bởi những tư tưởng đã bị nhồi sọ; bởi những
hành động bức xúc theo cảm tính; bởi đã có quá nhiều lạm dụng về sự hiểu
biết...Tất cả những điều đó làm mất đi sự thanh tịnh và niềm vui của tâm hồn,
làm bế tắc sự khôn ngoan chân chính.
Đại
học “không biết” của Đức Maria
“Không biết” không phải là không biết, mà
là phải biết như thế nào? Chính cái biết đó mới làm cho chúng ta hiểu được cái
“không biết”. Hãy nhập vào trường Đại học của Đức Maria, một Đại học chuyên
khoa về sự “không biết”, đặc biệt là
sự không biết đến tội lỗi. Chính sự không biết này mới là đầu mối của mọi sự
khôn ngoan. Điều làm cho tâm hồn được phong phú và cao đẹp không phải là học
cao, biết nhiều, hiểu rộng, mà là biết khôn ngoan, không phải thứ khôn ngoan
xác thịt, nhưng là một sự khôn ngoan đạo đức. Đó là biết nhận ra sự hiện diện
của Chúa trong cuộc đời mình mọi nơi mọi lúc, cũng như đầy lòng kính sợ, yêu
mến và vâng phục thánh ý Chúa trong mọi sự. Thiếu sự khôn ngoan này, mọi sự
hiểu biết khác đều vô nghĩa, và mọi nhân đức khác đều khô cằn héo úa, không thể
triển nở. Sự khôn ngoan đó làm cho mọi hiểu biết có một giá trị sâu xa. Sự khôn
ngoan đó như ánh nắng, sương sa và mưa móc làm đâm chồi nẩy lộc mọi cây nhân
đức khác, làm nên sự thánh thiện rạng ngời, là vẻ đẹp muôn thuở của Thiên Chúa thông
ban cho Đức Mẹ. Bởi vậy, qua thánh Giêrônimô, chúng ta mới tuyên xưng “Mẹ là
Tòa Khôn Ngoan”. Mặc dù Mẹ là người đàn bà quê mùa, không biết đến những văn
minh tiến bộ của nhân loại, nhưng trong Mẹ có sự hiểu biết về sáng tạo, về vũ
trụ và lịch sử. Sự hiểu biết đó thì tuyệt hảo hơn các triết gia cao cả nhất,
hơn những lý luận của những thần học gia lớn lao nhất, và sự biệt phân tiên tri
hơn mọi tiên tri. Sự khôn ngoan của Đức Mẹ phát xuất từ một tâm hồn vô tội, nên
sáng suốt trong mọi lựa chọn và quyết định, luôn phù hợp với đường lối của
Thiên Chúa.
Nếu tất cả nền Đạo học của Lão Tử đều xây
dựng trên chữ VÔ, nhất là VÔ VI : nghĩa là Sống và làm việc theo đường lối tự
nhiên của đạo, là trở về với tính đơn sơ hồn nhiên, sống thành thực với lòng
mình theo cách thể hiện của trời đất, thì ta mới thấy sự khôn ngoan tuyệt hảo
nơi Đức Mẹ, khi Mẹ đặt tất cả vào Thánh ý Chúa. Vô Vi như thế lại mở ra con
đường muôn ngả : vô dục, vô tư, vô tranh, vô danh, vô kỷ, vô cầu. Tất vả chữ VÔ
của Lão tử như là diễn tả sự lành thánh và khôn ngoan của Mẹ, để từ đó Mẹ sinh
ra Đấng Thánh Thiện và Khôn Ngoan.
Như vậy Đại học “không biết” của Đức Maria cũng là Đại học “khôn ngoan” chưa từng có trên thế gian, vì đó là là sự khôn ngoan
của chính Thiên Chúa, là đặc ân quí giá nhất của Thánh Thần, và là dung mạo về
Đức Kitô từ trong Cựu Ước, phản ảnh ánh sáng vĩnh cửu (x. St 7, 26), Lời tạo
thành của Thiên Chúa (Logos) (x. Tv 33, 9; Ga 1, 1).
Lạy
Mẹ Maria, Mẹ đã lựa chọn sự “không biết” để sống cuộc đời mình cho Chúa. Sự
“không biết” đó là không biết tìm kiếm mình; không biết thỏa mãn ý riêng mình;
không biết đến sự khôn ngoan phàm tục; không biết đến danh vọng; không biết đến
tranh giành ảnh hưởng, lợi lộc; không biết quy mọi cái về mình; không biết sống
trỗi vượt; không biết cầu mong cho mình; không biết chỉ sống cho riêng mình; không
biết hưởng lạc thú; không biết chiếm hữu; không biết mơ ước cao sang; không
biết hãnh diện mình là trinh nữ vẹn toàn; không biết tỏ ra sự cao cả của mình
được chọn làm mẹ Đấng Cứu Thế... Có quá nhiều điều Mẹ không biết và không muốn
biết trong cuộc sống nhân loại. Nhưng rồi từ đó, Chúa lại làm cho sự “không
biết” của Mẹ trở thành sự khôn ngoan và thánh thiện của Người. Mẹ chọn lựa sự
“không biết” để rồi được biết mọi sự, được “biết” chính Chúa, là vinh quang
muôn đời của Mẹ.
Xin cho con học nơi Mẹ, biết yêu quí và thưởng
thức những điều “không biết” của Mẹ để tận hiến cuộc đời mình cho Chúa. Xin cho
con học biết và cố gắng nhìn xem con người, những sự vật và các biến cố như
Chúa nhìn trong một tinh thần khôn ngoan đích thật. Amen.
Lm. Thái
Nguyên