TỰ DO
“Anh em đã được kêu gọi để hưởng tự do, vậy chớ dùng tự do mà làm tôi xác
thịt, nhưng hãy lấy lòng yêu mến mà phục vụ nhau.” (Ga 5, 13)
Tự
do! một từ ngữ thật sâu rộng và cũng rất mênh mang, nhưng cũng đầy hấp dẫn và
là nỗi khát vọng của hết mọi người từ khởi thủy. Khái niệm tự do rất phức tạp,
và nó được áp dụng cho những thực tế rất đa dạng, với những tinh nghĩa luôn
luôn mới mẻ. Tự do như một chân trời mở rộng tới vô biên, là một nhận thức hồn
nhiên nhưng cũng thâm sâu diệu vợi trên đời sống tinh thần. Tự do theo ý nghĩa
đích thực mang tính siêu việt, là một cuộc hành trình dài hạn như chính cuộc
đời ta.
1. Ý thức tự do và điều kiện phát
triển
Con
người thời nay, một cách bi tráng và sâu xa, càng nhạy cảm với vấn đề tự do cá
thể và tập thể. Tính cách tự do càng nổi lên sôi động hơn khi cuộc tiến hóa kỹ
thuật và quá trình xã hội hóa cũng như sự cộng thông giữa các dân tộc tiến bộ
càng mở rộng hơn. Tự do thật cao cả, nhưng cũng thật bi đát. Cao cả cho những
ai tìm ra được lộ trình chân chính hầu đạt tới Chân – Thiện – Mỹ, nhưng cũng
thật bi đát cho những ai chỉ sống theo bản năng tự nhiên của mình.
Trong
xã hội hôm nay, đặc biệt là giới trẻ, càng đeo mang ý thức tự do cách mãnh liệt
hơn. Họ có một tâm tình rất cuồng nhiệt về những kích thước của tự do cá nhân. Khi
đối diện với các qui phạm, họ bày tỏ một thái độ phê phán và tự vệ, vì sợ mình
trở thành nạn nhân một hình thức chủ nghĩa vô nhân, hoặc bị khắc chế bởi những
cấu trúc nhân tạo và vong thân của xã hội. Chính vì đó mà khi muốn quyết định
dù việc nhỏ hay lớn, họ bác khước mọi can dự xa lạ. Họ muốn bắt gặp chính mình
trong những lý do quyết định đó, nên thích đối chiếu ý kiến với đường lối của
tập thể mà họ là thành phần, và ngay với những người hữu trách mà họ là kẻ
thuộc quyền.
Tuy
nhiên sở hữu tự do dù ở cấp bậc cá nhân, lịch sử hay xã hội không bao giờ biểu
thị cái gì mang tính dứt khoát. Người ta chỉ đạt đến nó ở mức độ sâu rộng hơn tùy
theo mức độ làm chủ và khắc phục bản thân. Thế nhưng vấn đề tự do lại được đặt
ra một cách sâu xa hơn khi tâm lý học và xã hội học đưa ra ánh sáng nhiều thứ
điều kiện hóa đè nặng trên sự thực thi tự do của cá thể cũng như tập thể. Đặc
biệt là Khoa phân tâm học của Freud cho thấy rằng, mọi hành vi nhân linh tùy
thuộc vào những biến cố của tuổi thơ và hơn nữa, một cấu trúc của vô thức đã
biến đổi tận căn cách ứng xử của một cá nhân, nên không có lựa chọn hay quyết
định nào có tính cách tự do thực sự. Không ai phủ nhận sự chi phối của vô thức
trên ý thức, nhưng ít nhiều tùy trường hợp chứ không thể nói là hoàn toàn. Con
người không phải là một hệ thống máy móc vô hồn cố định, nhưng luôn mở ra cho
sự thành toàn trong quá trình tiến hóa tinh thần.
2. Thế nào là tự do đích thực[1]
Câu
định nghĩa nhanh nhất mà ta thường có cho chữ Tự Do, đó là quyền được làm
điều mình muốn. “Không phải chịu một
cưỡng ép nào, không bị một ràng buộc vào một mệnh lệnh nào, chỉ chấp nhận làm
điều muốn làm trong hiện tại. Đó là cái nhìn đầu tiên làm nên tự do toàn diện”[2]. Tự
do như thế mang tính triệt để, nhưng lại mơ hồ. Thiếu sự xác đáng, tự do sẽ dẫn
đến sự hỗn loạn, hoặc rơi vào sự vô nghĩa, phi lý.
Tự do
là một giá trị, và người ta chỉ tự do khi tìm kiếm những giá trị. Tự do không
phải là điều được làm sẵn trong mọi tình trạng, nhưng chính con người phải làm
nên. Nó là một chinh phục, có khi rất liều lĩnh và dám chịu thất bại, nhưng lại
là một cơ may tiến triển và mở rộng không ngừng. Sự chinh phục đó được thực
hiện trước tiên bằng sự giải phóng chính bản thân mình. Thật vậy, “Tự do con người bao hàm một sự giải phóng:
không chỉ giải phóng khỏi một số mệnh lệnh hay một trật tự áp đặt từ bên ngoài,
nhưng trước hết và chủ yếu là khỏi một định mệnh, một thân phận nô lệ được áp
đặt từ bên trong chúng ta”[3].
Từ ý
nghĩa đó ta mới thấy, tự do không có nghĩa là muốn làm gì thì làm, mà chỉ có
nghĩa là làm những gì xây dựng thêm giá trị cho sự hiện hữu của tôi và những người
chung quanh tôi. Đó mới là tự do có chính nghĩa, có đường hướng vươn cao tỏa
rộng trong sự gặp gỡ và đón nhận.
Vì
thế, con người khép kín trong bản thân sẽ là một bế tắc, không thể tìm được lối
thoát. Thuyết duy ngã (solipsisme) chỉ tìm thấy một thú tiêu khiển tạm bợ, dẫn
tới vô nghĩa chứ không dẫn đến vô biên. Sự giải phóng chỉ có thể xảy ra trong
sự gặp gỡ với tha nhân trong nhân phẩm của họ. Trong sự gặp gỡ này, ta nhận ra
một giá trị vô biên, cũng chính là giá trị ta cảm thấy nơi mình. Khao khát tự
do là khao khát một giá trị vô biên. Điều đó mời gọi ta nhận ra cái hiện diện
vô biên đang ở trong mỗi con người. Cha Zundel cho thấy rõ hơn:“Tôi đã không thể được tự do ở trong tôi,
bởi tôi không được tự do bởi bản thân, khi tôi chưa gặp gỡ được với Đấng đã
sinh tôi ra cho bản thân tôi”. Chính nhờ sự gặp gỡ này, mà người ta cho
mình có quyền thực hiện điều mình muốn, vì đã giải phóng khỏi bản thân bằng
việc mở ra cho tha nhân.
Được tự do khỏi bản thân, ta trở nên tự do
khỏi mọi sự, vì trong sự gặp gỡ với Đấng Hiện Diện nơi mọi sự, vũ trụ trở nên
nội tại. “Vạn vật giai bị ư ngã” là
như thế. “Người ta mang lấy vũ trụ trong
mình khi người ta không còn một ràng buộc nào với cuộc hiện sinh ngoài ân ban
đang tràn ngập trong nó”[4].
Việc giải phóng này là một kiện toàn cho sự từ bỏ sở hữu (désappropriation).
Những gì là của riêng mình, những gì ta bám víu vào, những gì quyết định cho
chúng ta từ bên ngoài hay từ bên trong, đều được lôi cuốn đi trong một sức bật
làm nổ tung những giới hạn khiến chúng biến thành ân ban, nhờ gặp gỡ với Đấng
Hiện Diện nơi sự hiện diện của tha nhân. Đó là sự chuyển vị của cái tôi chiếm hữu thành cái tôi dâng hiến.
Khi
tự do đã nắm bắt được chiều cao đó, nó không còn đơn giản là một gia sản của
bản thân do việc tự khẳng định mình, nhưng là lý do để hiện hữu, vì mọi bản thể
mà không ở trong trạng thái mở và nhận thì bị coi như đã chết. Từ đó ta mới
hiểu tự do là cái lý tối thượng để hiện hữu, một sự hiện hữu “cùng”, “cho”,
“vì”. Tự do như thế giúp con người bước qua từ cái tôi tiền chế sang cái tôi
cội nguồn: cội nguồn của những hành động của mình, trong sự hòa hợp với Cội
Nguồn của đời mình[5].
Đón
nhận tất cả là dấu hiệu của một tự do rộng mở tới tột đỉnh để có thể thực hiện
những gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời. Hành động tự do là hành động của một người
đã thấm sâu trong tình yêu, như thánh Augustinô đã xác quyết: “Dilige et quod vis fac”: cứ yêu đi rồi
làm điều bạn muốn làm. Đó là một tình yêu trọn hảo dám ban tặng trọn vẹn bản
thân. Ở mức độ này, tự do trở thành luật lệ cho chính mình, và không còn luật
lệ nào khác ngoài luật của tự do: “Anh em hãy nói
năng và hành động như những người sẽ bị xét xử theo luật tự do.” (Gc 2, 12).
3. Tự do và ngôi vị
Cần phân biệt hai khía cạnh tương
hệ: tự do nền tảng và quyền sử dụng đúng đắn tự do ấy.
Tự do
riêng tư của mỗi người là tự do nền tảng. Đó là thứ tự do ở mức độ “hữu thể”
làm cho ngôi vị đích thực là ngôi vị trong tư cách là ngôi vị. Nhưng tự do nền
tảng này chỉ thực hữu khi “chính con người được thúc đẩy và hướng dẫn tự bên
trong, chứ không do bản năng mù quáng hay cưỡng chế hoàn toàn bên ngoài. Con
người sẽ đạt tới phẩm giá ấy một khi tự nhờ giải thoát khỏi mọi kiềm tỏa của
đam mê, con người theo đuổi cùng đích của mình trong sự tự do chọn lấy điều
thiện và khôn khéo cũng như thực sự tạo cho mình những phương tiện thích ứng.” (GS
17).
Tự do
được thể hiện ở cấp độ cao hơn khi người ta dám chọn sự thiện hảo lớn hơn. Hiện
hữu tự do có nghĩa là có thể đặt để toàn bộ cái tự ngã của mình trong một hành
vi cuối cùng là tình yêu toàn bích. Vatican
II đã định nghĩa hiện hữu tự do của con người như sau: “Tự do đích thực là
dấu chỉ cao cả nhất của hình ảnh Thiên Chúa trong con người. Bởi vì Thiên Chúa
đã muốn để con người tự định liệu, hầu con người tự mình đi tìm Đấng Tạo Dựng
và nhờ kết hợp với Ngài con người tiến tới sự hoàn thiện trọn vẹn và hạnh
phúc.” (GS 17).
Như vậy tự bản chất, tự do nền tảng mang
một định hướng siêu việt. Nó như một mầu nhiệm chỉ biểu lộ sáng tỏ, khi chính ngôi
vị tự đặt mình hiện diện trước những hoàn cảnh phi thường. Chẳng hạn sự quyết
định chịu tử đạo vì tình yêu Đức Kitô. Một chọn lựa như thế đã nâng cao ngôi vị
hữu hạn lên tới khung trời vô hạn của Đức Kitô, trở nên thành toàn trong Ngài,
nhờ Ngài, là cùng đích của sự tự do.
Tùy theo tính lịch sử cấu tạo mà ngôi vị
được cụ thể mời gọi điều hướng sự phức tạp theo kinh nghiệm riêng tư của mình,
là cái chỉ qui chiếu nó về sự siêu việt từ chính sự hữu hạn của mình. Cũng vì
sử tính này mà tự do đòi hỏi ngôi vị luôn luôn nhập thể “hic et nunc”: ở đây và bây giờ, nhưng vẫn không quên tính hiện tại
phổ quát và dự phóng về tương lai.
Trong thực tế, tính bất tất (contingence)
của thân phận tạo vật luôn dễ làm ta mơ hồ và lạc bước trong tự do. Trong các
chướng ngại, điều đáng ngại nhất là thế giới hữu thức và vô thức tiếp tục điều
kiện hóa ngôi vị: tính khí và cao vọng dễ làm mờ đục thâm tâm; sức ép của cuộc
sống kinh tế, xã hội, văn hóa và kể cả tôn giáo dễ làm nhạt nhòa trí tuệ; sự lệ
thuộc hoàn cảnh, môi trường, cũng như việc hấp thụ các loại giáo dục và truyền
thông xã hội dễ làm lệch lạc ý chí. Tuy nhiên, dù thân phận tạo vật được đóng
dấu bằng những giới hạn, nhưng cũng đã được đóng ấn bằng “hình ảnh Thiên Chúa” (Stk
1, 26). Chính sự đóng ấn này là tác động không ngơi của Thần Khí Chúa ở bên
trong, luôn thôi thúc ta vượt qua những đóng kín và tự hạn chế của bản thân, để
không ngừng khơi dậy một sức sống mới trong tự do vươn tới Thiên Chúa.
4. Chiêm ngắm Đức Giêsu – Con người
tự do
Sự thành toàn của tự do chính là trở nên
hình ảnh đích thực của Thiên Chúa. Đó là mẫu gương tuyệt vời của Đức Giêsu Kitô
– Con người tự do, Đấng đã sống với tất cả thân phận của một con người: “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên
giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2, 7). Không những Đức Giêsu sống cuộc đời mình cũng
như bao con người, mà còn sống với những điều kiện gay go và hoàn cảnh khó khăn
nhất, nhưng Ngài đã khai mở cho chúng ta một cuộc sống tự do hoàn toàn theo
Thiên ý.
Đức Giêsu là chính sự Tự Do, một sự tự do
trọn vẹn, không những đối với mọi quyền lực (x. Lc 13, 31-33), mà còn đối với
chính Thiên Chúa (x. Ga 17, 24), cũng như tự do đối với gia đình (x. Lc 2, 49),
xã hội (x. Lc 15, 1-2; 11, 37-44), tôn giáo (x. Mt 19, 3), lề luật (x. Mc 2,
27-28) và cũng hoàn toàn tự do đối với chính bản thân Ngài (x. Lc 9, 58). Thiên
Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa của tự do: tự do của tình yêu vô biên. Chính
vì thế, Ngài đã sống hoàn toàn tự do trong mọi quan hệ: tự do vâng phục Thiên
Chúa để tự do thể hiện cuộc đời mình, và tự do tự hiến cho con người.
Chiêm ngắm và sống kết hợp với Đức Giêsu,
ta được dìm mình trong tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa. Từ đó, mỗi giây phút
sống của đời mình có thể tự biến thành một “thời điểm của ân sủng”, mở ngỏ cho
ta dần dần thoát ra những vây vướng chằng chịt của “cuộc hiện sinh”, để thể
hiện “tự do của vinh quang con cái Thiên
Chúa” (x. Rm 8, 21), ngày càng rực rỡ hơn nhờ tác động của Thần Khí Chúa
(x. 2Cor 3, 18). Thật vậy, “Chúa là Thần Khí,
và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do.” (2Cor, 3, 17).
Tự do “khỏi”
Qua Phúc Âm, ta thấy chẳng có gì cản trở
được bước đường tự do của Đức Giêsu. “Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó”
(Cv 10, 38), nhưng Ngài luôn đi qua, luôn ra khỏi những tình cảm, những thành
công, những mến chuộng, những say mê và tán tụng của người đời. Ngài luôn vượt
trên những thành kiến, những phân biệt, những nghi kỵ, những kỳ thị, những tập
tục, những lề thói, và ngay cả những luật lệ tôn giáo và truyền thống dân tộc. Ngài
không dừng lại ở một địa điểm hay căn cứ nào, không bám trụ ở một vị trí hay
vai trò nào, không bám lấy chức tước hay địa vị cao cả mà người ta dành cho
Ngài. Ngài buông rơi tất cả, đi qua tất cả, ra khỏi tất cả, vì Điểm Hẹn cuối
cùng của Ngài là trên “đồi vinh quang” của tự do.
Người tự do là người tự bản chất đã được
Đức Giêsu giải phóng khỏi tội lỗi, sự chết, lề luật, và mọi thế lực của sự dữ
(x. Lc 4, 18-19; Rm 5, 12 -7, 25). Qua người Do Thái, Chúa Giêsu đã lên tiếng
minh định với chúng ta: “Nếu Người Con
có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do” (Ga 8, 36). Tự do như thế đem đến cho ta quyền tự
lập sung mãn. Điều đó được thực hiện không phải do việc phủ nhận những lề luật
hay những định chế bên ngoài, mà vì ngôi vị có khả năng nội giới hóa và phẩm
trật hóa các giá trị ngoại giới, để làm thành một lợi ích thiêng liêng, như một
phương tiện tác thánh (sacralisation). Nhờ đó, trên hành trình tự do, con người
tiếp tục vượt thoát khỏi tự mãn, tự đại, là những cạm bẫy luôn luôn rình rập để
lũng đoạn tự do chân chính mà Đức Giêsu đã mang lại.
Cuộc sống thực tế cho thấy ta bị vướng
vít và dính bén không ít. Nếu không quyết liệt buông bỏ, ta sẽ đành thúc thủ trước
ngưỡng cửa tự do. Bởi vậy, từ bỏ vẫn
luôn là điều kiện tối cần để tự do tiến bước trong sự thiện, cũng là điều kiện
tối ưu để bước theo Chúa Giêsu – Con người tự do (x. Mt 16, 24). Triết gia
Spinoza cũng xác quyết: “Nếu ta quyết tâm
triệt để vứt bỏ ba thứ: của cải, vinh dự và thỏa thích của giác quan làm mê
loạn lòng người, thì cái vứt bỏ đó chắc chắn là sự ác, còn điều mà ta nhận được
chính là sự thiện”[6].
Tự do “để”
Tự do là để sống yêu thương, phục vụ và
hiến thân: “Cũng như Con Người đến không phải để được
người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn
người.” (Mt 20, 28). Chúa Giêsu
đã công khai công bố đường hướng tự do thật tuyệt vời của Ngài, một tự do nội
tâm đích thực, là nền tảng cho mọi hành động của Ngài. Ngài đã minh định cách
mạnh mẽ: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được,
nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.” (Ga 10, 18). Chúa
Giêsu chính là hiện thân của tự do nội tâm đích thực mà Ngài đã đem đến trần
gian cho mọi người.
Thánh Phaolô
đã thể hiện tính cách tự do của Đức Giêsu một cách triệt để: “Tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã
trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người.” (1Cor 9, 19). Tính cách tự do như thế mới làm cho ta
nên giống hình ảnh Thiên Chúa, trở thành con trong Con (x. Ep 1, 3-14), hầu
sống trọn vẹn thánh ý Cha (x. Ga 4, 34).
Tự do là để sống triệt để “trong”: trong ân sủng, trong tình yêu,
trong sự thiện, trong sự thật, v.v... Đức Giêsu luôn thể hiện tự do nội tại và ngoại
tại cách triệt để, nhưng không bao giờ để mình tự do ngoài đường nẻo Thiên Chúa. Mọi mô phỏng của tính cách tự do chân
chính đều phải đặt trên nền tảng Đức Giêsu, vì Ngài là người Con đã trở nên con
người, để con người trở nên người Con như chính Ngài.
Cần nói thêm rằng, tự do trong thân phận
tạo vật của ta trong Đức Kitô không phải một sự chiếm hữu (possession), nhưng
luôn luôn là một hành trình về tự do. Tự do thủ đắc (acquis) luôn bao gồm một
hy vọng một tự do lớn hơn. Vì tính bất toàn trong hữu thể hiện thế đang trở
thành, nên đòi buộc ta một sự vượt quá (dépassement) liên tục, cho đến phút
chót của đời sống, để được chuyển hóa thành toàn trong Đức Kitô. Trong ý hướng
đó, nhà văn Kazantzaki, tác giả cuốn tiểu thuyết “Tự do hay chết”, đã viết: “Con người từ nô lệ mà đến và đi về tự do.
Người ta sinh ra là nô lệ, và chiến đấu suốt đời để thành người tự do”[7]. Đức
Giêsu đã tự nguyện chết trên thập giá để yêu thương cho đến cùng, là chóp đỉnh
của cuộc hành trình đi về tự do. Ngài đã trở thành nguồn sung mãn và đích điểm
của tự do mà chúng ta đang đi về.
4. Tự do và ân sủng[8]
Tự do
của con người vì bị tội lỗi làm tổn thương nên chỉ nhờ ơn Chúa trợ lực mới có
thể thực hiện việc hướng về Thiên Chúa. Khi nói tới ân sủng, các chủ thuyết
nhân bản không Kitô (Karl Marx, Nietzsche, chủ nghĩa tự do, v.v...) thường tỏ
ra đối nghịch, cho đó là một hình thức hạ giá phẩm giá và khả năng con người. Họ
không chấp nhận khi nghe nói đến tâm hồn con người đã bị mang nặng thương tích
do sự ác gây nên, và không còn đủ sức hoàn thành chính mình, nên phải cần tới ân
sủng.
Chính vì có cái nhìn sai lạc về Thiên
Chúa nên người ta cũng quan niệm sai lầm về ân sủng, coi ân sủng như một thực
tại ngoại lai được giáng xuống trên con người. Thật ra, ân sủng không tác dụng
trên con người theo lối “thúc bách” hay “chiếm cứ” từ bên ngoài. Không thể coi
ân sủng như một thuyên chuyển năng lượng có tính cách vật lý trong mối tương
quan giữa Thiên Chúa và con người. Ân sủng là nhân tố nội tại “trung gian” hai
chiều của cả hai bên, mời gọi tiếp nhận nhau để làm nên một sự hiệp thông trong
tình yêu.
Theo thánh Augustinô, ân sủng được phân
biệt làm ba loại[9]: ơn tạo dựng, bao gồm các ân huệ mà
Thiên Chúa đã ban cho bản tính con người, đặc biệt là trí tuệ và ý chí; ơn mạc khải, là ơn qua đó Thiên Chúa đã
thông truyền chân lý và trao ban lề luật cho con người để họ biết phân định
thiện, ác; ơn cứu chuộc, là ơn tái
sinh vào đời sống mới nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô. Từ ơn cứu
chuộc, ân sủng phát xuất ra như một nguồn “trợ lực” mà con người cần đến để
vượt thắng tình trạng bệnh hoạn yếu nhược của mình, hầu sống đúng như trí tuệ
nhận thức. Ân sủng không gì khác hơn là tình thương, một tình thương làm “gia
tăng tiềm lực nội tâm” (incrementum intrinsecus datum)[10].
Do đó, hiệu quả của nó cũng là một cảm nhận và kinh nghiệm về đời sống nội tâm,
làm cho con người nên can đảm và mạnh mẽ để vượt lên chính mình. Sức mạnh ấy
được làm nên do mãnh lực của tình yêu, vì “tình yêu mãnh
liệt như tử thần, cơn đam mê dữ dội như âm phủ. Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy,
một ngọn lửa thần thiêng.” (Dc 8, 6).
Ân sủng không khỏa lấp hay thay thế tự
do, nhưng ân sủng là tình yêu nâng cao tự do, để con người một khi cảm thấy
mình được yêu thì hân hoan phấn khởi trên con đường hoàn thành chính mình.
Trong ý nghĩa đó, thánh Augustinô đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, Thiên Chúa hoạt
động ngay “trong trái tim” con người
bằng cách “tuôn đổ tình yêu” vào
trong đó. Thành quả cuối cùng của ân sủng là biến đổi con người trở thành những
“người yêu mến” (dilectores)[11].
Nếu yêu thương là điều “tự nhiên” đối với
con người, thì ân sủng cũng thế. Không yêu thương mới là điều phản tự nhiên,
thì ân sủng cũng vậy, vì nó đáp ứng nhu cầu nội tâm để tái tạo lại con người
theo đúng bản chất tinh tuyền của họ. Tình trạng bệnh hoạn yếu nhược (infirmitas)
của con người là tình trạng bất lực làm cho họ không còn khả năng để yêu thích
điều thiện hảo. Khả năng yêu thương này đã mất đi vì tội lỗi, thì nay được ban
lại nhờ ân sủng. Ân sủng chữa lành và “khôi phục” lại tình yêu ban đầu, làm cho
con người cảm thấy mình được thu hút bởi sự thiện, và hưởng nếm được niềm vui
sâu xa trên con đường thiện hảo. Thật vậy, ân sủng chính là “tình thương tuôn đổ tràn ngập vào tâm hồn chúng ta.” (Rm 5, 5).
Tất cả ân sủng đều là công trình của Thánh
Linh. Ân sủng trên mọi ân sủng là chính Thánh Linh “đã được trao ban cho chúng ta”
(Rm 5, 5) như món quà nhưng không của Thiên Chúa, và là chính Tình Yêu của
Thiên Chúa Cha ban qua Con của Người, làm cho con người được kiện toàn bản chất
của mình trong tình yêu. Cho dù tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa, thì cũng thực
sự là “của chính bản thân” con người.
Chính ở nơi mình, ở nơi sâu thẳm của bản thể mình, ở trong tận “con tim” của mình, con người sẽ tìm
thấy nguồn mạch và cội gốc của hành động mình, là hành động hòa hợp tuyệt diệu
giữa tự do và ân sủng.
5. Quan hệ giữa tự do - tình yêu - ân
sủng – công chính[12]
Đứng trước ân sủng, con người vẫn hoàn
toàn tự do và chịu trách nhiệm về đối tượng mình chọn lựa: nếu muốn thì tin,
nếu muốn thì yêu, tự do đón nhận và tự do khước từ. Tuy nhiên đối tượng là ân
sủng vẫn ảnh hưởng trên chủ thể, do sức lôi kéo, quyến rũ, thuyết phục của nó
bằng tình yêu, làm cho con người muốn ôm chầm lấy.
Dù không phải là tự do tuyệt đối, mà chỉ
là tự do có điều kiện, thì con người vẫn thực sự tự do trong những hoàn cảnh
sống của mình. Mọi sự đều tùy thuộc quyết định để chọn lấy hay loại bỏ cái gì
phù hợp hoặc không phù hợp với kế hoạch sống mà con người đã tự đặt định cho
mình. Nhưng ngay cả khi như vậy, thì con người cũng không thể không muốn để cho
mình được lôi cuốn bởi sức quyến rũ của tình yêu, vì cảm thấy nó phù hợp với những
khát vọng, và đáp ứng lại “tự do cho” (libertà per) của mình đạt đến mức thành
tựu sung mãn.
Tác động của ân sủng là như thế, nó là một sự mời gọi mãnh liệt trong tình yêu để con người tự do đón nhận và ưng chọn, bởi lẽ con
người đã được dựng nên để yêu thương. Trong yêu thương, ân sủng làm cho con
người thêm khát khao sự thiện, là chính hạnh phúc của đời mình. Sự thiện phát
xuất từ Thiên Chúa và chỉ qui hướng về một mình Ngài, vì sự thiện là chính bản
chất của Thiên Chúa. Cũng chính vì để hưởng sự thiện ấy mà con người đã được
dựng nên. Con người được ban cho tự do là để sống trọn vẹn cuộc đời mình trong
sự thiện. Chỉ có tự do trong điều thiện, không có tự do trong điều ác. Tự do là
sống và hành động theo ý muốn của Thiên Chúa, là chính sự thiện. Đó chính là
định hướng và mục đích của tự do nhằm tới. Nếu không như thế, tự do hóa thành
hư vô.
Nhờ ân sủng gầy dựng và làm tăng triển
khả năng yêu thương, nên tự do của con người càng có điều kiện thuận lợi để đạt
tới tình trạng công chính. Không phải nhờ “làm việc lành” mà con người trở nên
công chính, nhưng nhờ được công chính hóa bởi đức công chính của Thiên Chúa là
Tình Yêu, nên “việc lành” là hành động đương nhiên của người công chính được
thực hiện trong tình yêu. Nền tảng của công chính là tình yêu. Ai sống trong
tình yêu, kẻ đó là người công chính. Chỉ trong sự công chính, người ta mới biết
thể hiện và phát huy tự do thế nào để cộng tác với ân sủng, hầu làm nên những
công trình của Thiên Chúa nơi chính mình và tha nhân.
Tuy nhiên công chính là một tiến trình xuyên suốt cuộc đời con người. Trong
tiến trình này, tự do càng ngày càng
được nâng cao trong tình yêu và ân sủng, vì Thiên Chúa luôn kề cận với
con người. Không có gì xảy ra ngoài ý muốn của Thiên Chúa, cũng như không có gì
xảy ra ngoài ý muốn của con người. Nhưng cả hai ý muốn dần dần hòa hợp với nhau
trong sự hiệp nhất của tình yêu. Để cuối cùng, chính tình yêu làm nên tự do hoàn
toàn với sự trợ lực của ân sủng, để
con người đạt tới sự công chính viên
mãn của Thiên Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu, là tự do của đời con. Chúa là chính tự do mà con say mê và khao
khát khôn nguôi. Niềm vui của con hằng ngày là được tự do chọn Chúa trong mọi
sự.
Tuy
nhiên, mang tính mỏng dòn yếu đuối, con vẫn bị khắc chế và khắc khoải khi phải
đối diện với những tình cảnh thật phức tạp.
Có
nhiều điều ước muốn, nhưng con đành buông lơi; có những điều con không muốn,
nhưng lại không can đảm xa rời.
Con
đường tự do cũng là con đường từ bỏ không ngừng, đòi con phải chiến đấu rất can
trường và chấp nhận đau thương, để gột rửa và tinh lọc chính mình.
Tự
do mời gọi con chết đi cho mỗi biến cố. Mỗi biến cố chết đi là nhịp điệu của tự
do và ân sủng.
Xin
cho con được luôn ở lại trong Chúa, để con luôn tiến bước bằng một tinh thần tự
do đích thực.
Có
gì vui bằng được tự do trong Chúa để sống cho mọi người, và để cho mọi người
được vui vì được sống tự do trong Chúa.
Lạy
Chúa! Ngài là Tự do-Hạnh phúc của cuộc đời chúng con. Amen.
Lm. Thái Nguyên
[1] Marc Donzé, Les pensée théologique
de Maurice Zundel, Pauvreté et Libération, 1980.
[2] Maurice Zundel, Quel homme et
quel Dieu, 1976, tr. 30.
[3] Maurice Zundel, Je est un Autre,
1971, tr. 66.
[4] Maurice Zundel, Croyez-vous en l’homme, 1956, tr. 146.
[5] Maurice Zundel, L’homme passe
l’homme, 1948, tr. 180.
[6] Trịnh Hiểu Giang – Nguyễn An, Những
hiểu biết về cuộc đời, NXB Hà Nội, tr. 152.
[7] Kazantzaki, La Liberté ou la Mort,
tr. 643.
[8] Domenico Marafioti, La grazia:
rapporto tra Dio e l’uomo nell’amore, đăng trong tạp chí La Civiltà
Cattolica, tháng 8, 1991, số 3387-3388, tr. 243-255.
[9] A. Trapè, S. Agostino: natura e
grazia, Città Nuova, Roma 1981, tr. 31
[10] Augustinus,
De spiritu et littera 25, 42 [CSEL
60, 192.18]
[11] Augustinus,
De spiritu et littera 17, 29 [183.7],
và 25, 42 [169.9]
[12] Domenico Marafioti, La grazia:
rapporto tra Dio e l’uomo nell’amore, đã trích.