TỰ NHIÊN VỚI SIÊU NHIÊN
TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
“Con
người sống theo tính
tự nhiên
thì
không đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa”
(1Cr 2,14)
Có những kẻ ham hố sự đời thì sống như
thể con người chỉ là thân xác. Trái lại, người mong làm thánh thì chỉ chú tâm về
mặt tinh thần. Hóa ra sự sống duy nhất bị phân chia làm hai mảnh, gây phân rẽ
trong chính tâm trạng của con người. Vấn đề nhị nguyên không chỉ phát xuất ở
phương Tây với Platon, mà ở phương Đông cũng có Zarathoustra, Upanisad và cả Phật
giáo, đã ảnh hưởng không ít trên toàn bộ đời sống làm người cũng như trên đời sống
Kitô hữu.
1. Những quan
niệm về cơ cấu con người
Theo Platon, con người đích thực chính
là linh hồn thiêng liêng đã có sẵn từ xa xưa trên thiên giới, ở đấy hồn ngất
ngây chiêm ngưỡng những ý tưởng tinh ròng. Nhưng rồi ví một lý do nào đó, hồn
phải chịu giam phạt trong thân xác. Khi tri thức sự vật, hồn chỉ hoài niệm ý tưởng
đã có, nhưng chỉ mù mờ. Do đó, con đường đi lên là con đường giải thoát khỏi vật
chất và giải phóng linh hồn khỏi tù ngục xác thân.
Ấn giáo hay Phật giáo cũng coi kiếp sống
thể xác như những trạm dừng chân của tinh thần trong vòng luân hồi. Cứu cánh của
đời là Diệt đời (nirvâna) hay Giải thoát (moksha). Tham sân si như cạm bẫy do
xác, nên phải vượt khỏi thân xác, là ngục tù của tinh thần.
Tiếp
nối trong thời cận đại, có những triết thuyết độc tôn như:
- Thuyết Duy
Linh: chủ trương con người là tâm linh thuần túy, thân xác chỉ là dáng vẻ bề
ngoài (Schopenhauer).
- Thuyết Duy vật: chủ trương
con người là vật chất thuần túy. Những hành vi suy lý hay tư tưởng chỉ là những
hiện tượng, hoặc được coi như kết quả tình cờ của một hệ thống thần kinh; hoặc
được coi như sản phẩm của “vật chất” tiến hóa theo biện chứng pháp, nhờ có một
bước nhảy vọt từ lượng sang phẩm (Karl Marx).
Ngoài
ra có vài triết gia khác coi linh hồn và thân xác như hai bản thể của con người
(Descartes, Malebranche, Leibniz)
2. Quan niệm
Kitô giáo
Lập
trường của Giáo hội khẳng định bản tính của con người là đơn nhất, vừa tâm
linh, vừa xác thể. Công đồng Vat. II đã minh định: “Con người duy nhất với xác hồn” (GS 14). Rõ ràng là Giáo hội phủ
nhận thuyết Nhị nguyên.
Kinh
Thánh có dùng nhiều từ để chỉ về con người như: Sars (chair, xác thịt): “vì xác thịt anh em yếu đuối” (Rm 6,
19); Psychê (âme, hồn, hơi thở, sự sống): “Hồn tôi khao khát” (Tv 84, 3); Pneuma
(esprit, thần khí, tâm linh): “Thần trí
tôi mừng rỡ” (Lc 1, 14).
Những
từ ngữ trên đều có ý nói con người cụ thể, con người toàn diện, chứ không tách
biệt ra hai phần. Do đó, xác không phải là “nhà tù” của hồn, trái lại đều thuộc
một bản tính con người duy nhất. Hơn nữa, tín điều về việc xác sống lại trong
ngày sau hết sẽ vô nghĩa, nếu chỉ coi xác như một dụng cụ ngoại tại. Còn việc
xác thịt đôi khi được Kinh Thánh coi như một ngăn trở cho đời sống hướng thượng,
thì không có nghĩa là một yếu tố ngoại tại của con người. Thực ra Kinh Thánh có
ý nói rằng: hoặc vì những lo lắng trong cuộc sống hằng ngày mà tâm linh bị chi
phối (Kn 9, 15), hoặc vì con người cụ thể trong lịch sử cứu độ là kẻ tội lỗi có
xu hướng tìm mình mà từ chối tiếng gọi của Thiên Chúa (x. Rm 7, 24; Ga 5, 17).
3. Thần học
suy lý về bản tính con người
Để
lý giải tính đơn nhất nơi con người, theo thánh Thomas d’Aquin, đó là một hữu
thể gồm hai nguyên lý siêu hình: linh hồn thiêng liêng và chất thể đệ nhất. Linh
hồn thiêng liêng là “mô thể” duy nhất nơi con người, là nguyên lý duy nhất cho
hoạt động của lý trí, cảm giác, dinh dưỡng và thân xác. Còn “chất thể đệ nhất”
(materia prima) là tiềm thể thuần túy, là nguyên lý giới hạn. Linh hồn điều khiển
tất cả mọi sinh hoạt của thân xác, làm cho bản tính con người được hoàn hảo. Thực
ra, quan niệm này dựa trên triết học Aristote cho rằng, “mọi loài đều giống như con số”, nghĩa là số 1, 2, 3 tiềm tàng
trong số 4 thế nào, thì sinh hoạt của thân xác cũng hàm chứa trong linh hồn như
vậy. Đây là giải thích thuộc thời Trung Cổ. Ngày nay có những giải thích mới mẻ
hơn, tiêu biểu là giải thích của Cha Teillard de Chardin.
Bàn
về vạn vật trong thế giới hiện tượng này, Cha Teillard de Chardin cho biết rằng,
trong bất cứ vật gì chúng ta đều nhận thức được hai phương diện: nội tại và ngoại
tại. “Nội tại” là chính sự hiện hữu, là tính cách đơn nhất, thường hằng và có ý
nghĩa đặc biệt của nó. “Ngoại tại” là cái lệ thuộc vào thế giới bên ngoài, là
cái bao hàm những biến thái di dịch trong không gian và thời gian. Nguyên lý
làm cho con người hiện hữu, thường hằng, sinh động và ý thức, được gọi là “tâm
linh”. Còn nguyên lý làm cho con người lệ thuộc không gian và thời gian được gọi
là “thể chất”.
Như
vậy, chúng ta có thể nói được rằng, con người cụ thể là chính “thân thể con người”
(Le corps humain). Đó là một chất thể được hình thành do một tâm linh, và chúng
ta cũng có thể gọi con người là một tâm linh phô diễn và thể hiện qua một chất
thể. Như thế, không phải con người “có”
thân xác”, mà “là” thân xác, vì con
người được “đăng ký” trong thời gian, có những liên hệ chặt chẽ với tha nhân và
với vũ trụ. Dĩ nhiên, nhờ cao độ hướng nội của con người (vai trò của lý trí và
ý chí) mà con người thực sự đã vượt lên trên cả yếu tố không gian và thời gian
là hai yếu tố riêng của vật chất.
Cần ghi nhận rằng, “tâm linh” và “thể chất” của
con người không phải là hai phương diện mâu thuẫn nhau như chủ trương của Nhị
Nguyên thuyết. Gọi là “tâm linh” tất cả những gì mà tính hướng nội của chúng ta
đạt tới mức độ có thể tự thể hiện bằng ý thức phản tỉnh. Còn “thể chất” là tính
“ngoại tại” của phương diện hướng nội. Cả “tâm linh” và “thể chất” đều lệ thuộc
nguyên nhân phổ quát là Thiên Chúa Sáng Tạo.
Quan
niệm Kitô Giáo và quan niệm duy vật về con người khác nhau, không phải ở chỗ
xác nhận có hay không có một linh hồn thiêng liêng. Thật ra cả hai bên đều công
nhận là trong vũ trụ, nhất là nơi con người có một cái gì nội tại, có ý nghĩa,
có lý trí, có nhân vị. Điểm khác biệt căn bản là những người theo thuyết duy vật
khẳng định rằng thực thể của nền tảng vũ trụ và của con người chỉ là cái vẻ bên
ngoài, là biến dịch, là ngẫu nhiên, là phức hợp, và không có yếu tố vĩnh cửu. Còn
Kitô Giáo xác định rằng: cho dù là trong vũ trụ, nhất là nơi con người có vẻ bề
ngoài, có biến dịch, có ngẫu nhiên và phức hợp, nhưng thực thể nền tảng của vũ
trụ, và nhất là của con người là tính nội tại, có ý nghĩa, có lý trí, có nhân vị,
thì tồn tại muôn đời. Do đó, đối với thuyết duy vật, quá trình nhân hóa nơi con
người có tính cách hoàn nguyên, nghĩa là sự sống sẽ chết đi, tất cả sẽ trở về
tro bụi ban đầu. Trái lại, đối với Kitô Giáo, quá trình nhân hóa tiến mãi theo
chiều thuận, nghĩa là nhờ Đấng Sáng Tạo và Cứu Chuộc, mỗi người sẽ trở thành
vĩnh cửu.
4. Con người
trong Đức Kitô
Vì
“Ngôi Lời đã làm người và đã cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14), nên những gì là
“thần linh nhất” (le plus divin) được tỏ bày qua những gì là “con người nhất”
(le plus humain), và ngược lại, những gì là “rất người” đều mang tính cách linh
thánh. Đi sâu vào kinh nghiệm về con người giúp ta đi sâu vào kinh nghiệm về
Thiên Chúa. Mọi hành vi nhân linh đều có trọng lượng của nó, cảm được điều đó
giúp ta nghiệm được chiều sâu thần linh.
Có
thể nói rằng, tổng hợp Kitô Giáo về con người là hướng thượng, và hướng về
tương lai vĩnh cửu: tương lai đó là “sự sống
đời đời nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5, 21), Đấng đã tưới gội mọi
vết nhơ trần tục bằng chính máu mình. Và nhờ Thánh Thần của Người là Đấng đang
hoạt động trong mọi tâm hồn, để hướng đà tiến của nhân loại về nguồn sống vô
biên là Thiên Chúa. Như vậy, sự sống siêu nhiên đang hoạt động trong chính sự sống
tự nhiên của con người và cả nơi mọi loài khác trong vũ trụ. Bởi vậy mà thánh
Phaolô nói rằng: muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày giải thoát,
không còn bị lệ thuộc vào cảnh hư nát nữa, mà được cùng với con cái Thiên Chúa
chung hưởng tự do và vinh quang (x. Rm 8, 19-21).
Cứ
bề ngoài mà xét, ta thấy cuộc sinh hoạt của một cá nhân chẳng có là bao: sinh, sống,
rồi chết. Cuộc đời kết liễu như thế, chẳng ai lấy làm thỏa mãn. Nguyện vọng tự
nhiên của con người là muốn tồn tại mãi. Nhưng cái gì tồn tại bên kia đời hiện
thế? Hoặc là chính cá nhân tồn tại, hoặc là một thực tại khác biệt với cá nhân,
như xã hội, chủng tộc, quốc gia, khoa học, tiến bộ? Lập trường của Giáo hội
không gạt bỏ những quan niệm trên, nhưng khẳng định cá nhân tồn tại vĩnh cửu.
Con
người cũng như vũ trụ đã được sáng tạo thật là tốt đẹp, nhưng còn chưa hoàn hảo.
Với sự hỗ trợ của Thiên Chúa, con người còn phải nỗ lực để “thành người” để
“nhân hóa” mình, tức là để chiếm lấy cái bản lĩnh, cái nhân cách, cái phẩm giá
cao cả của mình: đó là nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, là cộng tác với Người
mà hoạt động, bằng cách phát triển và tận dụng mọi khả năng để mưu cầu hạnh
phúc trần thế và trường cửu cho mình cũng như cho tha nhân. Sứ mệnh tự nhiên
nhưng cũng rất siêu nhiên này của mỗi người chỉ có thể thực hiện được cùng với
Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô.
Cái
nghịch lý của thời đại chúng ta là chỉ quan tâm đến một phần nơi con người:
quan tâm đến vật chất đổi thay nhưng lại quên lãng tinh thần vĩnh cửu; lo tổ chức
cho con người một cuộc sống trần thế hoàn bị mà đánh mất sứ mạng siêu nhiên của
chính con người. Ngay trong đời sống Giáo hội cũng vậy, có những khi quá lo
hoàn bị cơ cấu mà đánh mất tính thiêng liêng của mình, nên người ngoài có khi
chỉ còn thấy nơi Giáo hội một tổ chức trần thế hơn là một thực thể thần thiêng.
Hiện trạng đó cho ta biết sống hòa hợp cả hai, biết lựa chọn và cân nhắc vấn đề
theo bậc thang giá trị. Đừng như chim phượng hoàng quá say mồi, để rồi biến
thành chú gà đi bươi móc rác rến hôi tanh, không còn khả năng bay về tổ ấm và
vươn lên khoảng trời xanh cao đẹp vẫn dành cho mình.
5. Vai trò của
thân xác trong tu tâm
Con
người không làm gì mà không làm nơi và với thân xác. Thân xác và tinh thần hợp
tạo nên cái mà ta gọi là Tâm hồn. Tây
phương vốn coi tư tưởng là biểu phát của tinh thần, nhưng tư tưởng xuất hiện
như một cái gì nghiêng về bề mặt và nó hướng về khách thể (object). Chỉ tâm
tình mới nổi lên như cái “bên trong” hay chiều sâu, nhờ đó làm hiển hiện cái chính mình tôi. Bằng thân xác tôi gặp gỡ
chính tâm hồn. Qua dáng người và giọng nói, tôi nhìn thấy và cảm nhận về người
tôi yêu. Chính con người ấy vừa đẹp ở vẻ mặt, vừa thành thật ở đôi mắt. Ngoại
diện và hình thái diễn đạt nội tâm và tình cảm ẩn chứa. Cái thu hút thật sự nơi
con người ấy còn là một cái gì cao đẹp từ sâu thẳm, mà tôi có thể cảm nhận qua
dung mạo bên ngoài. Vì thế, chẳng lạ gì mà thánh Gioan lại bảo: “Kẻ
không yêu anh chị em mà nó thấy, thì chẳng thể yêu Thiên Chúa mà nó không thấy”
(1Ga 4, 20). Đó là điều mà ta thấy rõ siêu nhiên đã thành hình trong tự nhiên.
Với
hiền triết Trung Hoa, thân xác còn vươn xa hơn cả không gian khoáng-sinh-nhân nữa.
Vì một cách nào đó, thân xác là một với thiên nhiên, nên khi hòa mình vào thiên
nhiên, người ta còn bắt được đạo Trời in đậm nét trên thụ tạo, làm thành con đường
Nhân đạo. Triết Đông còn cho rằng mệnh Trời biểu lộ ở ngay tính tự nhiên[1] của con người, ngay
trong thiên nhiên vạn vật, nhờ đó ta có thể đạt minh trí. Còn hơn thế nữa, trong
Kitô giáo, với mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, thì thân xác không chỉ phản ảnh
đạo Trời, nhưng còn mang Trời, thành chân dung của Trời: “Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga
14, 9). Thân xác huyền nhiệm ấy không dừng lại ở Đức Giêsu, mà lan rộng đến ai
trở thành Thân mình nối dài của Ngài, nghĩa là được Kitô hóa để sống tâm tình
và tính cách của Ngài. Từ nay, tính khả giác có khả năng thiêng liêng hóa và thần
thánh hóa nơi dấu hiệu hữu hình, vì theo thánh Benađô, nhờ việc chiêm ngưỡng Đức Kitô, giác năng đã được thanh luyện để có thể
nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi sự, nơi mọi người.
6. Giới tính
Ở đây, ta muốn nêu lên vấn đề giới tính vốn là cơ
bản của thân xác, làm thành sự phản chiếu và tính nòng cốt của đôi bên nam nữ. Ai
cũng hiểu rằng, muốn sống đạo sâu xa thì phải sống trọn vẹn con người mình. Do
đó, ngay cả trong tu đức hay tu tâm, giới tính phải được đặc biệt lưu tâm.
-
Nữ giới
Phụ
nữ vốn nghiêng về tình cảm hơn là lý trí, nên tình cảm vừa là điểm yếu, vừa là
điểm mạnh của họ. Ở điểm yếu, họ phải tập cho mình cách thoát ra khỏi sự kiềm
chế của nó. Ở điểm mạnh, họ cần biết tận dụng sức đẩy của nó để vươn cao, tỏa
sáng, vượt trên những chấp nhất nhỏ mọn và tình cảm thấp kém mà người ta vẫn gọi
là “nhi nữ thường tình”. Muốn vậy,
không có gì hữu hiệu bằng sự hy sinh, quên mình, để làm tan biến tính hẹp hòi,
ích kỷ, vốn là nguyên nhân của sự giận hờn, ghen ghét. Nặng tình cảm thì dễ trở
nên nhẹ dạ và nông nổi, kéo theo một loạt những hệ quả khác là dễ nghe, dễ
theo, dễ bị ràng buộc và đồng hóa. Cái khó của nữ giới là thường suy tư theo
tình cảm, mà không phân minh theo lý trí, nên dễ lạc hướng và sai lầm. Hành động
của họ luôn nặng phần cảm tính nên cũng dễ chủ quan và độc đoán. Cảm nhận của họ
thường lệ thuộc vào đối tượng nên cũng dễ vui dễ buồn. Nắm bắt vấn đề bằng trực
giác nên cũng hên xui may rủi. Sống theo cảm ứng của bản năng, nên cũng dễ đánh
mất tính siêu nhiên đã được định hướng ngay trong tự nhiên. Vì thế họ phải tập
luyện cho mình có khả năng đưa tình cảm vào tầm kiểm soát của lý trí sáng suốt
và ý chí luôn kiên định, đồng thời biết siêu nhiên hóa cái nhìn của mình để trải
rộng tình thương một cách bao dung, chan hòa, luôn quân bình và hài hòa.
-
Nam giới
Nam giới thường phát huy điểm mạnh của mình ở
lý trí và ý chí. Đó là khả năng nhận biết và lập luận có tính khoa học để đánh
giá thực tại một cách khách quan, đồng thời điều gì đã quyết thì không dễ thay
đổi. Đây là điểm mạnh đồng thời cũng là điểm yếu, tùy theo cách vận dụng của
mình để phát triển theo hướng nào. Tuy nhiên, một mình lý trí và ý chí dễ biến
nam nhân thành cục sắt không có trái tim, hoặc một trái tim cứng cỏi, lạnh lùng
và băng giá. Khi đó, tình cảm sẽ là hơi thở ấm áp cần thiết để biến một rôbô
thành con người, một con người được dựng nên do tình yêu, để họ cũng biết tha
thiết sống cho tình yêu. Nói tới yêu là nói tới tin. Tình yêu và niềm tin sẽ mở
cõi lòng họ, cho họ thấy ý nghĩa và giá trị cuộc sống không nằm trong việc
chinh phục, chế ngự hay chiếm đoạt, mà là sống quảng đại và bao dung. Điều này
đòi họ phải vượt trên những tính toán quá hệ thống và lôgic, những phản ứng quá
hình thức và máy móc, những hành động quá luật lệ và nguyên tắc. Sự rung động của
con tim khiến họ biết động lòng trắc ẩn trước cuộc sống đầy những tình cảnh
đáng thương, mà không bị chặn đứng bởi một khuôn khổ hay nguyên tắc nào của lý
trí, ngay cả luật lệ chủng tộc hay tôn giáo. Đây là điều mà dụ ngôn người
Samaritanô đã nói lên như một điển hình cho các bậc trượng phu (x. Lc 10,
29-37). Lòng nhân đạo tự nó đã mang mầm siêu nhiên, và khi được phát triển sâu
rộng, đúng hướng, nó càng diễn đạt tính thần thiêng của con người.
7. Cuộc chiến
Xác-Thần: giữa tự nhiên và siêu nhiên
Xác
và Thần trong từ ngữ của Gioan và Phaolô là hai sức mạnh đối đầu trong con người.
Xác thì ghì xuống, Thần thì hướng lên. Xác thịt ở đây hiểu theo nghĩa sinh hoạt
của bản năng, mang nặng tính vị kỷ và hướng về khoái lạc. Nhưng cũng nơi con
người tự nhiên ấy, có một yếu tố khác mà Phaolô gọi là Esô anthropos. Con người
bên trong gồm lý trí và tinh thần, đáng lẽ phải nghiêng về luật Chúa (x. Rm 7,
22) để trở nên chính mình, nhưng bất lực trước sức mạnh nhục thể. Phải nhờ sự cứu
chuộc của Đức Kitô để gia tăng sức mạnh tinh thần hầu nâng cao con người toàn
diện (x. Rm 7, 25; 8, 2-6).
Chúa Thánh Thần hằng làm việc trong ta.
Sự có mặt của Thánh Thần (Hieros pneuma) sinh ra nơi ta một tinh thần siêu
nhiên để chiến đấu và chiến thắng. Sự chiến đấu giữa cái Tôi xác thịt và cái
Tôi tinh thần nằm trong một cuộc chiến bao quát hơn giữa Bóng tối và Ánh sáng,
giữa Satan và Chúa Kitô. Vấn đề không phải là diệt xác để giải phóng tinh thần,
nhưng làm suy yếu sức mạnh của bóng tối là tham dục, là ích kỷ nơi ta, và làm
cho sức mạnh tinh thần hưng thịnh lên mãi. Đó là một hướng sống đi lên để đạt tới
tầm vóc viên mãn của con người. Thánh Phaolô cho thấy: “Hướng đi của tính
xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an.”. (Rm 8,6). Vì thế,
“Nếu
anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí,
anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ
được sống.” (Rm 8,13). Như vậy, “Những
ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa.” (Rm
8,8).
Không
thể thăng hoa đời sống mình nếu không chế ngự ham muốn. Đây là sức mạnh làm chủ
bản thân đòi tu tập liên tục. Tuy nhiên, nếu kiềm chế quá sức chịu đựng của cái
Tôi sẽ gây nên những hậu quả tai hại về tâm lý cũng như bước tiến thiêng liêng.
Vì thế, giải trí và thư giản là cần thiết cho đời sống tu đức. Riêng đối với những
ai thấy được ơn Chúa thúc đẩy mãnh liệt, sẵn sàng đi vào mọi cuộc phiêu lưu,
thì nhắm mắt đưa chân, gác một bên những tính toán và khôn ngoan bình thường để
sống triệt để cho Chúa. Nhưng đối với những ai không được thúc đẩy mãnh liệt
như thế, thì hãy bước đi trong thận trọng và khiêm tốn.
Phương
pháp tốt nhất không phải là cưỡng lại xung động (pulsion), nhưng lợi dụng sức của
nó để chuyển hướng. Theo Jung thì năng lượng tâm sinh là một, dù xuôi hay ngược
cũng thế, vấn đề là chuyển đổi đối tượng hướng tới. Năng lượng ấy hướng về xác
thịt thì tinh thần yếu đi, nhưng nếu càng hướng đến tinh thần siêu nhiên thì
ham muốn hạ đẳng càng giảm bớt. Vì thế, ta cần dồn năng lượng tâm sinh để phục
vụ lý tưởng, bằng cách mở rộng lòng yêu thương và làm tăng triển những khả năng
tinh thần. Một khi tinh thần trên đà chiến thắng, thì toàn thể con người
thân-tâm đạt tới sự thống nhất, có khả năng siêu nhiên hóa mọi hoạt động, dễ
dàng sống theo ý Chúa. Khi đã là một với chính mình thì cũng làm một với Chúa
trong mọi sự. Đây là một ân ban, nhưng lại tùy thuộc nỗ lực vươn lên trong đời
sống tinh thần. Kết quả là một thỏa mãn mới, nhẹ nhàng và sâu xa, trong sáng và
bền vững, chứ không bứt xé và xáo động như một khoái cảm vật chất hay thể xác.
Kinh
nghiệm chiến đấu thiêng liêng cho thấy lúc đầu quả là gay go, nhưng dần dần sự
va chạm sẽ giảm đi, cường độ của những ham muốn mang tính bản năng yếu dần,
không còn sức phản kháng nữa, để cho Thần trí lên ngôi hướng đến thiện toàn. Tuy
mầm mống dục vọng vẫn còn chi phối, nhưng sức mạnh của nó đã được chuyển hóa,
nhường bước cho một hấp dẫn thâm sâu của tính Thần thiêng nơi con người. Một hạnh
phúc mới đã hình thành, mà xác thịt xưa kia chưa hề biết tới, nay đã chia sớt
làm một với tinh thần. Tự nhiên và ân sủng đã phối kết để làm nên một cuộc sống
duy nhất trong Chúa. Sự Thái hòa kết tụ từ bên trong sẽ tỏa ra sắc diện và
phong thái, để rồi tác động đến bầu khí chung quanh mình. Xác-Thần đã hòa hiệp,
trong ngoài đã hanh thông, và toàn thể con người như cây đèn tỏa sáng. Đó chính
là hoạt động của Thánh Thần trong ta, âm thầm nhưng rất mạnh mẽ hữu hiệu, miễn
ta đừng chống trả và phản kháng theo tính xác thịt của mình. Đến đây, ta mới hiểu
ra kinh nghiệm thiêng liêng sâu xa của thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là
tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Tóm lại, con người siêu nhiên là con người được ân
sủng biến cải trên chính nền tảng tự nhiên của nó. Con người tự nhiên là người
với cả xác lẫn hồn. Trong mầu nhiệm Nhập thể, con người tự nhiên còn làm hiển lộ
gương mặt bất phàm của Thiên Chúa. Và nơi nhân tính của mình, Đức Giêsu đã
thông đạt cho ta tư cách con Thiên Chúa. Từ nay, cái khả giác thành “dấu hiệu hữu
hiệu” hay huyền tích, để thực hiện trong ta cái siêu giác là “con người thiêng
liêng”. Con người được tạo dựng cho Thiên Chúa, nên không thể qui về chính
mình, không thể lấy mình làm mục đích để sống theo bản năng tự nhiên. Hơn nữa, trong
thâm tâm mỗi người còn mang một khát vọng vô biên là chính Thiên Chúa, Đấng
đang qui hướng toàn thể vũ trụ vạn vật và con người về chính Ngài, như một tiến
trình vươn lên không ngừng. Ai tự làm ngưng đọng tiến trình này, kẻ đó phá vỡ kế
hoạch thành toàn của Thiên Chúa về chính mình. Vì thế, sống là sống theo Thần Khí. Những ai sống theo Thần Khí thì không còn
làm nô lệ cho tính tự nhiên theo xác thịt (1Cr
2,14), nhưng hòa quyện vào tinh thần siêu nhiên, hướng
chiều theo ân sủng để kiện toàn chính mình.
Lạy Chúa, sâu nhiệm và cao cả thay những gì
Chúa đã làm nên, đặc biệt trên chính đời sống con người, là chóp đỉnh của việc
tạo dựng và cứu chuộc. Chúa muốn hoàn thành cách tốt nhất cuộc sống của chúng con
trong tính cách của Chúa, nhưng nhiều khi chúng con cứ muốn lầm lì trong lối sống
riêng của mình.
Cuộc sống Kitô hữu là một hành trình hiến
thân, nhưng nhiều lúc con chỉ muốn tiến thân. Nhiều khi con chỉ muốn sống với
những gì mình đang có và muốn có nhiều hơn trong cuộc trần này, mà quên sống với
những gì mình là và phải là theo Thiên ý.
Ham chuộng với những gì quá tự nhiên,
con đánh mất ý thức siêu nhiên. Chạy theo những gì dưới đất, con quên mất ái mộ
những gì trên trời. Chỉ lo sống theo những nhu cầu của thể xác, con làm ngưng
trệ những đòi hỏi bức thiết của đời sống tâm linh. Chỉ chú tâm vào những công
trình và thành đạt, con trở nên bệ rạc trong chính trái tim mình.
Xin chỉnh đốn và điều hòa lại đời sống
con. Xin cho con biết nhìn ngắm Đức Kitô mỗi ngày để tìm thấy sự vẹn toàn đích
thực của đời sống con trong Chúa. Amen.
Lm. Thái Nguyên
[1] Tính tự nhiên ở đây hiểu là tính bản thiện: “Nhân chi sơ tính bản thiện”.