MỘT LINH ĐẠO TU THÂN : CON ĐƯỜNG NƯỚC
Trong vạn vật, có lẽ không có gì mềm bằng nước,
và cũng không có gì thắng được nước. Chính vì mềm, nên nước không hề bị suy giảm
hay thương tổn, và luôn là chính nó trong mọi biến dịch. Mềm như nước thì không
còn hình thức gì phải nhất định, luôn ở trong tình trạng sẵn sàng để tùy thời
mà xoay chuyển, tùy nơi mà uốn nắn. Dù nước rất mềm, nhưng lại có khi rất mạnh
mẽ để xoay trở thiên nhiên. Từ mặt biển phẳng lặng có thể biến thành cơn sóng dữ;
từ dòng sông êm đềm có thể biến thành con nước lũ quét sạch mọi đê điều. Trong
cuộc sống con người cũng thế “Phải biết mềm
biết cứng, biết lo biết lường, biết lui biết tiến, biết nhược biết cường, vững
vàng như núi đá, biến hóa như âm dương...” (Gia Cát Lượng). Đó là thái độ
thuần phát, vô vi, là “đứa con đỏ” (xích tử), chưa thành gì để có khả năng
thành mọi cái. Đây cũng là khả năng “ứng vạn biến”, không vụ vào gì cả, nên
thích nghi được với mọi thời, mọi nơi, với mọi tình huống mà vẫn y nguyên chính
mình.
1. Con đường
Nước của Lão Tử
Hầu
như toàn bộ Đạo Đức Kinh của Lão Tử nhằm nói đến sức mạnh của cái Nhu, của Vô Vi.
Trong ý niệm đó, đặc biệt ở chương 8, Nước
được coi như hình ảnh đặc thù để chuyển tải một triết lý sống và cũng chính là
một nghệ thuật sống lý tưởng. Ông cho thấy đường lối sống Đạo tự nhiên như nước
chảy xuôi: ở thì chuộng chỗ thấp, ân tình thì chuộng thâm sâu, xử sự chuộng
lòng nhân, nói thì chuộng chân thật, cai trị thì làm cho cuộc sống an bình, làm
việc thì hợp với tài năng, hành động thì hợp thời đúng lúc. Đức tính của nước là
làm lợi cho tất cả thiên hạ mà không tranh công đoạt lợi, gặp chỗ thiếu thì chảy
vào, chỗ thừa thì chảy ra, trên đời làm mưa, dưới đất thành sông lạch: “Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lợi vạn
vật nhi bất tranh”.
Lão Tử nhận ra ưu điểm của nước là tính
vô kỷ, vị tha, làm lợi cho tất cả. Nước lại còn có tính cách nén chịu, sự nén
chịu của con đường Nhu: “Thọ quốc chi cấu”:
nhận lấy cho mình bụi bặm của quốc gia. Đồng thời “Thọ quốc chi tường”: nhận lấy cho mình sự rủi ro của nước nhà. Đó
cũng là tận cùng của vị tha, nhưng chính nhờ thế mới thực làm chủ được sơn hà,
xã tắc.
Nói đến vị tha và đón nhận là nói đến đặc
tính của nước ở mức tổng thể, tính bao la của nó. Đó là nước trường giang chảy miết
không ngơi, dù cuốn theo bao nhiêu rác rưởi mà vẫn luôn thanh khiết. Đó là nước
của đại dương, dù nuôi ngàn muôn tôm cá mà không bao giờ cạn kiệt. Do đó, đi
vào đạo Nước thì Trí không dừng ở đồng dị
tiểu tiết; Tâm không thu vào tiểu ngã
hạn hẹp; cũng như Chí phải vượt lũy tre
xanh. Cần phải rộng mênh mông để hòa nhập vào tất cả, tức “Vật ngã vi nhất”, đó là tính mở vô độ của nước vậy.
Từ
đó Lão Tử chủ trương một
triết lý sống Vô Vi: dường như không làm gì,
nhưng không việc gì lại không làm được : “Vô vi như vô bất vi”. Đó là
cách hành động theo qui luật Tự nhiên bình thường nhưng hiệu quả phi thường.
- Vô vi tiêu cực là không hành động theo
tính cách bề ngoài gây náo nhiệt và hỗn độn; là không chạy theo hình thức, lễ
nghi, tập tục, khuôn khổ do con người bày biện ra.
- Vô vi tích cực là trở về với tính đơn sơ
hồn nhiên, sống thành thực với lòng mình theo cách thể hiện của trời đất. Vô vi
như thế lại mở ra con đường muôn ngả: vô dục, vô tư, vô tranh, vô danh, vô lợi, vô
kỷ, vô công, vô cầu, cũng như mang cả tính
cách vô ngã và vô tâm của Phật Giáo.
2. Cách hành động của con
đường Nước
Đạo Đức
Kinh của Lão Tử nhằm đề xuất một thuật trị nước: “Vô vi như trị”: trị mà như không trị. Kiểu cách vua quan thời
phong kiến không còn nữa, nhưng tính cách của nó vẫn còn tồn tại dưới nhiều
hình thức xã hội và tôn giáo, nơi những kẻ có quyền hành. Sự cai quản cứng rắn
chỉ bằng luật lệ, o ép bằng nguyên tắc, chỉ khơi dậy tà tâm, thúc đẩy sự phản
kháng và gieo mầm đại loạn.
Khi nói về
hình ảnh của Nước, Lão Tử muốn đưa ra một giáo hóa êm ái, thấm dần vào tim, do
người trên sống thanh thoát mà ảnh hưởng đến cảm nghĩ và cách cư xử của người
dưới. Muốn thế, người trên đừng làm ra vẻ bề trên bằng thị uy, sai khiến, áp
đặt, nhưng bằng tinh thần vô kỷ, vô công, vô danh, vô tranh. Sống như thế không
phải cố ý để nêu gương, mà là sống chân chính, sống thực với lòng mình. Bất cứ
sự cố ý nào đều luôn sinh ra kháng ý. Trong việc xử thế cũng như hướng dẫn và giáo
dục người khác, cũng có nhiều người áp dụng con đường mềm. Tiếc thay, họ không
mềm thật mà chỉ mềm mỏng, nghĩa là dụng Mềm như một sách lược, chứ không mềm
tại tâm. Thiếu sự chân thành với chính mình, ta chỉ đạt được những kết quả bề
mặt và nhất thời, rồi đâu lại vào đó, chẳng cải hóa được ai.
Ở chương
76, Lão Tử nói: “Người ta sinh ra thì mềm
mại, uyển chuyển như hài nhi, chết thì mới cứng đơ, bất động. Cây cỏ sống chết
cũng như vậy. Nên cái cứng là chết, cái mềm là sống”. Vì thế, đưa tới cung
cách ứng xử: “Cường đại xử hạ, nhu nhược
xử thượng” : cư xử mạnh bạo là hạng dưới, mềm dịu là hạng trên. Thực tế cho
ta thấy thái độ khắt khe, cứng cỏi là tiêu biểu những tâm hồn cằn cỗi, thấp
kém. Uyển chuyển, khéo léo, dịu dàng mới tiêu biểu những tâm hồn cao thượng.
Bởi vậy có câu thơ:
Phàm phu mới cứng, mới cương
Dịu
dàng mới thực lối đường người trên.
Bản chất của
nước là như thế, không câu nệ vào một hình thức, không cứng nhắc vào một khuôn
khổ, nhờ vậy mà có khả năng ứng biến trong mọi tình trạng. Nguyên lý ấy đã từng
được đưa vào trong binh lược của Khổng Minh và các tướng lãnh tài giỏi thời xưa,
cũng như trong môn võ thuật của nhiều tổ sư, đồng thời làm nên một triết lý
sống trong các chuyện kiếm hiệp của nhiều tác giả, đặc biệt là Kim Dung. Chẳng
hạn ông đã xây dựng nhân vật Vô Kỵ theo nguyên lý trên trong bộ Ỷ thiên-Đồ long,
khi thụ giáo Thái cực kiếm của thầy mình. Vô Kỵ đã nhớ hết những đường kiếm
tinh xảo, nhưng rồi sau đó lại quên hết. Nhưng chính lúc quên hết lại là lúc
anh ta đã thấu mọi lý lẽ căn cơ, không còn tùy vào những thế kiếm đã học nữa,
nhưng tùy cơ ứng biến để đạt tới hiệu quả phi thường. Trong khi trước đó, anh
ta chẳng biết chút gì về bộ môn kiếm pháp.
Thì ra đó
là kiếm ý, chứ không phải kiếm chiêu. Bộ thế thì có, nhưng chiêu
thì tùy cơ mà sáng tạo. Hiểu cái lý rồi thì thiên biến vạn hóa. Theo lý thuyết
Đạo học mà Thái cực kiếm dựa vào, thì hết mọi cái đều từ Vô mà sinh, nên trở về
với Vô, thì mới ứng biến tự nhiên và phát huy thần diệu.
3. Nhìn lại lề lối luyện
đức tu thân
Khi chưa
biết mềm mại để luyện đức tu thân theo qui luật tâm lý tự nhiên, mà chỉ nại vào
ý chí thôi thì dễ đưa đến sự phản tác dụng. Những phương pháp tu đức xưa nay dễ
rơi vào ba cách thái: chạy trốn, đương đầu và kiềm chế.
* Chạy trốn
Vì sợ hình phạt hỏa ngục do tội gây ra – một quan niệm quá
pháp lý về tôn giáo – nên người ta dễ quan trọng hóa một hành vi sai trái đơn
lẻ hơn là cả một khuynh hướng xấu. Nhất là trên địa hạt dễ vấp ngã như tính
dục, thì chiến thuật luôn được dùng là tránh né hay chạy trốn: “Đào vi thượng sách”. Tránh né một lần
chứ đâu tránh né được mãi, khéo “tránh vỏ
dừa lại gặp vỏ dưa”. Chỉ quen chạy trốn thôi thì làm sao thành nhân đức. Đang
khi đó nhân đức được định nghĩa là
một tập quán tốt giúp ta có khả năng hành động theo lý trí đúng đắn đã được đức
tin soi sáng. Hơn nữa, nhân đức (virtus)
còn là dũng khí, là sức mạnh của một tính cách, nói lên một tâm thế vững vàng.
Nhân đức mới làm nên con người tốt chứ không phải một vài hành vi tốt. Cũng như
yếu tố quyết định là cây, chứ không phải là trái; là tấm lòng chứ không phải là
hành động. Thật vậy, “Con người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng
tốt của lòng mình ; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy,
miệng mới nói ra.” (Lc 6,45).
Thái
độ chạy trốn dù trong tình trạng nào cũng vẫn là không tự nhiên theo con đường
Nước, không những không giải quyết được vấn đề mà còn mang vào mình tâm trạng sợ
sệt, co cụm, gây nên nỗi ám ảnh, làm bối rối lương tâm và có thể phát sinh tâm
bệnh. Dĩ nhiên khi biết mình còn quá yếu thì phải dùng cách thế tạm bợ đó thôi.
Nhưng rồi dù mạnh đi nữa cũng chẳng ai dại gì mà đâm đầu vào dịp tội để minh chứng
là mình vững vàng, có dũng khí. Đó không phải là dũng khí mà là tà khí. Ở đây
chỉ muốn nói rằng, chỉ lo tránh nhiễm độc thôi, thì chưa đạt tới tình trạng miễn
nhiễm. Vì thế, cần phải lo tu luyện lại lòng mình, để không còn bị động tâm trước
những cám dỗ và lôi cuốn.
* Đương đầu
Người
ta thường chạy trốn trước những cám dỗ đức tin hay đức khiết tịnh, nhưng trong
các cám dỗ khác thì thường được khuyên là phải trực diện đương đầu. Đó là những
phản ứng tức thời, tự động, để loại trừ. Thái độ đương đầu như vậy là muốn dùng
cương để thắng cương, dùng sức để vượt sức. Làm thế sẽ không thể không gây ra
những thương tổn. Hơn nữa, khi đã quen với cách thế mạnh bạo và tiêu diệt, ta dễ
coi thường mạng sống, và không còn bén nhạy trước những tình cảnh đau thương. Chỉ
với chiến thuật đương đầu và công phạt, ta dễ làm tâm hồn mình khô cứng, trở
nên lạnh lùng với mọi tương giao, và kết quả dần dà sẽ là một cảm giác trống vắng
và cô độc.
* Kiềm chế
Với nết xấu ta thường được khuyên là phải
biết kiềm chế. Thực ra, kiềm chế hay đương đầu thì cả hai đều là đánh thẳng, chỉ
dùng sức mà không dùng thế, khác nào “hữu
võng vô mưu”. Kiềm chế mãi sẽ phát sinh tình trạng bị dồn nén và ức chế,
gây ra những thái độ và phản ứng thất thường trong mọi tương quan. Hiện tượng
này cũng khá phổ thông trong đời sống gia đình và cộng đoàn, khi người ta phải
chịu nhiều áp lực mà không có cách nào để đối thoại và trình bày. Để cho mọi việc
êm xuôi, người ta đành phải kìm hãm và đè nén bản thân mình. Nhưng rồi dần dần
những phản hồi của nó thật bi đát trên đời sống tinh thần, khiến người ta dễ
“phát khùng”, tạo nên những bệnh thần kinh (stress) nặng nhẹ tùy theo mức độ.
Vì theo qui luật tự nhiên, dồn chỗ này thì phình chỗ nọ, nén chỗ nọ thì bung chỗ
kia. “Tức nước vỡ bờ” là chuyện đương
nhiên.
Dòng nước
khi bị ngăn chặn, với sức đẩy đang đi tới, nó sẽ tự động tìm lan tỏa ra nhiều
hướng khác. Trong cuộc sống cũng vậy, thay vì đối đầu với xung động mà nén
xuống, thì ta hãy dựa ngay vào sức mạnh của nó để hướng lên, trông lên những gì
là thiêng liêng, cao đẹp. Đó chính là con dường mềm, dùng nhu thắng cương, mượn
sức địch để thắng địch: dùng chiến thuật “gậy
ông đập lưng ông”.
4. Chiến thuật Nước trong đời sống tâm linh
Một cấu trúc phức tạp và tế vi
Nền tảng sức mạnh tâm linh tàng ẩn
trong vô thức. Trong vô thức lại là chỗ cư trú của nhiều bóng ma khác nhau: các
bản năng, siêu ngã, những nguyên tiêu và cảm xạ. Theo Freud, ở nền tảng của bản
năng, có hai sức mạnh chủ yếu: Sinh (eros) và Diệt (thanatos). Tùy theo sự thống
trị của một trong hai, mà con người và thế giới sẽ thành ác quỉ hay thiên thần.
Bản năng là nguốn gốc thứ nhất của những xung động. Nếu cách xử sự không khéo
léo với các xung động có thể làm sinh ra trong vô thức những lực phản hồi
(anticathexes), là những hệ thống áp chế mà Freud gọi là Siêu ngã.
Xung động từ trong bung ra, ngoại thế từ
ngoài ép vào, và cái Tôi tâm lý đứng giữa để dung hòa hai luồng sức. Nếu cái
Tôi yếu không dung hòa được, sẽ khiến va chạm mạnh, có thể sinh ra những thương
tổn. Đây là những vùng nhạy cảm, mà chỉ cần một từ ngữ, hay một hình ảnh nào đó
cũng đủ gây suy mờ ý thức và làm rung chuyển tâm hệ, đưa đến thái độ tránh né sự
thật và hành động vô ý thức. Nếu thương tổn quá mạnh sẽ làm tan vỡ tâm hệ, do
đó một mảnh tách rời khỏi toàn khối. Và khi bị phóng thể (projection) như vậy sẽ
khiến các ý tưởng thoát ra từ đấy, nghe như một tiếng nói thúc bách trong mình.
Còn mạnh hơn thế nữa là những cảm xạ
(affect), là cái rất huyền hoặc từ vô thức vọt ra bất ưng, tạo nên những ảo
giác, thành kiến, đố kỵ, gây ra lo sợ, hoảng loạn, mạnh tới nỗi không thể cưỡng
để rồi bị dồn nén. Những dồn nén này có thể bung ra thành những giấc chiêm bao kỳ
dị, có khả năng tiên báo về những tai họa hoặc giải đáp những vấn đề mang tính kỳ
lạ.
Bộ máy tâm lý phức tạp, tế vi và còn dễ
tổn thương hơn bộ máy sinh lý, nên ta càng cẩn trọng, không thể hành động bừa
bãi. Trái lại biết dùng con đường Mềm là phương cách khéo léo và uyển chuyển để
tránh những cú xốc cảm xúc. Cũng như trên phương diện kỹ thuật, người ta chuyển
con nước lũ trở thành điện năng thế nào, thì nên lãnh vực tâm lý, ta cũng có khả
năng để hoán chuyển và thăng hoa những khuynh hướng hạ đẳng bằng chính sức mạnh
của nó.
Hoán chuyển và thăng hoa
Hoán chuyển hay thăng hoa có liên quan
mật thiết với nhau. Khi nói đến hoán chuyển là nhằm thay đổi phương hướng hay đối
tượng. Còn thăng hoa nhằm đến tâm tình và tính cách. Cả hai quyện lấy nhau để
thể hiện một con người thành toàn. Đối tượng càng cao quí thì sự hoán chuyển
càng tích cực, tâm tình càng sâu rộng và tính cách càng khéo léo. Chẳng hạn,
thay vì đè nén mình trước những hành xử bất công của người khác, sẽ tạo nên
thái độ hằn thù đối với họ và gây ức chế cho mình, thì ta muốn chấp nhận tình
trạng đó vì chính họ, vì không thể đòi hỏi họ sống hơn những gì họ có thể sống
trong hiện tại. Đòi hỏi như thế là vô lý. Đó là sự hòa hoãn chính mình với người
khác từ trong nội tâm, tạo nên cái nhìn và phương thức hành động khác đi để
không bị dồn ép.
Đối tượng hoán chuyển cao vượt hơn khi
ta chấp nhận tình trạng đó vì tình yêu mến Chúa. Đối tượng cao cả này sẽ làm
cho lòng ta dịu lại, giúp ta bình tâm sáng suốt để hoán chuyển thái độ và phản ứng
nhẹ nhàng và ổn thỏa cho tâm hồn. Tuy nhiên, điều quan trọng đầu tiên vẫn là tấm
lòng bao dung và sự hiểu biết sâu xa về những trắc trở, để ta có đủ cảm thông từ
chính kinh nghiệm của bản thân mình.
Nên biết rằng, cái mà ta chuyển hướng
là sức mạnh của một khuynh hướng, một xung năng, nên ta không thể chống trả ngược
lại, nhưng nương vào sức của nó để rẽ ra những hướng khác. Như vậy, điều cơ bản
là hướng lái ước muốn và tâm tình của mình vào một phạm vi khác để tạo nên một
hiệu quả khác. Hướng lái cách nào thì cũng đừng qui về cái Tôi, hay những thỏa
mãn riêng mình, vì như vậy là chưa chuyển hướng gì cả, mà càng gây nên xung khắc,
hoặc rơi vào cạm bẫy mà xung năng đang đẩy tới. Điều này ta thấy rõ trên phương
diện tình dục: càng cố nén càng khốn đốn; càng chống trả càng bị đẩy lùi; càng
quay quắt với bản thân càng vấp ngã. Vì thế cần phải dùng đến chiến thuật Mềm của
Nước.
Chiến thuật Mềm của Nước
- Trước tiên, đừng vội đối phó, hãy để
cho tâm hồn mình bình thản, an nhiên như không có gì xảy ra. Cứ ung dung như Nước
trước sự trấn áp. Và vì không có phản chấn nên sẽ không có tổn thương. Điều gì
nó tự động đến thì nó sẽ tự động đi, như cơn lốc qua vậy thôi.
-
Phương sách khác là để lòng mình hướng lên và hướng ra, để cảm nhận một cái gì
khác cao hơn, đẹp hơn. Đó là sự chuyển hóa tình dục sang tình cảm (yêu thương),
từ việc muốn chiếm hữu sang việc cho đi (phục vụ). Khi hướng đến người khác bằng
một cái nhìn yêu quí chân thật là ta đã chuyển tâm thế để hướng đến đích điểm cao
hơn, đưa đến sự vượt thoát trên chính mình để có những hành động thích ứng. Đó
là chưa nói đến việc thiêng liêng hóa tình cảm và sự dâng hiến mình cho một lý
tưởng thánh thiện. Điều này càng làm cho ta biết vận dụng sức mạnh của xung
năng để phát huy phẩm cách của mình.
- Cho dù thất bại và lỡ lầm xảy ra, thì
ta cũng có phương cách nhẹ nhàng của thánh Têrêsa Hài đồng, là biết lợi dụng độ
thấp của mình để nhìn ra độ cao của Chúa. Dưới thung lũng của thân phận mình,
ta gặp được Chúa trong sự tiếc nuối và tin tưởng, để ôm chặt lấy Ngài trong
tình yêu mến. Và khi ấy, “thung lũng” đã thành “mảnh đất phì nhiêu” của ân sủng,
vì tội đã thành phúc (felix culpa).
5. Con đường Nước trong
Phúc Âm
♦ Khôn khéo như rắn
và đơn sơ như bồ câu (x. Mt 10,16).
- “Khôn khéo” ở đây nhắm
đến chiến thuật, cho ta thấy con đường hành động rất mềm dẻo, uyển chuyển, tiến
thoái tùy hoàn cảnh và tình trạng, cũng như “Đáo
giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”.
-
“Đơn sơ” nhắm đến thái độ, phát xuất từ tấm lòng trong suốt và ngay thẳng,
không còn bóng tối của vị kỷ và lá chắn của cố chấp, để có thể đón nhận tác động
của Thánh Linh. Đó cũng là con đường trẻ thơ mà Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Nếu anh em
không trở lại mà nên như trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” (Mt 18,3). Hay nói cách
khác: “Nước Trời là của những ai giống như trẻ thơ.” (Mt 19,14).
Nước thì bao giờ cũng chảy xuống chỗ thấp.
Con đường thấp cũng chính là đại lộ Tin Mừng, biểu hiện bằng tấm lòng bé thơ.
Tâm tình đó cho ta được sống thoải mái dưới mọi đường nẻo của Thiên Chúa mà
không bị chao đảo hay hỗn loạn trong mọi tình huống trái ngang, vì biết mình chẳng
là gì và cũng chẳng đáng gì, để có thể tín thác hoàn toàn vào Chúa. Đó chính là
tâm tình trọn đời sống của Đức Maria trong hai tiếng “Xin vâng”. Đó cũng
chính là con đường sứ mạng của Chúa Giêsu là hoàn toàn tùy thuộc vào Cha, làm
thành sức sống của Ngài: “Thức ăn của Ta là thi hành ý Đấng sai Ta” (Ga 3, 43). Kết
thúc sứ mạng của Ngài cũng là lời phó thác mạng sống của mình trong tay Cha (x.
Lc 23, 46).
Tinh thần bé thơ là để đón nhận Nước
Thiên Chúa, tinh thần đó được sinh ra từ Thần Khí và nước:
- Thần Khí cũng được gọi là Khí
(Pneuma, Spiritus), với tính cách linh động như gió: “Gió muốn thổi
đâu thì thổi...” (Ga 3, 8). Thánh Phaolô đối lập giữa Thần Khí với khuôn khổ của Lề
luật: Luật thì trói buộc, còn Thần Khí thì giải phóng (x. Rm 8, 1-2). Với những hình thức và
từ ngữ cũng thế: từ ngữ thì giết chết, còn Thần Khí làm cho sống động (x. 2Cor
3, 6).
- Nước được coi như yếu tố “đại diện” của
Thần Khí. Nước không có hình dạng nào cố định, nên vừa khớp mọi khuôn, đồng thời
vượt trên mọi khuôn. Không gì ngăn nổi nước, cũng như không gì ràng buộc được
nước. Nước thành mọi dạng, nhưng không hề biến dạng, mà vẫn nguyên vẹn là mình.
Nước giữ cái cốt yếu là nước, chứ không câu nệ tiểu tiết, nên nước dung hợp được
với tất cả. Nước tùy nơi mà hóa sinh, tùy lúc mà ứng biến. Cái “tùy” của Thần Khí là luôn luôn phát xuất từ ý định và đường nẻo
của Ba Ngôi Thiên Chúa.
“Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy." (Ga 3, 8): hành động của họ không
bị thúc đẩy bởi bất cứ nguyên do nào khác, ngoại trừ vì tình yêu mến Thiên Chúa và tùy vào ý muốn của Ngài.
Trong sự tự do chân thật và hướng đến thiện toàn như vậy, con người mới được giải
thoát khỏi chính mình, và khỏi những truy cản của những đam mê trần tục. Cũng
trong tinh thần như vậy mà thánh Augustinô nhủ bảo: “Ama et fac quod vis. Hãy yêu và làm điều anh muốn”.
♦ Hiền hậu và khiêm nhường trong lòng (Mt 11, 29)
Con đường sống Đạo tự
nhiên như Nước của Lão Tử cho ta một hình ảnh về phương thức hành động thật dịu
dàng, mềm mại, nhưng lại chứa đựng một tinh thần thâm sâu, vững vàng, và âm thầm
chuyển vận một sức sống vô biên trong lòng vạn vật. Điều đó càng làm nổi bật
con người Đức Giêsu với lời kêu gọi sống tính cách hiền hậu và khiêm nhường như
Ngài (x. Pl 2, 6-8). Để được như vậy, ta phải học cách nhìn nhận bản thân một
cách đúng đắn và chân thành. Nếu không biết hiền hậu và khiêm nhường, chúng ta
sẽ bị "cái tôi" làm lu mờ và bị cuốn theo những tham vọng cá nhân. Tính cách hiền hậu và khiêm nhượng chỉ có thể bắt nguồn từ một tấm lòng yêu
thương vô giới hạn, để trước tiên có khả năng xóa mình đi, hầu có thể dung nạp
mọi sự và đạt tới bậc chân nhân. Lão Tử đã diễn đạt cụ thể việc tự xóa mình như
sau:
“Bất
tự kiến, cố minh. (Không tự cho mình là biết, nên thông suốt)
Bất tự thị, cố chương. (không tự cho mình là phải,
nên rạng ngời)
Bất tự phạt, cố hữu công. (không tự phụ có công, nên được
tuyên công).
Bất
tự năng, cố trưởng. (không khoe mình, nên đứng hàng đầu).
Quả thật, khiêm
nhường là hàng rào bảo vệ tốt nhất cho chúng ta tránh khỏi bờ vực của thói kiêu
căng và tự mãn. Nó cảnh báo trước cho ta biết mọi khả năng có thể xảy ra, giúp
ta có thể chuyển từ khả năng thất bại sang cơ hội chiến thắng.
Khiêm nhường là thành quả của lòng tự
trọng. Một người khiêm nhường không bao giờ sợ bị tổn thương hay mất mát. Nếu
chúng ta muốn một điều gì đó luôn tồn tại trong bản thân mình thì không ai và
không điều gì có thể tước đoạt được sức mạnh nội tâm đó. Nhờ nảy sinh từ sự yên
ổn nội tâm, khiêm nhường khiến chúng ta trở nên cởi mở, hợp tác và sẵn sàng tiếp
nhận, học hỏi những suy nghĩ cũng như ý tưởng mới.
Khiêm nhường là bằng chứng của sự tự chủ,
của khả năng chiến thắng "cái tôi" và sự sở hữu - những thứ có thể đẩy
một cá nhân vào vòng quay của trò chơi quyền lực, từ đó đánh mất lòng tự trọng
và tình cảm trong các mối quan hệ. Đừng bao giờ hành động như thể chúng ta là
chủ nhân của bất cứ điều gì hoặc bất cứ ai. Quyền sở hữu tạo nên nỗi lo sợ bị mất
mát. Những người cho rằng họ đang sở hữu điều gì đó sẽ luôn mang tâm trạng nghi
ngờ, cảnh giác. Có một nghịch lý là khi ta không cố chiếm giữ, ta lại nhận được
mọi thứ.
Sự
khiêm nhường tuyệt đối được thể hiện ở chỗ chúng ta nhận ra và chấp nhận rằng
có những quy luật nằm ngoài luật lệ thông thường của con người. Chấp nhận những
quy luật siêu phàm không có nghĩa là suy nghĩ của chúng ta bị giới hạn hay bị
phủ nhận. Ngược lại, chúng cho phép chúng ta bộc lộ bản thân mình đầy đủ và rõ
ràng hơn. Chỉ trong sự hiền hậu và khiêm nhường, ta mới thực sự là chính mình
và mới có khả năng đạt tới cùng đích của đời mình. Đức Gioan Phaolô I nói rằng:
“Trên thiên đàng không thiếu những người
thu thuế và gái điếm, nhưng chắc chắn không có kẻ kiêu ngạo”.
Tuy rằng trong thực tế, người hiền hậu và
khiêm nhường luôn phải lãnh nhận những đau khổ, thiệt thòi và bất công, nhưng
không thể xác định chân giá trị chỉ dựa trên kiểu cách và cân đấu của trần
gian. Nếu chỉ nhìn thực tại con người qua những gì trước mắt, thì rõ ràng quyền
lực và sức mạnh áp chế luôn thắng thế. Vì vậy mà Đức Giêsu bị đóng đinh,
Stêphanô bị ném đá, và những người nối tiếp các Ngài bị coi là điên rồ. Chỉ khi
nào người ta đứng trên quan điểm tinh thần và chân lý, mới thấy được giá trị
tuyệt đối của hiền lành và khiêm nhượng. Cũng như thẩm định giá trị thành bại
trong nhãn quan con người toàn diện và vĩnh cửu, mới thấy được sức mạnh của nội
tâm. Và như vậy, càng khiêm nhường ta càng trở nên tự do và trưởng thành trong ơn
thánh Chúa.
♦ Tự do buông theo ân sủng
Thánh Gioan Thánh giá cho biết, con chim dù chỉ buộc bằng
sợi chỉ cũng không thể bay bỗng
được. Trong đời sống thiêng liêng, sợi chỉ mảnh mai ấy có thể là một tiểu tiết,
một thói quen, một nết xấu nhỏ, một nề nếp, một thành kiến hay một kiểu cách cố
định nào đó…
Để được tự do thì phải biết từ bỏ, đó là đòi hỏi đầu tiên của
Chúa Giêsu đối với những ai muốn theo Ngài (x. Mt 16, 24). Còn dính bén, còn
bám níu và luyến tiếc thì phải đành thúc thủ (x. Mt 19, 22) Không chỉ từ bỏ hết
những gì mình có, mà còn từ bỏ chính mình. Tận cùng của từ bỏ còn phải là bỏ
chính sự từ bỏ, nghĩa là không còn vấn vương chi ngoài điều chính yếu là chính
Thiên Chúa.
Từ bỏ để “buông theo ân sủng”, để mình rơi theo đà của Thánh
Thần. Buông mình chứ không buông xuôi. Buông mình là thái độ can đảm dứt mình
ra khỏi chính mình mà không biết rơi vào đâu, chỉ còn tùy thuộc vào tác động của
Thánh Thần để ứng biến và sinh động trong mọi lúc. Nói thế không phải là không
có đường hướng và nguyên tắc hành động của chính mình, nhưng rồi phải luôn biết
lắng nghe và sẵn sàng rời bỏ để hành động theo sự hướng dẫn và soi sáng của
Thánh Linh. Còn buông xuôi là ù lì, là rập khuôn, là theo thói quen, theo thành
kiến và dư luận. Dư luận có nội gián là sự lười biếng và hèn nhát của tôi. Thói
quen và thành kiến là do qui luật lặp lại (répétition) của vật chất và xác thịt
tạo thành.
Từ bỏ để được tự do bao giờ cũng phải đối mặt với kẻ thù sâu
ẩn nhất là cái Tôi và mặc cảm của cái Tôi. Mặc cảm cái Tôi là điểm qui chiếu của
mọi mặc cảm, để từ đó phát xuất cái gọi là ý riêng (volonté propre). Khi cái
Tôi chịu buông mình theo ân sủng thì ý riêng cũng không còn lý do để tồn tại. Khi
ý riêng không còn nữa, thì ý Chúa hình thành và lớn lên trong tôi: là cái Tôi của
con người Đức Giêsu Kitô trong sự hiệp nhất với Ba Ngôi Thiên Chúa (x. Gl 2,
20). Vì tin vào tình yêu, nên tình yêu là chính sức mạnh để tôi dám buông mình.
Và vì dám buông mình nên tôi rơi vào vòng tay của Đấng là Tình Yêu.
Nước quả là hình ảnh thật ngoạn mục và kỳ diệu để giúp ta
làm nên một linh đạo tu thân. Nhờ đó ta có thể sống một sự sống dồi dào mà Chúa
Giêsu đã mang đến (Ga 10, 10), và Ngài đang làm triển nở sự sống đó nơi mỗi người,
nhờ Chúa Thánh Thần, để đưa đến thành toàn và sung mãn nơi Chúa Cha.
Lạy
Chúa, qua thiên nhiên Chúa cho con người những hình ảnh thật kỳ diệu để phản ảnh
sự thần diệu của Chúa. Chúa đã đặt sẵn biết bao điều lạ lùng trong thiên nhiên
để hỗ trợ đời sống chúng con về mọi mặt. Đúng là “kho trời chung mà vô tận của
mình riêng”. Xin cho con biết tận dụng để phong phú hóa cho sự thành toàn của
mình trong Chúa.
Chỉ có lòng yêu mến sự
thiện hảo mới không ngừng thôi thúc con biết khám phá ra những nét tinh túy mà
Chúa đã làm ra cho con người nơi mọi sự.
Tất cả vạn vật như
đang mời gọi con mở lòng mình ra để chiêm ngắm dáng vẻ huyền diệu của Chúa, Đấng
đang ngỏ lời với nhân loại, với từng con người qua mọi giây phút sống.
Xin đừng để con chấp
mê theo lối sống cũ kỹ của riêng mình, nhưng hãy nhẹ nhàng và thanh thoát như
dòng nước để chuyển mình; để gạn đục khơi trong; để rửa sạch những bợn nhơ, để
đi tới và lan tỏa; để đón nhận và chuyển thông một sức sống mới cho đời, một cuộc
đời luôn đầy tràn tình thương và ân sủng Chúa.
Xin cho con biết hòa
mình vào dòng nước trường sinh mà Chúa đã thanh tẩy cuộc đời con, để từ đây con
không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì con.
Amen.
Lm. Thái Nguyên