SUY GẪM VỀ SỰ CHẾT
“Đối
với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi”. (Pl
1, 21)
Ngay khi còn sống, con người đã mang trong mình sự chết,
vì thế mà con người sẽ phải chết. Chết là một kết thúc của ta trong cuộc sống
này, và mọi cái ta sở hữu cũng đều chấm dứt. Thật là một tư tưởng cay đắng cho
những ai chỉ biết vui hưởng của cải trần gian, nhưng lại là một viễn tượng đáng
khát vọng cho những người sống cơ cực (x. Hc 41, 1). Sự chết nhắc nhở ta về bản
chất thật ngắn ngủi, thật mong manh phù du của đời sống con người trên dương
thế. Đứng trước định mệnh khắt khe đó, người ta dễ có một nhận định sầu thảm
đôi khi sinh ra một thất vọng chán chường (x. Sm 12, 23). Tuy nhiên sự khôn
ngoan chân thực thì vượt xa nhận định ấy khi nhận biết thân phận mình nằm trong
vòng tay Thiên Chúa. Điều đó giúp ta khám phá ý nghĩa sự sống đích thực qua sự
chết. Khi nghĩ đến những người đã chết, chúng ta cũng phải nghĩ tới cái chết
của chính bản thân mình. Đó là chuyến đi cuối cùng, một chuyến đi quyết định và
quan trọng hơn tất cả, chuyến đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại.
1. Những quan niệm về sự chết ngoài Kitô giáo
Về
phương diện triết lý, mỗi trường phái triết học có một ý niệm về sự chết khác
nhau tùy theo nhân loại học của họ:
- Các thuyết duy vật đều quan niệm cái
chết là một hiện tượng tự nhiên, thuộc quy luật sinh lý, tức là việc tiêu tan
các yếu tố lý hóa đã khiến cho thân thể sống động.
- Lập trường của các sinh-hoạt-thuyết
(Vitalisme) chấp nhận một nguyên tắc sinh
hoạt không có bản ngã. Họ cho rằng, chết là cái nguyên tắc đó trở về với nguyên tắc sinh hoạt của vũ trụ. Chẳng
hạn, Bà-la-môn giáo cho rằng, chết là trở về với Brahman, tức là hồn của vũ
trụ. Mạnh Tử cũng cho rằng, chết là hợp nhất với vũ trụ. Còn Hégel cho rằng,
chết là tan mất trong tinh thần tuyệt đối.
- Theo Nhị nguyên thuyết xuất phát từ
Platon, cho rằng chết là linh hồn được giải thoát khỏi nhà tù thân xác.
- Triết hiện sinh vô thần thì coi cái
chết cũng vô lý như sự sống vậy (J. Sartre).
- Có những chủ thuyết khác tránh né vấn
đề sự chết, chỉ lo sống thôi. Tránh né cũng là hình thức lo sợ, không dám tìm
hiểu, không dám đả động đến. Riêng Trang Tử coi cái sống và cái chết là lẽ tự
nhiên, bình thường và bình đẳng, nên ông chẳng xao xuyến gì trước cái chết,
thản nhiên ra vào cuộc đời: “Bậc chân
nhân không ham sống, không sợ chết, vào không vui, ra không buồn, thản nhiên mà
đến, thản nhiên mà đi”. Đối với ông, sống chết cũng giống như chuyện Được
Mất, mà Được là thời, Mất là thuận. “Thuận
Thiên giả tồn”, cứ theo ý Trời thì chẳng phải lo sợ gì.
- Trong Phật giáo,
chết được dùng để chỉ sự sinh diệt, thăng trầm của tất cả các hiện
tượng, các Pháp. Trong bộ luận Thanh tịnh đạo, vị Đại luận sư Phật Âm
(buddhaghosa) diễn tả như sau:
“Theo chân lý tuyệt đối thì chúng sinh chỉ hiện hữu trong một thời gian rất ngắn, một thời
gian ngắn như một khoảnh khắc của nhận thức (một ý niệm, Sát-na). Như một bánh xe, trong khi đang lăn
cũng như đang đứng yên, chỉ chạm đất ở một điểm duy nhất. Như thế, chúng sinh
chỉ sống trong một khoảnh khắc của một nhận thức. Nhận thức này (ý niệm) mất đi
thì chúng sinh đó chết”.
2. Kinh nghiệm cận tử
- Đức Đạt-lại Lạt-ma thứ 14
Vị này thường thuyết
giảng về khoảng thời gian cận tử và nêu rất rõ những hiện tượng mà các Du-già sư uyên thâm đều tự chứng được.
Chính Sư cũng bảo rằng, trong khi thiền định (khoảng 3-4 tiếng), Sư bước qua
lại ngưỡng cửa sinh tử 6-7 lần với mục đích trau dồi kinh nghiệm để chinh phục
được cửa ải quan trọng này. Sư trình bày như sau:
“Con người chết với một trong ba tâm trạng: thiện, ác và trung tính. Trong
trường hợp đầu thì người chết chú tâm đến một đối tượng thiện tính... và vì thế
tự tạo cho mình một tâm trạng đầy niềm tin sâu thẳm, khiến người ấy phát lòng
từ, bi, hỉ, xả vô lượng. Người này chỉ có thể thực hiện những đức hạnh nêu trên
khi họ đã từng trau dồi chúng trong lúc còn sống. Nếu trước khi chết mà người
ta có thể phát khởi những tâm trạng thiện trên thì một sự tái sinh hạnh phúc
hơn được xem như là chắc chắn.
Nhưng cũng có lúc thân quyến làm xao động tâm trạng của người sắp chết và
vô tình làm cho người ấy khởi tâm sân hận. Có khi thân quyến hội họp xung
quanh, khóc lóc than thở làm cho người ấy quyến luyến, tham ái. Nếu người ấy
chết với một trong hai tâm trạng trên, thì đó là một mối nguy lớn.
Cũng có người chết với một tâm trạng trung tính, nghĩa là không thiện không
ác. Trong mọi trường hợp thì tâm trạng trước khi chết rất quan trọng. Ngay cả
một người đã có chút ít tiến triển trên con đường tu tập cũng có thể không tự
chủ, để tâm tán loạn trước khi chết, khiến cho tham, sân, si nổi lên. Nguyên
nhân là những Nghiệp
(karma), những Chủng tử
(bīja) đã được tích luỹ từ lâu;
chúng chỉ chờ đợi những điều kiện thuận lợi để phát hỏa.. Như vậy người chết sẽ
bị tái sinh trong ba ác đạo: Súc sinh, Ngạ quỷ và Địa ngục... Tuy vậy, người nào bình thường chỉ biết làm những
việc ác nhưng chết với một tâm trạng thiện lành không còn mê chấp nữa, thì có
thể tái sinh trong một môi trường hạnh phúc hơn...
Cứ bình thường thì các tâm trạng và lối sống của một người là yếu tố quyết
định trong giờ phút chết. Vì thế mà trước khi chết, những tư tưởng đã đi sâu
vào cốt tuỷ của con người là tâm trạng chính, là yếu tố chính quyết định sự tái
sinh như thế nào...”[1].
- Các nhà nghiên cứu về
kinh nghiệm cận tử[2]
Nhà nghiên cứu có hệ
thống đầu tiên là William Barrett (1925), vừa là giáo sư vật lý vừa chuyên về
đời sống tâm linh. Vài thập niên sau có Karlis Osis và Hội nghiên cứu tâm linh
Mỹ (1959-1973), phối hợp với Haraldson ở Ấn Độ. Họ đã thu thập dữ liệu của hàng
vạn người về kinh nghiệm cận tử. Họ cho thấy rằng, hầu hết các trường hợp đều
có những đặc điểm chung, chẳng hạn như thấy ánh sáng tỏa ra, cảnh quang tuyệt
mỹ, trạng thái nhẹ nhàng, cảm giác vô cùng thanh thản, và gặp lại những người
thân yêu. Riêng trường hợp những người tin vào Đức Kitô, thì được gặp Đức Mẹ,
các Thánh, khiến họ vui mừng, hạnh phúc, không còn cảm giác đau khổ. Tuy nhiên,
trong số đó vẫn có một số người phản ứng với vẻ sợ hãi hoặc từ chối.
Cách chung, đối với những
người có cuộc sống tốt lành, thì nhãn giới phút cuối như được chuyển ra ngoài
cơ thể để nhìn thấy trước kiếp sau (xảy ra trong khoảng 1/3 nhãn giới phút
cuối). Thường là họ thấy những vườn hoa xinh đẹp cách kỳ lạ, trải dài bất tận.
Cảnh giới đó đi kèm với thiên sứ hay hồn ma người chết, và trong một số trường
hợp, có thể nghe tiếng nhạc từ trời cao vọng xuống. Trong thanh âm và màu sắc
rất sinh động như vậy, người hấp hối cảm thấy mình được nhấc bỗng lên. Từ trên
cao nhìn xuống, họ có một cảm giác an bình và hạnh phúc, rồi đi vào một đường
hầm tối đen, hướng về phía ánh sáng cuối đường hầm. Ánh sáng ấy giúp cho họ ôn
lại toàn thể cuộc đời, và không có đánh giá tiêu cực nào về hoạt động đã qua.
Cuối cùng, họ miễn cưỡng phải trở về với sự sống này.
Trong cuộc thăm dò ý kiến
vào năm 1982 của Gallup, cho thấy khoảng 8 triệu người lớn ở Mỹ quả quyết mình
đã trải qua kinh nghiệm cận tử như thế, mặc dù cảm giác mỗi người có khác nhau.
Đương nhiên, những cảm giác đó không thể chứng minh một cách khoa học. Tất cả
những gì được biết về hiện tượng đó đều dựa trên tài liệu mang tính giai thoại.
Có giả thuyết cho rằng
nhãn giới phút cuối chỉ là ảo giác, có thể do thuốc, sốt, bệnh, hoặc thiếu oxy,
hoặc mất cá tính gây ra. Tuy nhiên, những ảo giác phát sinh từ những yếu tố đó
thường liên quan đến hiện tại, chứ không liên quan đến kiếp sau. Hơn nữa, các
nhà nghiên cứu đã cho làm tất cả cuộc thí nghiệm như thế, đều xảy ra cách khác
chứ không xảy ra giống như vậy. Ngoài ra, những người sau khi chết đi sống lại
như vậy, phần lớn họ đều hướng về sự phát triển tinh thần hay một đức tin mạnh
mẽ, vì biết kiếp sau có thật. Hầu hết những người đó đều khám phá ra mục đích
mới và tích cực đối với cuộc sống của mình, tìm thấy ý nghĩa cuộc sống mà trước
đây họ không thấy, hoặc xem thường.
Nhãn giới giới phút cuối
rất quan trọng đối với môn nghiên cứu cái chết, vì chúng chứng minh rằng, cái
chết không phải là sự hủy diệt mà là sự chuyển tiếp tuyệt vời cho những ai đã
tích cực sống thiện hảo. Cái chết như vậy là một nghi thức quá hải được trải
qua trong ý thức và chân giá trị.
3. Nguồn gốc sự chết và sự sống lại trong Kitô giáo
Công đồng Vat. II đã nói lên tình trạng của con người trước cái
chết như sau: “Trước cái chết, bí ẩn về
thân phận con người lên tới tột độ. Con người không những bị hành hạ bởi đau
khổ và sự tiến dần đến tan rã của thân xác, mà hơn thế nữa, còn bị dày vò bởi
nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời... Mọi cố
gắng của kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể làm nguôi được nỗi lo âu của
con người: bởi vì đời sống sinh vật, dù có được kéo dài thêm đi nữa, cũng không
thể thỏa mãn được khát vọng một cuộc sống mai hậu đã được in sâu trong
lòng con người.
Trước
cái chết, óc tưởng tượng của con người đành bất lực. Nhưng Giáo Hội, được Mạc
khải của Thiên Chúa dạy bảo, quả quyết rằng con người được Chúa dựng nên để đạt
tới cứu cánh hạnh phúc sau những khổ cực trần thế này. Hơn nữa, đức tin Kitô
giáo còn dạy rằng giả như con người không phạm tội, thì đã không phải chết; sự
chết này sẽ bị đánh bại khi Đấng Cứu Thế toàn năng và nhân ái mang lại cho con
người sự cứu rỗi mà vị tội lỗi, họ đã đánh mất. Bởi vì Thiên Chúa đã và đang
kêu gọi con người đem toàn thân kết hợp với Ngài trong sự hiệp thông vĩnh viễn
vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã đem lại chiến thắng ấy khi
Người sống lại và nhờ cái chết của Người, Người đã giải phóng con người khỏi sự
chết. Vậy đức tin với những lý chứng vững chắc đem lại giải đáp cho bất cứ ai
khắc khoải ưu tư về số phận tương lai của mình. Đồng thời đức tin còn cho con
người khả năng hiệp thông với những anh em thân yêu đã chết trong Chúa Kitô, và
làm cho họ hy vọng rằng những người ấy đã được sống thực sự nơi Thiên Chúa”
(GS 18).
Thật vậy, để giải thoát ta khỏi quyền lực Thần chết,
trước tiên Đức Kitô đã đến để nhận lấy cho mình số phận tử vong của chúng ta. Ngài thực hiện thánh ý
của Chúa Cha là muốn cứu độ tất cả mọi người. Ngài đã chết “vì chúng ta” (1 Tx
5, 10), “cho tội chúng ta” (1Cr 15, 3) để làm hy tế xá tội (x. Dt 9). Nhờ cái
chết của Ngài, chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa x. Rm 5, 10), hầu có thể
lãnh nhận gia nghiệp muôn đời (x. Dt 9, 15). Ngài đã chiến thắng tử thần bằng
sự phục sinh vinh hiển (x. 1Cr 15, 4), nên quyền lực của Thần chết từ đó đã bị
vô hiệu hóa (x. Rm 6, 9). Kể từ giây phút đó, tương quan của con người với sự
chết đã thay đổi, vì từ nay Đức Kitô chiến thắng sẽ luôn chiếu soi “những người
ngồi trong bóng sự chết” (Lc 1, 79).
Qua việc phục
sinh, Ngài trở nên thủ lãnh của một nhân loại mới (x.1Cr 15, 45), vì Ngài đã
mang tất cả chúng ta đi vào cái chết và sự phục sinh của Ngài. Tuy nhiên, cái
chết để được phục sinh này của chúng ta còn phải là một thực tại hiện hữu cho
mỗi cá nhân, vì không ai có thể bước vào cõi sống mà không chết đi cho chính
mình từng ngày trong cái chết của Đức Kitô để được sống lại như Ngài (x. 2Tm 2,
11).
4. Bài học sâu xa từ sự chết
Không có một đức tin sâu xa, thì cái chết quả là điều
kinh khủng, đáng lo sợ, vì không biết cuộc đời mình sẽ đi đâu, về đâu? Do đó, nhiều
người muốn tránh né, không muốn nghe hoặc không muốn nói đến sự chết. Léo Buscaglia, một chuyên
viên dạy về tình yêu và cuộc sống, chia sẻ tâm trạng của ông khi nghĩ về sự
chết như sau:
“Chúng ta phải bắt tay
làm hòa với sự chết để chọn lấy sự sống, vì sự chết là một người bạn thân thiết
với chúng ta. Nó cho biết những gì chúng ta không thể giữ lại được mãi cho
mình. Và nếu bạn muốn sống, thì nên sống trọn vẹn ngay từ bây giờ...
Nếu
bạn đã sống mọi khoảnh khắc mà Chúa ban cho bạn, thì bạn sẽ không than van khóc
lóc khi cái chết đến... Những người đã chết một cách hạnh phúc là những người
từng nỗ lực để sống.
Sự
chết là một thách đố. Nó nhắc nhở chúng ta đừng bỏ phí thời giờ. Nó chỉ cho
chúng ta phải lớn lên và phải trở nên như thế nào. Nó dạy cho chúng ta biết yêu
thương nhau, và phải biết dâng hiến chính mình ngay từ bây giờ...Dầu chúng ta
không hiểu gì về sự chết, nhưng điều đó cũng chẳng cần thiết gì. Điều thiết yếu
là phải sống bức thông điệp mà sự chết nhắn gởi cho chúng ta”.
Thật vậy, suy gẫm về sự chết là điều
cần thiết, giúp ta biết quan tâm hơn đến cuộc sống: làm thế nào để yêu, để tha
thứ và để chấp nhận; làm thế nào để tránh những tội lỗi, những vấp phạm, và chỉ
còn muốn sống cho Chúa cách trọn vẹn để phụng sự Ngài và phục vụ tha nhân; làm
thế nào để khẳng định về chính mình như thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Vì thế, “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình
yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 39).
Chỉ có chết trong tội mới tách rời chúng ta ra khỏi Chúa, còn chết trong Chúa là
một giải thoát, đưa chúng ta vào sự sống viên mãn của Ngài.
5. Tận tình với sự chết, nhiệt
tình với sự sống
Theo tiếng Latinh, người
chết = defungi: là người đã vĩnh viễn hoàn tất đời mình. Là người Kitô hữu,
chúng ta phải biết đón nhận sự hoàn tất đó với một tâm hồn bình an cao cả, vì
mạc khải Kitô giáo đã cho biết rằng cái chết như cánh cổng to lớn mở vào thánh
điện an vui vĩnh hằng. Như thánh Phaolô đã xác định: vào ngày cuối cùng, cái hư
hoại trong ta sẽ trở nên bất hoại, cái khả tử sẽ nên bất tử (x. 1Cor 15, 53).
Chúng
ta tin rằng Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ là cái chết, nhưng chúng ta cũng biết
rằng, Ngài không chiến thắng cái sự dữ gây ra ở trong ta. Nhờ Đức Kitô, trong
hy vọng thì tất cả đã thành đạt, nhưng trong thực tế, ta vẫn phải chịu đựng
những bất hạnh. Niềm tin và hy vọng không diệt nổi bản năng sinh tồn, nhưng nó
đem lại một tâm tình đón nhận bình thản và an vui: “Tôi chết vui cũng như đã sống vui”. Trong tâm tình đó R. Tagore đã
cất lên:
“Ôi! Thần chết,
ngươi làm cuộc đời tràn đầy lần cuối ...
Những gì ta là,
những gì ta có, những gì ta hoài mong, những gì ta yêu thương, tất cả vẫn sâu
xa bí mật trôi chảy về ngươi.
Chỉ một ánh nhìn từ mắt ngươi lần cuối
là đời ta vĩnh viễn thuộc về ngươi.
Hoa đã kết thành tràng, sẵn sàng chờ
đợi tân lang.
Sau tiệc cưới, giai nhân sẽ rời nhà,
một mình ra đi gặp tân lang trong đêm
tối quạnh hiu”[3].
Trong một đoạn thơ khác, Tagore
lại cảm nhận như sau:
“Ban mai, ngước mắt nhìn ánh sáng, trong phút giây, tôi cảm thấy mình không
phải khách lạ ở thế gian, và Người xa lạ không tên gọi, không hình thù, với
dáng dấp mẹ tôi hiền từ, đã giang tay ôm tôi vào lòng.
Lúc lâm chung cũng vậy, Người lạ mặt ấy
lại hiện ra như đã từng quen thuộc với tôi từ lâu.
Bởi yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự
chết.
Khi mẹ giằng con ra khỏi bầu vú bên
này, con òa khóc, nhưng liền đó lại thấy nguồn an ủi ở bầu vú bên kia.
Ôi Thượng Đế, kính lạy Người lần cuối.
Như đàn hạc hoài hương, ngày đêm hối hả
bay về tổ ấm trên núi cao, xin cho đời tôi phiêu du tới quê hương vĩnh cửu ngàn
thu”[4].
Quả thật,
một cái nhìn đầy lạc quan và hy vọng, một sự cảm nhận thâm sâu về thực tại vĩnh
cửu ngay bên cạnh giờ phút lâm chung: “Bởi
yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự chết”.
Chúng ta tin rằng: “Trong một giây lát, trong một nháy
mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên, những kẻ chết sẽ trỗi dậy mà không còn
hư nát ; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cr 15,52). Tuy nhiên, phải tin trong sự
chờ mong từ cơn đau quằn quại để sinh hạ chính mình, cũng như toàn thể tạo vật
đang rên siết để chờ ngày cứu độ (x. Rm 8, 22). Những đau khổ ở đời này chẳng
là gì so với vinh quang sẽ dành cho ta trong cõi vĩnh hằng (x. Rm 8, 18), và đó
là một tiến trình tối cần để khai sinh sự sống. Tiếp nhận cái chết như một điều
tự nhiên nhất để làm nẩy sinh điều siêu nhiên nhất: đó là sự phục sinh đời sống
vốn đã được khắc họa trong ta qua Phép Rửa: “Vì được dìm vào trong cái
chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như
Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì
chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,4). Dưới cái nhìn đó, người Kitô hữu được
định nghĩa cách đơn giản là người “tận
tình với sự chết, nhiệt tình với sự sống” (Pierre Talec).
Chính vì
thế mà không ai có thể đón nhận cái chết thể lý trong niềm hy vọng phục sinh mà
lại không cất cao đầu và mở rộng con tim để vượt qua cái chết cho chính mình
vốn đã hàm ngụ nơi cuộc sống như thất bại, bị hiểu lầm, bị bỏ rơi, bị loại trừ
và khinh thị... Hơn nữa, cần phải giải phóng mình khỏi những gì biến mình thành
tù nhân của chính mình, ngõ hầu có thể yêu mến cuộc sống một cách thân thiết
ngay bây giờ. Yêu mến cuộc sống là điều không dễ dàng khi cuộc sống đầy bi đát,
tàn bạo, xung khắc... Khi đó người ta dễ nhìn vào những bất tất của đời thường
như một cái gì phi lý, vô nghĩa, không còn đáng sống. Nhưng nếu chết để mà chết
thì chẳng bao giờ là giải thoát.
Sự sống
không đơn độc như ta tưởng, vì sự sống đã kết hôn với sự chết. Chết và sống là
cặp bài trùng của cuộc hiện hữu nhân sinh. Cặp bài trùng này buộc ta phải
thường xuyên chiến đấu để đạt tới con người trưởng thành, con người mới trong
Đức Kitô (x. Cl 4, 12). Con người mới không chỉ là con người nội tâm vươn tới
chiều kích linh thánh, mà cả con người bên ngoài, trong mọi quan hệ với xã hội.
Phải biết nương tựa vào sự soi sáng và sức mạnh của Thánh Linh để chống lại sức
bành trướng của sự chết đang ngự trị trong thế giới dưới nhiều hình thức.
Kết luận
Khi sinh ra, con người là một bản thể phải chết, nhưng khi
chết thì con người sống mãi. Con người là bất diệt, không chỉ vì linh hồn không
thể bị phân hủy, nhưng vì chết là được mời gọi đến sự hiệp thông trong tình yêu
muôn đời với Chúa Ba Ngôi. Đó là ấn tích đã được Thiên Chúa khắc sâu vào bản
thể con người khi tạo dựng. Tính bất diệt của con người đã có trong tự bản chất
nhờ ơn cứu độ của Đức Kitô: “Ai tin vào Ta sẽ không chết bao giờ” (Ga
11, 26).
Như vậy, theo kế hoạch của Thiên Chúa, cái chết của con
người không mang tính chết chóc, nhưng là một định hướng cho cuộc sống mới. Là
người Kitô hữu, chúng ta “chết cho Chúa” cũng như đã sống cho Ngài (x. Rm 14,
7). Nhờ cái chết, chúng ta “tôn vinh Thiên Chúa” (Ga 21, 19) để đáng hưởng
triều thiên sự sống (x. Kh 2, 10). Từ nỗi khắc khoải không thể tránh được, sự
chết trở nên một đối tượng của toàn phúc: “Phúc thay những kẻ chết trong Chúa”
(Kh 14, 13), vì nhờ đó Chúa đưa chúng ta đến nơi an nghỉ muôn đời, đến miền ánh
sáng vô tận.
Đó là lý do tại sao chết là một mối lợi, vì Chúa Kitô chính
là sự sống của chúng ta (x. Pl 1, 21). Trong niềm vui lớn lao đó, thánh Têrêsa
hài đồng đã xác quyết: “Tôi đâu có chết,
tôi bước vào sự sống”. Đức Giêsu đã trả lại cho cái chết sự vô tội của vườn
địa đàng cho những ai tin vào Ngài. Đó là cánh cửa đưa tới hạnh phúc ngàn thu cho
chúng ta là những con cái của Thiên Chúa.
Lạy Cha là Thiên Chúa, Đấng tác tạo con người và mọi loài, và là sự
sống muôn đời của con! Con hạnh phúc biết bao vì được kêu gọi nhận biết, tin
tưởng, và sống thuộc về Chúa.
Dù
biết mình phải chết, nhưng chết trong sự nhận biết, tin tưởng và yêu mến Chúa,
thì cái chết lại là cơ hội diễm phúc để con được sống với Chúa mãi mãi, là Đấng
con hằng khao khát khôn nguôi.
Để đón nhận cái chết cuối cùng trong
niềm hân hoan, con biết mình phải đón nhận cái chết từng ngày con người cũ của
mình, để học biết sống con người mới trong Đức Kitô, Con Cha, là Đấng đã chết
và sống lại vì con.
Đức Kitô là hy vọng duy nhất của đời
con trên con đường về nhà Cha. Ngài đang ở với con, sâu thẳm trong lòng con,
thân thiết hơn chính bản thân con, và đang dùng Thánh Thần của Ngài để biến đổi
đời con.
Ôi! Lạ lùng quá, tình yêu bao la vô
cùng của Chúa trên cuộc đời đầy hư nát của con. Con chẳng có gì đánh đổi trước
mầu nhiệm ân sủng lớn lao này, chỉ biết ca ngợi lòng thương xót Chúa trong từng
giây phút đời con.
Con chỉ biết chìm sâu trong Chúa mỗi
ngày, để được thanh tẩy mọi bợn nhơ và loang lỗ trong tâm hồn.
Xin dẫn bước nhân loại chúng con về
miền ánh sáng vô tận, nơi Chúa ngự trị và vinh hiển muôn đời. Amen.
Lm. Thái Nguyên
[1] Đạt-lại Lạt-ma trong Death, Intermediate State
and Rebirth in Tibetan Buddhism, Lati Rinpoche/Jeffrey Hopkins.
[2] Rosemary Ellen Guiley, Tự điển tôn giáo và các thể nghiệm siêu việt, NXB Tôn Giáo, 2005,
tr. 215-217; 585-587.
[3] Rabindranath Tagore, Lời Dâng, NXB Đà Nẵng, 2001, bài số 91, tr. 110.
[4] Đã trích, bài số 95
và 103, tr. 114 và 123.