THÔNG PHẦN ĐAU KHỔ VỚI
CHÚA
TRÊN THẬP GIÁ
“Eli! Eli! Lamma
sabacthani?” (Mt 27, 46)
Cái chết của Chúa Giêsu
trên Thập giá là một bày tỏ về tội lỗi của đời sống chúng ta. Mãi mãi Thập giá
là biểu trưng của sự độc ác của con người, là đỉnh cao của trí tuệ con người
trong việc sáng chế ra những phương thế hành hạ và loại trừ nhau, là bản án của
tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại. Nhưng Thập giá không chỉ là một mạc
khải về tội lỗi con người, mà còn là mặt trái của ánh sáng tình yêu: một tình
yêu kiên trung và tha thứ cho đến cùng.
Cần nhìn ngắm Thập giá Chúa Giêsu để cảm nghiệm được cái nhìn tràn đầy yêu
thương và trìu mến của Ngài trên cuộc đời mỗi người chúng ta. Qua đó, ta cũng
hiểu được sâu xa hơn mầu nhiệm thập giá của đời mình và của mọi người, đồng
thời khám phá ra ý hướng và cách thức mà Chúa đã chịu đau khổ, để nhờ đó, ta
biết tận dụng mọi khổ đau hầu được thông phần với Chúa mà cải hóa đời mình
trong tiến trình hoàn thiện.
Cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân Thập
giá, ta hãy để tâm hồn mình chìm lặng xuống, hòa nhập vào những nỗi thống thiết
của Chúa Giêsu. Hãy để cho ánh mắt đầy yêu thương và tha thứ của Ngài đốt cháy
tâm hồn giá lạnh vì tội lỗi và ích kỷ của ta.
1. Chúa Giêsu bị bỏ rơi.
Trong giây phút đau khổ tột cùng trên Thập giá, Chúa Giêsu đã kêu lên: “Lạy
Cha, lạy Cha, sao Cha bỏ con? (Mc 15, 34; Mt 27, 46). Sau khi chịu
những nhục mạ và những cực hình tàn bạo của con người, Chúa Giêsu cảm thấy bị
bỏ rơi đến mức tột cùng, cảm thấy một sự trống rỗng mênh mông: hoàn toàn vắng
bóng Thiên Chúa, không còn cảm giác về sự hiện diện của Cha, Đấng mà Ngài gọi
bằng Abba.
“Eli! Eli! Lamma sabacthani?”.
Tiếng kêu than này trong ngôn ngữ Do Thái phô diễn một mầu nhiệm kinh khủng về
sự kiện: Thiên Chúa từ bỏ Thiên Chúa. Thiên Chúa dường như đã không còn
là Thiên Chúa nữa khi Ngài bị tước đoạt trần trụi vì tội lỗi chúng ta. Kinh
nghiệm bỏ rơi cho thấy Chúa Giêsu đang ở mức độ tột cùng của mọi nỗi cô đơn: bị
loài người từ bỏ không nói chi, nhưng dường như cũng bị chính Thiên Chúa chối
từ. Thánh Gioan Thánh Giá cho biết: “Đó
là tình trạng bỏ rơi thê thảm nhất mà Chúa Giêsu cảm nghiệm trong cuộc sống
trần thế của Ngài… Theo thể thức ấy, Chúa Kitô bị hủy diệt và hầu như trở nên
hư không”.
Chúa
Giêsu đã từng chịu những nỗi đau khổ ê chề nhất mà cuộc đời có thể mang lại.
Cho tới lúc đó Ngài đã trải qua mọi kinh nghiệm của đời sống, nhưng kinh nghiệm
về hậu quả của tội lỗi thì Ngài chưa từng nếm mùi, vì là Đấng không hề biết đến
tội. Chính lúc trải qua những giây phút cuối cùng như hoàn toàn xa rời Thiên
Chúa, Ngài mới trải nghiệm thế nào là sự hủy hoại và độc hại của tội lỗi gây
ra. Trong giây phút kinh hoàng, đen tối và rùng rợn đó, Ngài đã xem như mình bị
đồng hóa mình với loài người tội lỗi, vì “Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của
tội lỗi vì chúng ta” (2Cr 5, 21). Đó là ý nghĩa việc Chúa chịu đóng
đinh giữa hai người trộm. Bảy trăm năm trước, Isaia đã nói tiên tri về việc
Chúa bị liệt vào số những kẻ bất lương (x. Is 53, 12). Thánh sử Luca cho biết
lời tiên tri đó đã ứng nghiệm: “Ngài bị liệt vào hàng những kẻ hung ác” (Lc
22, 37).
“Vị
xứng kỳ đức”: người công chính mà còn bị như thế thì sống đạo đức có ý
nghĩa gì? Vậy mà Chúa Giêsu lại sẵn sàng chịu những bất công, Ngài phải chịu
đồng cảnh ngộ với những tên gian ác, và phải lãnh lấy nhục hình và cách đối xử
tệ bạc nhất của con người dành cho Ngài. Kinh nghiệm chết gần như một người tội
lỗi gây nên đau đớn vô vàn, vì Ngài cảm thấy dường như bị xa lìa khỏi Chúa Cha.
Thật ra, Thiên Chúa vẫn có đó
như mặt trời vẫn soi sáng mỗi ngày, nhưng áng mây đen dầy đặc của tội lỗi nhân
loại đã che kín sự hiện diện của Đấng Toàn Năng. Dù Chúa Giêsu vẫn còn những
người thân yêu đứng bên cạnh, nhưng sự hiện diện của họ chẳng thể bù lấp phần
nào sự cảm nhận trống vắng Thiên Chúa trong tâm hồn. Điều đó cho ta hiểu rằng,
khi con người đánh mất Thiên Chúa là niềm ủi an duy nhất của đời mình, thì tình
trạng sẽ ra kinh khủng như thế nào?
Trong nỗi đớn đau và cô đơn
khủng khiếp, Chúa Giêsu đã đền tội cho ba hạng người: hạng người từ chối Thiên Chúa; hạng
người nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa; hạng người lãnh đạm với Thiên Chúa. Cả ba hạng người này đều hiển
hiện ít nhiều một cách nào đó trong lối sống của nhân loại chúng ta, và hậu quả
bi thảm của nó thật khôn lường:
- Khi từ chối Thiên Chúa, đời sống của con người trở thành hư vô, và
mọi sự trong đó chỉ còn phi lý và vô nghĩa, “cuộc đời đáng nôn mửa” (Jean Paul
Sartre).
- Khi nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa, con người trở nên nghi
ngờ chính mình. Không thể thiết lập tương quan với Thiên Chúa thì tương quan
với tha nhân chỉ còn là vá víu; ý nghĩa và giá trị cuộc sống bị lung lay; bản
thân con người dễ trở thành miếng mồi ngon cho sự dữ hoành hành.
- Khi đã lãnh đạm với Thiên Chúa thì cuộc sống và mọi cái trong đó
đều trở nên trơ trọi. Trong sự lãnh đạm đó, tình yêu không thể phát sinh, nên
hạnh phúc cũng không thể hình thành. Trong tâm trạng đó mọi cái đều trở nên vô
hồn, hoang vu và trống rỗng, và cuối cùng, con người là sự bế tắc cho chính
mình.
Quả thật, tiếng than thở của
Chúa Giêsu đã vang lên từ trong cô đơn sâu thẳm của lòng người, cho con người
và vì con người. Trong mức tột đỉnh đau khổ mà Con Thiên Chúa phải chịu đã mở
rộng trước mắt tột đỉnh tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta. Trong một kinh
nghiệm nồng nhiệt, Chị Chiara Lubich đã nói:
“ Để chúng con được ánh sáng, Chúa đã trở nên mù lòa.
Để chúng con được hiệp nhất, Chúa đã chịu xa cách Chúa Cha.
Để chúng con được khôn ngoan, Chúa đã trở nên “dốt nát”.
Để
chúng con được trở nên vô tội, Chúa đã trở thành người “tội lỗi”.
Để chúng con hy vọng, Chúa đã hầu như tuyệt vọng.
Để
Thiên Chúa ở trong chúng con, Chúa đã cảm nghiệm tình trạng bị bỏ rơi.
Để
chúng con chiếm hữu Thiên đàng, Chúa đã cảm nghiệm hỏa ngục.”
Hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu để ta
sống những biến cố đau thương trong cuộc đời mình. Nếu chúng ta cứ bám chặt lấy
Chúa, dù có những lúc dường như không có Chúa, dù khi đức tin đã hao mòn và sức
lực hầu như dần tàn, thì chính vào lúc cao điểm của mọi gian khó là lúc bình
minh ló rạng, là lúc ta vượt thắng.
-
Người chiến thắng
là người tin rằng Thiên Chúa vẫn ở với mình ngay lúc mình cảm thấy như Thiên
Chúa hoàn toàn vắng bóng.
-
Kẻ chiến thắng là
kẻ trải qua những kinh nghiệm cùng cực nhưng vẫn xác tín rằng mình vẫn đang nằm
trong vòng tay đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Đó là điều mà Chúa Giêsu đã sống
cách trọn vẹn khi thốt lên: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay
Cha” (Lc 23, 46). Chúa Giêsu đã
qui hướng mọi sự về Cha, đã trao phó tất cả cho cha, và cuối cùng dâng trong
tay Cha chính sự sống của mình, và qua đó cũng chính là sự sống của mỗi người
chúng ta. Rồi “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19, 30).
Tâm tình hiếu thảo của Chúa
Giêsu đã đạt đến mức độ tối hảo trong việc làm vinh danh Cha. Tình thâm nghĩa
thiết thật cao dày khôn sánh! Đẹp quá tình nghĩa Cha-Con thật thắm thiết đậm
đà: Cha được rạng rỡ nơi Con, Con được tôn vinh nơi Cha, và Thánh Thần là Tình
Yêu kết nối trong sự hiệp thông duy nhất. Nhiệm cục cứu độ là công trình tình
yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, muốn hiệp nhất mọi người nên một trong sự sống của
Thiên Chúa bây giờ và mãi mãi.
2. Chúa Giêsu hoàn tất mọi
sự
Sau cùng, trên Thập giá, Chúa
Giêsu kêu lên một tiếng lớn rồi trút linh hồn. Tiếng kêu đó in đậm trong trí
mọi người và nó được bốn sách Phúc Âm ghi lại. Gioan không dùng những từ đó,
nhưng cho biết trước khi chết, Chúa Giêsu đã cất lời: “Thế là đã hoàn tất” (Ga
19, 30). Câu này trong tiếng Hy Lạp chỉ có một chữ “tetelestai”, đó là tiếng reo vui của một người chiến thắng sau
trận chiến đấu; là tiếng hân hoan của một người đã hoàn tất công việc sau bao
gian khổ; là tiếng ca vang của một người đã vượt ra khỏi bóng tối để bước vào ánh
sáng. Tiếng kêu cuối cùng Chúa Giêsu trên Thập giá cho thấy Ngài đã chết như
một người chiến thắng sự chết, mở ra vinh quang sự sống cho tất cả những ai tin
và bước theo Ngài.
Thánh Gioan Thánh Giá quả quyết rằng: “Chính
trong lúc cùng cực nhất, Chúa Kitô đã hoàn tất công trình kỳ diệu nhất…Công
trình kỳ diệu ấy chính là sự hòa giải và kết hiệp nhân loại với Thiên Chúa bằng
ơn thánh”[1]. Thật vậy, cái làm cho chúng ta nên cao cả không hệ tại dự kiện chúng ta
là gì, mà hệ tại ơn thánh Ngài ban cho ta mà thôi.
Chúa
Giêsu đã hoàn tất mọi sự theo ý muốn của Chúa Cha trong kế hoạch cứu chuộc nhân
loại. Ngài đã làm tất cả những gì cần phải làm của một trái tim yêu thương đến
tận cùng. Ngài đã hoàn tất để chúng ta bước vào sự khởi đầu của một đời sống
mới. Tuy nhiên một cách thiêng liêng vô hình, mỗi linh hồn xa lạc vẫn còn là
một đồi Canvê hành hình, mỗi tội phạm vẫn là một Thập Giá mới treo thân Chúa
não nề.
3. Thập giá trong đời sống
của chúng ta
Trong mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa Ba
Ngôi, cho chúng ta xác tín rằng, trong giờ cùng cực Chúa Con cảm thấy bị bỏ
rơi, cũng là lúc Chúa Cha cùng sống cuộc khổ nạn với Con mình: vì Chúa Cha và
Chúa Con luôn là một với nhau và trong nhau ở mọi tình trạng. Chính Cha đau khổ
trong Con vì tình trạng vong thân cực độ của loài người do tội lỗi gây nên.
Biến cố thập giá thảm sầu là điều mà Cha muốn để biểu lộ tình yêu vô biên nơi
Con mình trong Chúa Thánh Thần, để cứu chuộc và hiệp nhất chúng ta lại trong
Ngài.
Như thế, một cách huyền nhiệm nhưng rất
thực tế, kinh nghiệm bị xa cách Chúa cũng bao gồm kinh nghiệm về sự hiệp nhất
với Chúa cách rất trọn vẹn. Cũng chính trong huyền nhiệm này, mọi đau khổ của
chúng ta được đón nhận và biến đổi, mọi trống rỗng được lấp đầy, và mọi tội lỗi
được cứu chuộc.
Tình yêu tột độ của Chúa Giêsu thúc đẩy chúng
ta sống mọi đau khổ như Ngài và trong Ngài. Chúng ta làm được điều này, nếu
biết nhìn nhận trong mọi đau khổ của bản thân và tha nhân là một bóng dáng đau
khổ vô cùng của Chúa. Mỗi khi đau khổ xuất hiện, chúng ta không xua đuổi và
tránh né, nhưng tiếp nhận nó trong thâm tâm, như thể chúng ta đón nhận Chúa.
Điều này đòi hỏi chúng ta quên mình để đáp ứng đầy yêu thương những gì Thiên
Chúa đòi hỏi trong giây phút hiện tại. Chỉ như vậy, tình trạng tâm hồn mới thật
sự thông thoáng, và rồi mọi đau thương cũng sẽ tan dần trong ánh sáng của tình
yêu, để lại một sức sống mới mà Chúa muốn làm nên.
Đau khổ nhất thiết cần phải có để phong phú hóa đời sống bản thân ta và tha
nhân. Sở dĩ Thiên Chúa để cho chúng ta chịu đau khổ cũng chỉ vì những điều tốt
đẹp có thể phát xuất từ chính những đau khổ đó. Nỗi đau khổ có thể đưa chúng ta
đến gần Ngài hơn. Qua đau khổ, chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh và tình yêu
của Ngài, và là một cách Chúa cho chúng ta được hiệp thông trong chương trình
cứu độ của Ngài. Bởi vậy, từ chối đau khổ là từ chối chính Chúa, Đấng đang hiện
diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Cho dù chúng ta không chấp nhận đi nữa
thì đau khổ vẫn xảy ra theo qui luật tự nhiên, như một phương thế để làm triển
nở đời sống. Chính vì không muốn đón nhận
đau khổ nên ta mới thật sự đau khổ. Nhưng nếu chỉ đón nhận nó cách bất đắc
dĩ, thì trái ngang và oan khiên vẫn còn đó. Khi không đón nhận nó với lòng yêu
mến Chúa, đời sống chúng ta mới thật sự là nghiệt ngã và bế tắc.
“Khi nêu cao giá trị của
mỗi đau khổ như thể chúng là một trong vô số khuôn mặt của Chúa Giêsu chịu đóng
đinh và khi kết hiệp những đau khổ ấy với đau khổ của Ngài, chúng ta ta mới
bước vào sức năng động của đau khổ-yêu thương, để tham dự vào ánh sáng, sức
mạnh, an bình của Chúa, và tìm lại được trong chúng ta một sự hiện diện mới mẻ
và sung mãn hơn của Thiên Chúa”.[2]
Chính trong kinh nhiệm đó mà ta không bao giờ ngừng yêu mến tất cả mọi
người, không bao giờ loại trừ một ai khỏi tâm hồn ta, cho dù ta bị đối xử một
cách bất công và tệ bạc. Tất cả cũng chỉ là mặt trái của một tình yêu không
được đáp trả mà thôi. Khi tình yêu lên tiếng thì mọi sự cũng bắt đầu chuyển biến
khác đi theo hướng tích cực của nó. Người khác chỉ mềm lòng khi đứng trước một
con người mang khuôn mặt và tâm tình của Đức Kitô, nhất là tới mức đồng hóa với
Đức Giêsu trên Thập giá, đến độ có thể nói được như Thánh Phaolô: “Những
gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ
mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1, 24). Chính trong ý hướng đó mà ta có thể kết hiệp mọi đau
khổ của mình với đau khổ của Chúa trên Thập giá để trở nên dụng cụ của ơn cứu
độ.
Con
người và Thập giá là hai hình ảnh không thể tách rời trong cuộc sống nhân loại.
Ngày nào con người còn, là Thập giá còn. Con người không thể coi Thập giá như
sự đối chọi nghiệt ngã của đời sống mình, nhưng phải coi như một sự tương tác
để tồn tại và hình thành chính mình trong một sự sống mới mà Chúa Giêsu đã làm
nên. Con người và Thập giá, tuy không tương đồng tương ứng, nhưng tương khắc
tương sinh theo cách thức của Thiên Chúa.
Chúa
Giêsu đã rời khỏi Thập giá để cho ta bước lên: không phải Thập giá của hận thù,
nhưng là Thập giá của tình yêu; không phải Thập giá của người tử tội bị ruồng
bỏ trong cô đơn, nhưng là Thập giá của người công chính được ôm ấp vào lòng của
Thiên Chúa. Đó là Thập giá của niềm vui và ân phúc, thập giá của tin yêu và hy
vọng, vì được hiến thân cho người mình yêu.
Theo ý
nghĩa đó trong cuộc đời ta, nếu có ngày thứ sáu thụ nạn, sẽ có Chúa Nhật Phục Sinh;
nếu có tủi nhục, sẽ có vinh quang; nếu có chiến đấu, sẽ có chiến thắng; nếu có
khao khát, sẽ có no thỏa; nếu dám chết đi, sẽ được sống lại. Chúa sẽ thực hiện
và bảo toàn mọi diễn biến đó trong cuộc đời ta, chẳng có gì phải lo sợ. Có ai lại lo sợ khi tin rằng mình được Chúa
yêu thương.
Chúa Kitô chịu đóng đinh là niềm hy vọng của tất cả chúng ta. “Bởi
vì, nếu chúng ta chịu đau khổ nhiều với Chúa Kitô, chúng ta cũng sẽ được chứa
chan niềm an vui của Ngài” (2Cr 1, 5).
Nhờ Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu,
và trong Chúa Giêsu, chúng ta hãy hân hoan phó thác cuộc đời mình cho lòng
thương xót của Thiên Chúa, với tất cả lòng tin tưởng, yêu mến, thờ lạy và cảm
tạ đến muôn đời. Amen.
Lm. Thái Nguyên
[1] Gioan Thánh Giá, Salita
[2] Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, 2000, tr.
152.