KHÔNG CÓ NGÀY CỦA CHÚA, CHÚNG TÔI KHÔNG THỂ SỐNG ĐƯỢC

Timothy Radcliffe, o.p

 

Một Ngày Chúa Nhật năm 304, ở Bắc Phi, một số anh chị em Kitô hữu bị bắt vì đã họp nhau để cử hành Thánh Thể. Khi viên tổng trấn tra hỏi người anh em có tên là Emeritus, người chủ nhà, rằng tại sao anh lại cả lòng cho phép những người ấy tụ tập ở nhà mình, anh trả lời rằng những người ấy là những người anh em và những người chị em của anh. Bấy giờ, viên tổng trấn nghiêm giọng bảo lẽ ra anh phải cấm không cho họ vào nhà mình mới phải. Nhưng anh Emeritus trả lời rằng anh không thể làm như thế được, “quoniam sine dominico non possumus”. Câu tiếng Latinh này từng được người trước đây còn là Hồng y Joseph Ratzinger dịch ra như thế này : “Vì không có Ngày của Chúa, chúng tôi không thể sống được”. Và Đức hồng y bình giải : “Đối với những người ấy, đây không phải là vấn đề lựa chọn giữa một lệnh truyền này với một lệnh truyền kia, nhưng là một sự lựa chọn giữa tất cả những gì đem lại ý nghĩa và nền tảng vững bền cho cuộc đời với một cuộc đời mất hẳn ý nghĩa”[1]. Như thế, việc cử hành Ngày của Chúa góp phần giúp chúng ta hiểu rõ điểm dị biệt mà đức tin Kitô giáo đem đến cho cuộc đời của một con người.

Trong Law, Love and Language, Herbert McCabe từng viết rằng mệnh lệnh truyền phải giữ ngày sabát và việc cấm không được lao động vào ngày ấy “nhằm vào việc thờ ngẫu tượng là việc làm. Cũng hệt như các ngẫu tượng khác, “do tay người phàm làm ra”, việc làm luôn luôn có thể trở thành một ngẫu tượng, một phương cách để vong thân [ … ]. Ngày sabát có đó để ngăn cản bạn khỏi bị nhận chìm bởi cái ham muốn thành công, để ngăn cản bạn khỏi trở thành nô lệ của sự tăng gia sản xuất và thu quén lợi nhuận”[2]. Trong một thế giới mà nhiều người tìm kiếm trong việc làm ý nghĩa cho cuộc hiện hữu của họ, thì cái họ làm ngoài những việc làm là không quan trọng cho lắm : người ta không làm việc để có thể nghỉ ngơi, vào một khoảnh khắc nhất định nào đó ; người ta nghỉ ngơi là để có thể tiếp tục làm việc ; và điều người ta làm trong thời gian tự do của mình, tức là ngày sabát của họ, không quan trọng trừ phi là để có thể lại tiếp tục làm việc, vào sáng ngày thứ hai, trong tư thế tốt hơn. Tôi xin lại dẫn lời của McCabe : “Trong thời gian làm việc, một người phải làm những gì người ta bảo anh làm, nhưng trong thời gian người ấy được thoải mái (tức là không-làm-việc), người ấy được tự do để làm, để nghĩ, để đọc những gì người ấy muốn, để thờ lạy ai người ấy muốn ; qui tắc luật lệ chỉ có tuỳ theo những việc trên đây có ảnh hưởng gì đến việc làm của họ không thôi [ … ]. Trong cái xã hội như thế, văn hoá có khuynh hướng trở thành một công việc riêng tư, và vì nó là vô thường và tự do, cho nên nó cũng được coi như không có giá trị gì đáng kể, tóm lại người ta cho là không đáng phải để ý điều chỉnh kiểm soát. Các triết gia, các khoa học gia, các tiểu thuyết gia và các thần học gia không cần phải ưu tư bao nhiêu về những gì họ nói trước cộng đoàn, bởi vì chẳng ai chú ý đến họ cách nghiêm túc”[3].

Joseph Pieper, trong tập sách nhỏ nhưng hoành tráng của ông, Leisure, the Basis of Culture (Giải trí, nền tảng của văn hoá), có viết rằng chúng ta cần phải khám phá lại những ưu tiên của mỗi một xã hội đã được kể là văn minh. Từ ngữ Hy-lạp để chỉ việc làm, ascholia, có nghĩa là “không-nghỉ ngơi” (scholia), cũng hệt như từ ngữ La-tinh để chỉ “việc làm” là negotium, ghép bởi neg-otium cũng có nghĩa tương tự (không-nghỉ ngơi). Vì thế, chúng ta phải thoát ra khỏi một thứ đạo đức học man rợ của việc làm, theo đó thì công ăn việc làm của chúng ta – nếu như chúng ta đang may mắn có một việc làm – là trung tâm của đời sống chúng ta, còn thời giờ tự do của chúng ta chỉ là cái khoảnh khắc chúng ta thấy mình chẳng làm gì cả ! Ngày sabát mời chúng ta vượt qua sự tôn thờ ngẫu tượng là việc làm để thờ lạy Thiên Chúa chân thật, với tất cả sự tự do của chúng ta.

Pieper viết cuốn sách của ông vào năm 1948, trong lúc nước Đức đang cố gắng tái thiết sau chiến tranh, còn cuốn sách của Herbert McCabe xuất bản năm 1968. Nhưng những gì hai tác giả ấy viết vẫn còn tính cách thời sự. Đối với phần đông hữu thể nhân linh, việc làm vẫn còn là một gánh nặng và một việc nô dịch, nhưng có thể trong Thiên niên kỷ mới này việc làm bắt đầu có một ý nghĩa khác. Đạo đức học ngày xưa về việc làm đã chi phối cuộc đời các bậc tiền bối của chúng ta nay đang dần dần mất chỗ đứng và một cách trình bày mới về việc làm đang xuất hiện, mau lẹ nhiều hay ít tuỳ theo từng nơi. Cho đi là điều ấy còn chưa ảnh hưởng gì đến một thiểu số, thì chân nhận một chiều kích bổ sung cho việc nghỉ ngày sabát vẫn là điều cần thiết đối với chúng ta.

Ở chương VIII, tôi đã nhắc đến đề tài của Bauman, theo đó thì chủ nghĩa tư bản đã đi vào một giai đoạn mới : chúng ta đang bỏ lại đằng sau chúng ta cái thế giới “theo chủ nghĩa Ford”, với mối quan hệ bền vững giữa vốn và việc làm. Trong thế giới của cái gọi là “hiện đại ở thể lỏng” tức là thế giới ngày nay, kinh tế không dính dáng gì đến việc sản xuất ra những thiện ích nặng cho bằng việc làm sao trưng bày ra thị trường những ý tưởng, hình ảnh, thông tin, biểu tượng và “mác”. Chẳng còn chuyện bảo đảm có một việc làm suốt đời, nhưng chỉ có những hợp đồng ngắn hạn, và nếu như xảy ra một khó khăn cỏn con thôi, thì vốn lập tức được chuyển dịch đi nơi khác để có thể mướn những công nhân mà người ta sẽ phải chi trả ít hơn và lại dễ bảo hơn. Mỗi lần phải sử dụng một chuyến bay đường dài với hãng British Airways, hệ thống truyền hình nội bộ bắt đầu chương trình của hãng quảng cáo cho chương trình phát triển của Văn phòng xứ Galles, ta thấy những thương nhân người Mỹ hoặc người Nhật, trong dáng vẻ rất hạnh phúc, đang cắt nghĩa cách thoả mãn vì xây dựng được những nhà máy ở xứ Galles. Tôi đã coi không biết là bao nhiêu lần đang khi đợi tiếp viên hàng không mang rượu khai vị tới. Nhưng mà người ta chớ hề nói cho bạn biết tất cả những nhà máy ngoại quốc, sau khi đã được chính phủ trợ giúp bằng những khoản tiền khổng lồ, đã bị đóng cửa ở xứ Galles để lập những nhà máy ở những nơi như Mehicô hoặc Indonêsia.

Trong cái thế giới mới “ở thể lỏng” của chúng ta đây, những người mạnh là những người di động nhiều nhất và có thể chuyển dịch vốn của họ đến bất kỳ chỗ nào sẽ sinh được nhiều lợi nhuận. Bauman gọi họ là những người du mục. Từ trước cho tới nay, bọn người du mục này cắm trại chung quanh những trung tâm kỹ nghệ và tìm cách thâm nhập vào. Nhưng bây giờ, chính họ là những người điều khiển. Họ chỉ cần có một cái máy vi tính xách tay và một cái điện thoại di động. Di chuyển thật gọn nhẹ. Càng ngày những công ty như Nike càng không cần sở hữu những nhà máy cồng kềnh hoặc tuyển dụng công nhân : họ thực hiện điều đó bằng những cách khác. Họ có “mác” và những ý tưởng. Chúng ta đang sống trong cái mà Diane Coyle gọi là “thế giới không trọng lượng”[4].

Vậy trong thế giới “hiện đại ở thể lỏng” này, việc làm sẽ có một ý nghĩa mới. Bauman viết : “Việc làm không còn là cái trụ vững chắc giúp xác định mình và có thể xoay quanh đó mà lên kế hoạch cho toàn thể một cuộc đời nữa. Càng không phải là nền tảng đạo đức của xã hội này hay là trụ cột đạo đức cho một cuộc đời nữa”[5]. Cho nên, chính sự thể ngừng làm việc và cử hành ngày sabát cũng có thể mang một ý nghĩa mới. Tôi xin cứu xét hai khía cạnh của cách phác hoạ mới về việc làm, trước hết bằng cách nói đến chuyện vốn và việc làm không còn lệ thuộc nhau và việc làm sản sinh ra sự bất ổn và mất tin tưởng vào tương lai như thế nào, và điều đó làm thay đổi cách cảm nhận của chúng ta về ngày sabát ra sao. Tiếp theo, tôi sẽ nói đến sự biến đổi của việc làm thành một hình thức giải trí để xem việc biến đổi ấy để lại những hệ quả gì đối với khả năng “yên nghỉ trong Chúa”, tức là cử hành Ngày Chúa Nhật của chúng ta. 

“Người ta chẳng trồng một cây chanh nếu người ta muốn có một ly nước chanh”

Trung bình một người Mỹ có mười một việc làm trong cả cuộc đời của mình. Ở Âu châu, ngày nay nhiều người đang sống và chết không có lấy một việc làm. Tôi lại trích dẫn Bauman : “Một việc làm chắc chắn trong một xí nghiệp chắc chắn ra như lại đưa chúng ta về với những gì cha ông chúng ta ngày xưa mơ ước. Không còn chuyện cứ có nhiều khả năng hoặc nhiều kinh nghiệm là có thể bảo đảm sẽ được người ta dành cho bạn một việc làm và việc làm đó sẽ được dành cho bạn trong một thời gian lâu dài. Không ai có đủ lý do để tin rằng mình chắc chắn sẽ không bị rơi vào tình trạng “tinh giản”, “tái cấu trúc” hoặc “hợp lý hoá” sắp xảy đến, sẽ thoát khỏi những vận hành không lường trước được của thị trường hoặc khỏi sức ép không thể chống cự được, thất thường nhưng nghiệt ngã, của “sự cạnh tranh”, của “sự sản xuất” và của “tính cách hiệu quả”. Co dãn, linh động là từ chủ lực ngày nay. Điều đó báo trước cho chúng ta những việc làm không ổn định, không có sự ràng buộc vững chắc mà cũng chẳng có tước hiệu bổng lộc nào có thể dự đoán được, mà chỉ có những hợp đồng trong một thời gian dài vắn nhất định, với những chuyện sa thải không cảnh báo trước và cũng chẳng có tiền bồi hoàn”[6].

Chủ nghĩa Ford được xây dựng trên sự phụ thuộc lẫn nhau giữa vốn và lao động. Điều đáng chú ý trước hết, đó là những con người sản xuất, và để sản xuất cho hữu hiệu, người ta cần phải có sự ổn định. Hiện đại ở thể lỏng lại đặt cơ sở trên sự phụ thuộc lẫn nhau giữa vốn với những người tiêu thụ, và tất cả những gì người tiêu thụ cần, đó là tiền. Một xí nghiệp có thể mất công nhân, nhưng sẽ tìm được các công nhân khác, chỉ có điều quan trọng là phải làm sao duy trì được những người tiêu thụ của mình, khách hàng của mình. Don Peppers và Martha Roger nói về chuyện đó như sau : “Tất cả các sản phẩm của anh đều là nhất thời, duy chỉ có khách hàng của anh là có thật mà thôi”[7]. Các xí nghiệp phải có một thứ sổ liên lạc vững bền, nhưng trong cái thế giới mà các mối tương quan đều mong manh và nhất thời chúng ta đang sống đây, thì mối liên lạc của một xí nghiệp với một khách hàng kéo dài suốt cả cuộc đời của họ là cái gì gần với tính cách vững bền ổn định nhất.

Việc làm vô cùng bất ổn định đến nỗi sự liên đới nghiệp đoàn ngày xưa đang tan biến. Sự ổn định là rất ít cho nên điều quan trọng là giữ lấy việc làm của mình và đừng nghĩ đến những chuyện mơ hồ viển vông. Ở gia đình cũng như trong việc làm (ít là cho tới lúc về hưu), hợp đồng mãn đời ngày xưa không còn nữa. Đồng vốn mà tìm được một vận may khá hơn ở nơi khác, nó được chuyển dịch ngay lập tức. Thậm chí ở Nhật bản, truyền thống trung thành với xí nghiệp cũng đang dần dần biến mất. Con người trở thành như những con tốt người ta có thể đặt ở đâu tuỳ hỷ, trở thành như những đồ phụ tùng của một chiếc ô-tô hoặc của cái máy giặt. Như vậy, thế giới lao động đã trở nên như một nơi chốn rất ư là bất ổn và nghề nghiệp đã mất đi vai trò vốn có để nhờ đó xác định căn tính và khuôn đúc nên một cuộc đời.

Theo Nicholas Boyle, “khái niệm ơn gọi, nghề nghiệp – hoặc trách vụ – kéo dài suốt một phần lớn cuộc đời vốn là căn cứ để xác định một con người là thế nào, nay đã mất đi giá trị và đã bị loại bỏ. Chúng ta vẫn có thể nói “Cô ấy là thợ nhà máy in” hoặc “Anh ấy là giáo sư”, nhưng điều chúng ta muốn nói, và điều chúng ta sẽ nói, thường nhất, trong tương lai đó là “lúc này, cô ấy đang làm trong nhà máy in”, “anh ấy đang có một hợp đồng dạy học ba năm”. Câu hỏi “anh ấy hoặc cô ấy làm gì có tính cách bền vững ?” không còn được đặt ra nữa : ngay cả thể loại việc làm cũng chẳng còn quan trọng, vì đối với thị trường, tất cả những gì đáng kể, đó là những gì có thể thông tin cho biết về đơn vị sản xuất mà anh ấy/cô ấy đang là đại diện”[8].

Ở Atlanta, tôi gặp một người cho tôi biết là ông đã khởi đầu cuộc đời nghề nghiệp bằng người làm vườn, rồi làm chủ một nhà thầu mai táng, sau đó ông đi vào lãnh vực quảng cáo và hiện bây giờ ông đang làm chuyên viên vi tính cho Hiệp hội giáo sĩ quốc gia. Có rất ít những mối tương quan bền chặt trong cái thế giới hiện đại ở thể lỏng này. Một ơn gọi, cho đi là ơn gọi linh mục hoặc tu sĩ, hoặc hôn nhân, hoặc làm một nghề nào khác cũng đi ngược lại khuynh hướng trên. Nhưng ơn gọi như thế lại làm chứng cho niềm hy vọng là cuộc đời của chúng ta, nhìn trong toàn thể, có thể có một ý nghĩa. Tôi không chỉ bằng lòng vì làm được những việc này việc nọ. Tôi được gọi để trở thành một ai đó và ơn gọi của tôi, một phần, là cách để nói cho biết tôi là ai.

Trong cái bối cảnh không có gì là vững bền chắc chắn ấy thì việc cử hành ngày sabát và nghỉ ngơi trong Chúa liệu có thể có ý nghĩa gì không ? Theo ngôn sứ Edêkien (20,19-20), ngày sabát là một dấu chỉ của giao ước, một dấu chỉ cho thấy sự trung thành của Thiên Chúa đối với dân của Người : “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi hãy đi theo các lề luật của Ta, các ngươi hãy giữ các tập tục của Ta và hãy thực hành. Các ngươi hãy thánh hoá các ngày sabát ; các ngày đó phải là một dấu chỉ giữa Ta với các ngươi, để người ta biết rằng Ta là Đức Chúa của các ngươi”.

Không có gì phải ngạc nhiên khi những người Do-thái, những người đã nếm trải sự bất ổn triệt để hơn bất cứ dân tộc nào khác, đã khai triển một thần học về ngày sabát thành một dấu chỉ của sự kết hiệp giữa Thiên Chúa với dân của Người. Đang lúc họ bị trục xuất và bị tàn sát, đang lúc họ bị đuổi ra khỏi Tây ban nha, Anh quốc, Nga và Đức, thì ngày sabát lại được cử hành như thể đó là một trong những trụ cột để xây dựng và gìn giữ sự ổn định, tức là giao ước với Thiên Chúa. Ngày sabát là cô Tân Nương của Israel, là dấu chỉ của lòng trung thành vĩnh cửu của Thiên Chúa. Như Bialik đã viết, “khi Đấng Thánh – xin chúc tụng Người – đã kết thúc công trình sáng tạo của Người, thì chính ngày sabát là ngày Người đã đưa vào trong vũ trụ, “để phòng loan Người vừa dựng không thiếu mất cô Tân Nương”. Đối với ngày Sabát này, tức là kỳ công được Đấng Thánh – xin chúc tụng Người - yêu mến nhất trong tất cả các kho tàng của Người, Người không tìm thấy đối tác nào hơn Israel, dân cùng với ngày sabát ấy làm thành một đôi uyên ương hoàn hảo”.[9]

Ba mươi tư năm trước, McCabe từng coi ngày sabát như là cách để chúng ta phản ứng lại việc tôn thờ ngẫu tượng là việc làm và không chịu tìm kiếm trong việc làm căn tính của chúng ta. Có thể đây vẫn là trường hợp của một số người, nhưng hình thức tôn thờ ngẫu tượng như thế đã không còn đất đứng. Càng ngày, tính cách di động của xã hội chúng ta ngăn cản không cho con người tự xác định mình bằng những từ ngữ nói về nghề nghiệp nữa. Việc làm đúng hơn đã trở thành nguồn mạch của sự bất ổn và ngừng làm việc rất có thể trở thành việc cử hành cái gì vững chắc hơn trong một thế giới ở thể lỏng và ít chắc chắn – đó là lễ cưới của Thiên Chúa với nhân loại, trong Đức Kitô. Làm sao chúng ta có thể ghi khắc sự trung thành này trong các buổi chúng ta cử hành Ngày của Chúa ? Các họ đạo thường thường là những cộng đoàn nhất thời, trong khi con người ta chuyển dịch khắp cả miền để tìm kiếm một việc làm, đạp xe đạp, như chính quyền của Bà Thatcher bảo họ, để tìm một trường học tốt hoặc một căn nhà giá cả phải chăng. Làm thế nào chúng ta có thể là những dấu chỉ của sự trung tín vĩnh cửu của Thiên Chúa ?

Chắc chắn là bổn phận đi lễ Ngày Chúa Nhật là một dấu chỉ của sự trung tín ấy. Cách chung, người ta coi đó như là một sự bó buộc đè nặng lên sự tự do của chúng ta, một qui tắc bắt buộc phải tuân phục, bị áp đặt từ trên, từ “những giới chức thẩm quyền”. Người ta coi đó là dấu vết của tính cách duy luật của công giáo, có thói quen sắp xếp tất cả, bảo cho con người ta biết phải làm cái này phải làm cái kia. Trái lại, chẳng lẽ ta không thể thấy ở đó một dấu chỉ việc chúng ta được thuộc về cách vững bền, trong cái thế giới đang chuyển động này hay sao ? Chúng ta buộc phải mừng sinh nhật của mẹ chúng ta, nhưng người ta lại ít coi đó như là một sự thúc ép : đó là cách diễn tả những mối dây gắn bó chúng ta với mẹ chúng ta. Đó không phải là một bổn phận bên ngoài, như việc cấm không được cho xe chạy quá 50 cây số một giờ trong khu vực thành phố, nhưng đó là cách diễn tả điều mình đang là.

Bổn phận và đức thờ phượng cả hai đều có cùng một ngữ căn có nghĩa là “bị/được ràng buộc”. Các bổn phận nói lên rằng chúng ta có gốc rễ sâu xa trong những mối quan hệ vững bền với những người khác. Các bổn phận là những dấu chỉ của lòng trung thành bền bỉ này ở đó chúng ta kín múc được những sức mạnh và ở đó chúng ta tìm được căn tính của chúng ta.

Mười điều răn, như ta thấy trong sách Đệ nhị luật, liên kết ngày sabát trực tiếp với việc giải phóng khỏi cảnh tôi đòi : “Ngươi hãy nhớ rằng người đã phải làm tôi đòi ở xứ Ai-cập và Đức Chúa là Thiên Chúa của Người đã đưa ngươi ra khỏi đó bằng bàn tay hùng mạnh và bằng cánh tay giương. Chính vì thế Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi truyền cho ngươi giữ ngày sabát” (Đnl 5,15). Israel được giải phóng khỏi những ràng buộc của kiếp nô lệ để có thể từ này được ràng buộc với Thiên Chúa của mình. Nhưng những mối dây ràng buộc này không phải là một sự nô lệ, nhưng là căn nhà, là một nơi ở. Chính chuyển động từ một loại liên hệ ràng buộc này sang một loại khác là điều ngôn sứ Hôsê đã nhắc đến, khi ông viết :

“Thuở Israel còn niên thiếu, Ta đã mến thương nó,

và từ Ai-cập, Ta đã gọi con trai của Ta.

Nhưng Ta càng gọi chúng thì chúng càng tránh xa Ta.

Chúng tế lễ cho các Baal,

Chúng đốt hương cho các ngẫu tượng.

Thế mà chính Ta đã tập cho Épraim biết đi,

Ta dắt tay nó,

Mà chúng chẳng hiểu là ta đã chăm sóc chúng !

Ta dẫn đưa chúng bằng những mối ràng buộc tình người,

Bằng những mối dây liên hệ của tình yêu,

Ta xử với chúng tựa như những người bồng bế con thơ,

Áp vào má chúng,

Ta cúi xuống nó và cho nó ăn” (Hs 11,1-4).

Israel được giải thoát khỏi cảnh tôi đòi Ai-cập, để có được nơi ở của mình trong “những mối ràng buộc tình người”. Tôi nhớ hồi còn bé, vào các kỳ đi nghỉ hè với cha mẹ, việc đầu tiên phải làm khi vừa tới nơi nghỉ hè là đi tìm ngôi nhà thờ công giáo gần nhất và xem các giờ cử hành Thánh lễ. Trong cái thế giới ở thể lỏng luôn ở trong tình trạng xê dịch, bổn phận này hẳn nhiên là một cách để diễn tả sự thuộc về của chúng ta. Bất cứ chúng ta đang ở đâu, chúng ta đều có quyền đi tới ngôi thánh đường của giáo xứ ở đó và có được một chỗ giữa những người tuy xa lạ những lại là những người anh em và những người chị em của chúng ta. Đối với chúng ta, những kẻ lưu đày xa Vương Quốc, mỗi một cử hành Thánh lễ đều là một dấu chỉ nói với chúng ta về mái nhà. Chúng ta ở nhà mình trong mỗi một cuộc cử hành bí tích này. Khi tôi còn là Tổng Quyền của Dòng và mỗi năm có đến tám tháng phải đi đây đó thăm các anh em và các chị em đang sống trong hơn một trăm nước, nhưng khi tôi ở đâu thì Thánh lễ hằng ngày là khoảnh khắc tôi cảm thấy mình được tiếp đón ở nhà.

Richard Sennet cho rằng “các thể thức hiệp hội thoáng qua hữu ích cho con người ta hơn là những mối dây ràng buộc bền vững”[10] và đấy chính là điều đã dẫn Âu châu đến một tôn giáo mà Grace Davie miêu tả khi nói về những người “tin nhưng không tham gia”[11], trừ ra ở Scandinavie là nơi cứ theo bề ngoài thì ngược lại ! Chúng ta là những người tiêu thụ có thể lựa có thể chọn trong số nhiều giáo xứ, và thậm chí trong số nhiều tên gọi và nhiều tôn giáo, trong cái siêu thị tôn giáo vĩ đại hiện nay. Các Hội Thánh phải lôi cuốn sự gắn bó của chúng ta, tuần lễ này qua tuần lễ kia, nếu như các Hội Thánh muốn có được cuốn sổ liên lạc vững bền. Trong bối cảnh này, bổn phận cử hành Ngày Chúa Nhật rất có thể không còn được cảm thấy như là một nghĩa vụ phải thi hành vì luật buộc, cũng không như một áp lực do quyền bính muốn chà đạp tự do của tôi. Nhưng đó là dấu chỉ tôi có thể tìm được sự ổn định khi đặt nền cuộc đời mình dựa vào Thiên Chúa là Đấng hằng kết hợp với dân của Người. Thiên Chúa, trong Đức Kitô, liên kết với nhân loại, điều đó giúp tôi thuộc về nhân loại trong Thiên Chúa. Có thể đúng như Sennet nói là những thể thức hiệp hội mau qua là hữu ích cho tôi hơn. Nhưng trong tôn giáo, người ta được gọi để cứ vượt quá nhận xét xem cái gì hữu ích cho cá nhân mình, để tiến đến nhận xét điều hữu ích trọn vẹn, tức là Thiên Chúa. Cuộc đời của tôi có thể được hướng đi theo trăm ngả, bị chi phối bởi những quan tâm và những sở thích khác nhau, nhưng Thánh lễ Ngày Chúa Nhật làm nổi bật lên hướng đi lui tới của cuộc hiện hữu của tôi : bước tiến của tôi hướng tới Thiên Chúa, bước quay của tôi lui về nhà của mình. Ngày sabát nhắc chúng ta nhớ đến lý do hiện hữu của tất cả, đó cũng là lý do hiện hữu của người Kitô hữu. 

(Còn tiếp)

Timothy Radcliffe, o.p., Pourquoi donc être chrétien ?, Les Éditions du Cerf 2005, pp. 275-294daminhvn.net                       


[1] “The Meaning of Sunday”, Communio, printemps 1994, p. 7.

[2] P. 119 s.

[3] Ibid., p. 156, 158.

[4] X. The Weightless World : Strategies for Managing the Digital Economy, Cambridge (Mass.), 1977.

[5] Liquid Modernity, p. 19.

[6] Ibid., p. 161.

[7] Jeremy Rifkin trích dẫn trong cuốn The Age of Access : How the Shift from Ownership to Access is Transforming Modern Life, London, 2000, p. 97.

[8] Who Are We Now ? Christian Humanism and the Global Market from Hegel to Heany, p. 79.

[9] Michael Sales trích dẫn trong “The Fullfilment of the Sabbath from the holiness of seventh day to God’s resting in God”, Communio, printemps 1994, p. 29.

[10] Bauman trích dẫn trong Liquid Modernity, p. 149.

[11] Religion in Modern Europe : A Memory Mutates, p. 3.

[12] The Age of Access : How the Shift from Ownership to Access is Transforming Modern Life, London, 2000, p. 12.

[13] Ibid., p. 164.

[14] Người ta còn nói đó là “destination entertainment centers”, x. The Age of Access : How the Shift from Ownership to Access is Transforming Modern Life, London, 2000, p. 158.

[15] Liquid Modernity, p. 158.

[16] X. The Acts of the Christian Martyrs, trad. Herbert Musurillo, Oxford, 1972, p. 121.

[17] Jeremy Rifkin trích dẫn trong cuốn The Age of Access : How the Shift from Ownership to Access is Transforming Modern Life, London, 2000, p. 197.

[18] Pornography and Silence : Culture’s Revenge against Nature, London, 1981, p. 122.

[19] On Christian Theology, p. 186.

[20] Lost Icons, p. 185.

[21] Spiritual Friendship, trad. Mary Eugenia Laker, Kalamazoo, 1977, p. 51.

[22] Les Confessions, XIII, 36, 1.

[23] Fathers of the Church, vol. 42, New York, 1961, p. 282.

 


Mục Lục Sống Ơn Gọi Kytô Hữu