MÙA CHAY
2010,
THỰC HÀNH SỰ CÔNG CHÍNH
theo Sứ điệp Mùa Chay của Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI
“Sự công chính của
Thiên Chúa được tỏ hiện qua đức tin vào Chúa Kitô” (xem Rm 3, 21-22)
***
Ngày 30 tháng 10 năm 2009,
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã công bố Sứ điệp Mùa Chay năm 2010. Ngày 4 tháng
2 năm 2010, tại Phòng Báo chí Tòa Thánh, Vaticanô, Đức Hồng Y Josef Cordes, Chủ
Tịch Hội đồng Tòa Thánh “Đồng Tâm” (Cor Unum), đã giới thiệu và trình
bày Sứ điệp này trước các ký giả. Cùng hiện diện trong buổi giới thiệu Văn kiện
này, có Giáo sư Hans Gert Potering, Chủ tịch Nghị viện Âu Châu, từ năm
2007-2009, và Đức Ông Giampiero Dal Toso, Phó Tổng Thư Ký Hội đồng Tòa Thánh Cor
Unum.
Chủ đề của Sứ điệp Mùa
Chay năm 2010 là: Sự công chính, theo câu nói của Thánh Phaolô trong thư gửi
tín hữu tại Rôma: “Sự công chính của Thiên Chúa được tỏ hiện qua đức tin vào
Chúa Kitô” (xem Rm 3, 21-22).
Trong buổi đọc Kinh Truyền
Tin vào trưa ngày Chúa Nhật, 14-2-2010, ba ngày trước Thứ Tư Lễ Tro, tại Quảng
trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nhắc lại Sứ điệp Mùa Chay và
mời gọi các tín hữu đọc và suy niệm Sứ điệp trong Mùa Chay này. Ngài nói như
sau: “Về chủ đề sự công chính, năm nay, tôi đã dành Sứ điệp Mùa Chay, sẽ bắt
đầu vào thứ tư Lễ Tro sắp tới, để trình bày về chủ đề này. Vì thế hôm nay tôi
muốn trao gửi Sứ điệp này, trong tâm trí của tôi, tới tất cả mọi người và mời
gọi tất cả hãy đọc và suy niệm Sứ điệp này” [Báo L’Osservatore Romano, số ngày 15-16
tháng 2 năm 2010, trang 8].
Qua sứ điệp này Đức Thánh
Cha kêu gọi các tín hữu hãy “xây dựng các xã hội công bằng”, trong đó
mọi người “nhận được những gì cần thiết để sống theo đúng phẩm giá con người”
và trong đó “sự công chính được làm cho sống động bởi tình yêu”. Đó là
các phận vụ cụ thể Đức Thánh Cha ủy thác cho con cái mình trong Mùa Chay Thánh
này. Theo lời mời gọi của Đức Thánh Cha, chúng ta cùng nhau đọc Sứ điệp Mùa
Chay năm 2010.
1. Giới thiệu Sứ điệp
Mùa Chay
Để hiểu thêm về Sứ điệp
này chúng ta hãy đọc hai bài giới thiệu Văn kiện cho ký giả. Hai vị đã được mời
để giới thiệu Sứ điệp Mùa Chay Năm 2010, đó là Đức Hồng Y Josef Cordes, Chủ
tịch Hồi đồng Toà thánh “Đồng Tâm” (Cor Unum) và Giáo sư Hans Gert
Potering, Chủ tịch Nghị viện Âu Châu, từ năm 2007-2009.
Bài giới thiệu của Đức
Hồng Y Josef Cordes giúp chúng ta đọc Sứ điệp này theo một cái nhìn tôn giáo và
kitô giáo về việc thực hành sự công chính, nhất là trong bối cảnh Mùa Chay năm
2010, mà chủ đề chính là việc thực hành đức công chính. Đức Hồng Y Josef Cordes
nhắc lại cảm tưởng khá rõ rệt và cảm động của các giám mục Phi Châu dịp họp
Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, khóa đặc biệt thứ 2 cho Phi Châu (từ 4-22
tháng 10 năm 2009), với chủ đề rất thời sự mà Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đề
ra cho các Giám Mục Phi Châu suy tư trong thời gian họp này. Chủ đề là: “Giáo
Hội tại Phi Châu trong sứ vụ hòa giải, công bằng và hòa bình”. Trong các
bài phát biểu tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Phi Châu khóa đặc biệt này, các vị
mục tử của Châu lục này đã thường xuyên nói tới những nỗi đau khổ và sự khốn
cùng của dân chúng sống tại lục địa này, và hầu như trở thành đề tài chính của
Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới lần này. Các ngài cũng tìm nguyên cớ cho hoàn
cảnh đau thương này, như lời Đức Cha Abegunrin, giám mục giáo phận Osogbo bên
Nigeria phát biểu: “Việc quản trị xấu gây ra do những hành vi tham nhũng,
thái độ thiên về các bộ lạc và việc thiếu tôn trọng luật lệ làm cản trở sự
công bằng và hòa giải. Tại Phi Châu, từ bắc xuống nam, từ đông sang tây,
các người trẻ của chúng tôi [...] là những nạn nhân thứ nhất của những bạo lực
do chủng tộc, việc diệt chủng, cướp phá, tội phạm, buôn bán người, tham nhũng
và việc cai trị xấu xa”.
Trước những hiện tượng
tiêu cực và phá hoại hòa bình và công bằng này, Liên Hiệp Quốc và các tổ chức
quốc tế khác đã đưa ra những sáng kiến để cải thiện tình trạng đau thương này.
Nhưng kết quả không đạt mức khả quan mong muốn. Có nhiều lý do, nhưng một trong
những lý do đó là thiếu công bằng. Khắp nơi, người ta kêu gọi
thực hiện công bằng, trong sinh hoạt chính trị, giữa các tôn giáo, giữa các
nhóm khác nhau và trong sinh hoạt thường ngày.
Trong bối cảnh đặc biệt
này và trong tình cảnh chung của toàn thế giới và của Giáo Hội, Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI đã gửi Sứ điệp Mùa Chay Thánh năm nay với chủ đề về công bằng.
Giáo Hội luôn bênh vực cho công lý, lưu ý tới việc thăng tiến nhân sinh, việc
phân phát công bằng các tài nguyên tự nhiên và đưa ra các giáo huấn xã hội liên
hệ tới các sinh hoạt này.
Lịch sử của Giáo Hội chứng
minh rõ điều này. Ngay từ đầu, theo gương Chúa Giêsu, Giáo Hội lưu ý tới các nhu
cầu của con người, thực hiện công bằng và bác ái. Đức Hồng Y nhắc lại các gương
sáng trong Giáo Hội từ xưa tới nay về vấn đề này. Đức Giáo Hoàng Callisto I
(qua đời khoảng năm 222), một người nô lệ được giải phóng, rồi làm giáo hoàng,
là vị đầu tiên lập ngân hàng cứu giúp các cô nhi quả phụ, tránh cho họ không bị
bóc lột bởi những người cho vay nặng lãi và dã tâm bóc lột người nghèo. Thánh
Basilio, được mệnh danh là “nhà thần học” (qua đời năm 379), là người
đầu tiên đã thiết lập các nhà thương, và trong nhiều vụ tranh chấp, đã dùng uy
tín của mình mà bênh vực các trường hợp bị xử bất công. Vào thời Trung Cổ, các
giám mục cũng đã hết sức bênh vực người nghèo khó; Giáo Hội cũng giữ gìn tài
sản của họ khỏi cảnh bóc lộc bất công. Vào thời kỳ hiện đại Giáo Hội phát động
phong trào truyền giảng Tin Mừng đi khắp nơi, tại các nước xa Âu Châu. Các nhà
truyền giáo không chỉ mang Đức Tin mà thôi, nhưng còn cố gắng làm cho đời sống
của người dân địa phương thêm tốt đẹp hơn và thăng tiến hơn. Phải công nhận là
trong thời gian các nước Âu Châu thực hiện phong trào thuộc địa, một số người,
có khi cả các nhà truyền giáo nữa, đã có những hành động bóc lột, bất công và
triệt hạ dân bản xứ. Về những điều này, trong Năm Thánh 2000, Tôi tớ Chúa, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, đã xin lỗi tất cả mọi người, vì những điều nghịch
với Phúc âm, với công bằng và bác ái, mà con cái của mình đã làm cho con người
và các dân tộc. Ngày nay cùng với xã hội, Giáo Hội cũng đã dấn thân tranh đấu
cho công bằng và hòa bình. Nhưng khi suy tư về những hoạt động này, người ta
nhận ra rằng, các hoạt động bên ngoài xã hội, lo cho công bằng, không chỉ nằm
trong tầm mức bình thường, giữa con người với con người, giữa chủng tộc với
chủng tộc, giữa dân tộc với dân tộc, nhưng hoạt động này đòi hỏi một nguyên lý
chỉ đạo cao hơn, một lý do siêu nhiên ở trên, thúc đẩy các hoạt động của con
người thực hiện công bằng và bác ái. Đó là điều mà Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
muốn diễn giải cách khá sâu sắc trong Sứ Điệp Mùa Chay năm 2010: “Sự công
chính của Thiên Chúa được tỏ hiện qua đức tin vào Chúa Kitô” (xem Rm 3,
21-22).
Còn bài giới thiệu của
giáo sư Hans Gert Potering, một nhà chính trị công giáo, cho thấy sự công bằng
trong đời sống xã hội và chính trị. Các nhà chính trị nhìn vào mối liên hệ giữa
các khái niệm về công bằng, bác ái, bình đẳng, tự do và huynh đệ (tình huynh
đệ mà các nhà chính trị gọi là liên đới). Họ nhìn vào thực tế chung
quanh mà họ đang sống và sống trong tương quan với người khác. Năm khái niệm:
công bằng, bác ái, huynh đệ, tự do và liên đới này gắn liền với nhau. Giáo sư
nhắc lại quan điểm của triết gia Plato, người Hy Lạp (sống vào khoảng 427 – 347
trước Chúa Kitô), coi công bằng như là một ý niệm không thay đổi, siêu việt mà
mỗi linh hồn con người là một mảnh của ý niệm này. Còn triết gia Aristote (sống
khoảng 384-322 trước Chúa Kitô), người Hy Lạp, thì nhấn mạnh: sự công bằng
không chỉ thể hiện như một nhân đức bên trong của mỗi người, nhưng luôn được
nhìn trong tương quan với người khác. Ngày nay người ta nói tới “công bằng
có tính cách sửa trị”, vì ai làm điều lỗi, thì theo công bằng phải sửa lại,
và “công bằng trong việc phân phát” tài nguyên thiên nhiên. Cả hai loại
công bằng này đều gồm tóm tương quan giữa các chủ thể. Thánh Tôma tiến sĩ cũng
cùng quan điểm về hai hình thức thể hiện sự công bằng này. Vì thế người ta phải
nhắm vào tâm thức công bằng luôn ẩn hiện nơi con người và nhìn tới cái thực tại
bên ngoài trong tương quan với người khác. Nhưng phải nhớ rằng, nếu chỉ nói tới
các ý niệm về công bằng, bác ái và liên đới trong phạm vi tương quan giữa các
chủ thể mà thôi thì không đủ, và rồi người ta sẽ dựa vào chúng mà tạo thành các
ý thức hệ độc ác khác nhau, nhưng sau cùng thì các ý thức hệ đó cũng tan đi,
như trong lịch sử các Nước Đông Âu trong những thập niên gần đây. Các giá trị về
công bằng, liên đới này được coi như nền tảng cho sinh hoạt của thế giới trong
bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, vì chúng bao gồm trách nhiệm phổ quát phải bảo
vệ và gìn giữ phẩm giá con người ở khắp nơi và trong mọi hoàn cảnh. Nếu chúng
ta muốn gìn giữ tự do và nếu chúng ta muốn thăng tiến công bằng, thì phải đặt
tâm thức huynh đệ hay liên đới ở giữa các hoạt động chính trị. Liên hiệp các
Nước Âu Châu đã đạt được tâm thức liên đới một cách mạnh mẽ, từ sau thế chiến
thứ II và sau chiến tranh lạnh giữa khối tự do và khối cộng sản. Từ đây họ
chiến đấu chống lại sự nghèo đói và chống lại mọi hình thức loại trừ các quốc
gia, các chủng tộc, các cá nhân. Từ suy tư trên đây về hiện tình các Nước trong
khối Liên Hiệp Âu Châu, giáo sư Hans Gert Potering nghĩ rằng các nhà chính trị
phải đón nhận Sứ điệp Mùa Chay của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI và cần theo đó
mà hành động trong các sinh hoạt chính trị: vì Âu Châu đang cần một tình thần
liên đới ở mức cao độ hơn. Càng ngày Âu Châu càng cảm thấy cần phải liên đới
với các dân tộc khác và các nền văn hóa khác trong hành tinh duy nhất này. Để
thực hiện điều này, Âu Châu phải ý thức tới công bằng, vì ở đâu người ta cảm
nghiệm được công bằng, thì các giá trị của tự do cũng được tăng cường. Việc
tranh đấu cho công bằng có gốc rễ luân lý, đó là gốc rễ của giá trị liên đới và
huynh đệ mà Kitô giáo gọi là bác ái. Nhưng không phải là chuyện
dễ đâu. Vì vẫn còn tình trạng cụ thể là các nước giầu lại giầu thêm và các nước
nghèo thì càng nghèo thêm và người ta không thể can thiệp vào thể chế chính trị
của các quốc gia. Theo thống kê thì có hai tỉ người trên thế giới sống mỗi ngày
chỉ với 1,5 mỹ kim mà thôi. Để thực hiện tình huynh đệ liên đới này, các tổ
chức quốc tế đã thành hình để giúp các nước nghèo về giáo dục, y tế, môi sinh.
Ngoài ra chúng ta phải đào sâu tâm thức về liên đới, về công bằng, là những
điều nằm sẵn cách nào đó trong con người tự nhiên và qua các tôn giáo. Ngay từ Sedaqah
(= công chính) của Do Thái cũng hàm ý về bổn phận với tập thể, tha nhân, từ đây
cá nhân có quyền lợi từ tập thể và cá nhân cũng có bổn phận với tập thể. Sách
Coran của Hồi giáo cũng có ý niệm công bằng xã hội này. Còn Âu Châu mang nặng
ấn tích của Kitô giáo vào trong xã hội, và trong quan niệm của công bằng. Như
vậy chúng ta cần khám phá ra ý niệm công bằng nằm sẵn trong tâm thức mỗi cá
nhân và trong các nền văn hóa và tôn giáo, và nhìn nhận ra ảnh hưởng lớn lao
của văn hóa và tôn giáo trong khi quan niệm và thực hiện công bằng, nếu không,
chúng ta sẽ rơi vào thái độ quá khích và ý thức hệ bất khoan dung. Chúng ta cần
đối thoại về tình liên đới giữa các tôn giáo và giữa các nền văn hóa khác nhau.
Chỉ có liên đới mới mở ra con đường dẫn tới tự do và công bằng được thực hiện
mỗi ngày tại nhiều nước hơn, nhiều dân tộc trên thế giới hơn. Để thực hiện công
việc này, Đức Thánh Cha nhắc nhở mọi người, các nhà chính trị là phải từ bỏ
thái độ tự mãn, tự cho mình là đủ và phải có thái độ khiêm nhường đón nhận sứ
mệnh được trao phó để hoàn thành. Đó là trách nhiệm của các nhà chính trị, các
người làm công tác xã hội, mà Sứ điệp Mùa Chay năm 2010 gợi ra cho họ. Đó là
cách đọc Sứ điệp Mùa Chay năm 2010 từ quan điểm của một nhà chính trị gửi tới
các nhà chính trị.
2. Đọc Sứ điệp Mùa Chay
năm 2010
Trên đây chúng ta ghi lại
lời mời gọi của Đức Thánh Cha gửi tới các tín hữu để họ đọc và suy niệm Sứ điệp
Mùa Chay năm 2010. Chúng ta cũng được giới thiệu hai hướng nhìn giúp đọc Sứ
điệp Mùa Chay năm 2010: cái nhìn theo đức tin Kitô giáo và cái nhìn của một nhà
chính trị công giáo.
Bây giờ chúng ta lần lượt
đọc bản văn [Bản văn tiếng Ý được
đăng trong Nhật Báo l’Osservatore Romano, số ngày 5-2-2010, trang 8]
Sứ điệp của Đức Thánh Cha và nhận ra giáo huấn của Ngài để giúp thăng tiến đời
sống tu đức và sinh hoạt cộng đoàn xã hội, nơi chúng ta đang sống và làm việc
tông đồ. Tôi chỉ đưa ra một vài điểm để suy tư và mỗi người đọc lại chính Sứ
điệp và đào sâu thêm.
Trong Sứ điệp Mùa Chay năm
nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã theo phương pháp phân tích và diễn giảng để
trình bày giáo huấn công giáo về công bằng. Để dễ hiểu, tôi xin trình bày giáo
huấn cửa Sứ điệp theo hai điểm: những lỗi phạm về đức công bằng và việc sống
đức công bằng do tín hữu công giáo.
A. Những lỗi phạm về
đức công bằng
Nói tới những lỗi phạm về
đức công bằng, Đức Thánh Cha viết như sau: “… Quả thật Giáo Hội lên án thái
độ hờ hững, dửng dưng mà cả trong thời đại ngày nay nữa vẫn bắt buộc hàng trăm
triệu người phải chết vì thiếu thực phẩm, nước uống và thuốc men…” Đó là sự
thiếu công bằng xét về phương diện phân chia các tài nguyên thiên nhiên, mà
khoa luân lý gọi là “công bằng phân phối” (la justice distributive).
Nhưng sự thiếu công bằng này là hậu quả của một thái độ căn cốt bên trong con
người mà đôi khi con người không khám phá ra và không lưu tâm đề phòng. Sứ điệp
nói: “Sự bất công từ đâu tới? Thánh sử Marco ghi lại những lời sau đây của
Chúa Giêsu, được lồng vào trong cuộc tranh luận thời đó về những điều thanh
sạch và những điều ô uế: “Không có gì từ bên ngoài con người vào nơi họ, có thể
làm cho họ ra ô uế. Nhưng là những điều từ bên trong con người đi mới làm cho
họ ra ô uế. Vật đi ra từ con người là điều làm cho con người ra ô uế. Quả vậy
phát xuất ra từ bên trong, nghĩa là từ cõi lòng con người, từ đó phát xuất ra
những ý định xấu xa” (Mc 7,14-15.20-21). Từ đây, Đức Thánh Cha cho thấy,
đối với những người Biệt phái, thì căn nguyên của sự dữ, sự ác, của bất công,
đến từ một căn cớ bên ngoài con người. Theo quan điểm này, bao nhiêu ý thức hệ
đã nhận ra một loại căn nguyên nào đó của sự bất công trong xã hội, và họ tìm
mọi cách để loại bỏ, có khi dựng nên một chế độ, một ý thức hệ và một cơ cấu
quyền lực để chống lại bất công và loại bỏ những áp bức xã hội. Một điều thật
trớ trêu, đó là có khi con người lại dùng cả bạo lực nữa để chống lại cái mà
gọi là bất công. Nhưng Sứ điệp Mùa Chay khẳng định ngay: “Cách thế suy nghĩ
này, –Chúa Giêsu đã cảnh cáo– thật là ngây thơ và ảo tưởng. Sự bất công, hậu
quả của sự dữ, không chỉ có nguyên nhân bên ngoài mà thôi; nó có nguồn gốc
từ cõi lòng con người - (nhấn mạnh là của tôi), - từ đó nảy
sinh mầm mống của một cung cách sống chung với sự dữ”. Sứ điệp nhắc lại
kinh nghiệm đau thương sâu thẳm của tác giả Thánh vịnh 51 (50): “Này đây,
chính trong tội lỗi mà tôi đã sinh ra, chính trong tội mà mẹ tôi đã hoài thai
tôi” (Tv 51 (50), 7). Rồi Sứ điệp giải thích thêm về cái căn gốc bên trong
của sự dữ và của mọi hành động bất công: đó là con người bị xô đẩy mạnh mẽ vào
trong một thái độ làm mất đi khả năng hiệp thông với người khác,
mà theo bản tính, con người hướng về sự chia sẻ, nhưng họ cảm thấy nơi mình một
mãnh lực thật lớn lao, làm cho họ quay trở về với chính mình, khép lại
sống cho mình, và có thái độ thật là nguy hiểm là muốn sống trên
người khác và chống lại người khác. Từ đây nảy sinh ra tính ích kỷ, là
hậu quả của tội nguyên tổ. Con người cảm thấy tự đủ cho mình và không cần hướng
tới NGƯỜI KHÁC, nghĩa là Thiên Chúa và người anh chị em chung
quanh. Nói về điều này Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhắc lại câu chuyện ông bà
nguyên tổ phạm tội mà Sách Sáng Thế thuật lại (St 3, 1-6). Ông bà
không muốn ở trong tư thế lãnh nhận, tư thế tùy thuộc Thiên Chúa, mà
muốn tự làm lấy tất cả cho mình. Từ thái độ này, con người sống trong
tình trạng lo lắng, bấp bênh, thiếu ổn định, sống theo tính ích kỷ và không
sẵn sàng mở lòng mình ra cho tình yêu đến từ Thiên Chúa, cũng như từ
tha nhân.
Tới đây chúng ta thấy một
phân tích thật sâu xa của Đức Thánh Cha về nguyên nhân của sự dữ nói chung, và nguyên
nhân của các hành vi lỗi đức công bằng nói riêng.
B. Thế nào là công
chính?
Bây giờ chúng ta đọc tiếp
Sứ điệp Mùa Chay năm 2010 để tìm ra ý nghĩa đích thực của sự công bằng.
Trước tiên Sứ điệp đề cập
tới công bằng trong phạm vi pháp luật của xã hội loài người. Sứ điệp nói tới sự
công bằng qua câu định nghĩa thời danh của nhà luật học Domizio Ulpiano người
Rôma, sống vào thế kỷ thứ III [Nhà
luật học Domizio Ulpiano, qua đời năm 228 sau Chúa Kitô. Ông là một trong những
học giả về pháp luật và tác giả thời danh vào thời của ông, đứng sau ông
Palpiano, và cùng với ông Paolo, Gaio, và Modestino. Các tác phẩm của ông là
nguồn cho bộ luật Giustiniano (Corpus iuris civilis iustiniani), mà bộ Pandette
là một phần của bộ luật này. Bộ Pandette thu thập các tác phẩm về luật của các
tác giả thời danh thời cổ xưa. Ông sáng tác rất nhiều, đặc biệt hai bộ: 81 cuốn
Libri ad aedictum praetoris urbani, và 50 cuốn Libri ad Sabinum. Ngoài
ra ông còn chuyên về pháp luật công cộng và hành chánh]: “Công bằng là
trả lại cho người ta điều gì là của họ” (iustum est dare cuique suum). Trong
mọi phạm vi, người ta đã lấy tiêu chuẩn này mà nhìn, mà phán đoán và giải quyết
mọi tranh chấp, cãi cọ giữa các cá nhân, tập thể. Nhưng trong chính câu định
nghĩa này, Đức Thánh Cha cho thấy một cái thiếu và một điểm yếu của câu định
nghĩa này: đó là không cho biết đâu là “cái thuộc về mỗi người”, “cái gì là
cái thuộc về mỗi người” (suum), mà người khác và xã hội phải trả cho họ và
phải bảo vệ nơi người khác. Do đó Sứ điệp Mùa Chay năm nay đã cho thấy nội dung
của “điều gì là của họ”, hoặc “cái thuộc về mỗi người”.
Trước tiên, “điều gì là của họ”(suum) không
do luật pháp ấn định, không hệ tại sự công bằng phân phối của cải cho mỗi
người, cho dù của cải vật chất, như cơm bánh, nước uống, khí thở, đồ dùng, sức
khoẻ vẫn cần thiết, vì chính Chúa Giêsu đã làm thỏa mãn các nhu cầu vật chất
của con người, như Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, như việc Ngài chữa
bệnh tật cho người thời đó, như việc Ngài dạy chúng ta xin có cơm bánh ăn hằng
ngày trong Kinh Lạy Cha. Chắc chắn Chúa Kitô lên án thái độ dửng dưng
của con người trước tình trạng đói kém, thiếu thức ăn, nước uống, thuốc men để
chữa trị bệnh tật. Tuy nhiên con người còn có một cái gì khác sâu thẳm hơn và
cao đẹp hơn, linh thiêng hơn, chính yếu hơn, điều mà Thiên Chúa phú bẩm cho họ
khi dựng nên con người “giống hình ảnh mình”. Chúa Kitô nói: “Trước
hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những
thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33).
Điều con người thiếu, Đức Thánh Cha khẳng định
trong Sứ điệp Mùa Chay năm 2010, đó là tình yêu, đó là con người cần Thiên
Chúa. Con người chỉ sống trọn vẹn và được hạnh phúc, khi họ sống với
và sống nhờ cũng như sống trong tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho
họ, khi tạo dựng nên họ. Con người chỉ sống hạnh phúc khi nhận ra Thiên Chúa ở
bên cạnh mình và sống với mình: con người cần Thiên Chúa. Đó là tất cả
cái làm thỏa mãn con người và làm cho cuộc sống của họ nên trọn vẹn và được
hạnh phúc. Đức Thánh Cha trích dẫn câu nói của Thánh Augustinô như sau: “Nếu
sự công bằng là nhân đức đem trả lại cho con người điều thuộc về họ... thì
không thể gọi là công bằng, khi người ta kéo họ ra khỏi và xa Thiên Chúa chân
thật” (De civitate Dei, XIX, 21). Như vậy thật là bất công khi không
đem cho con người tình yêu và Thiên Chúa và khi làm cho con người không nhìn
nhận tôn thờ Thiên Chúa. Làm như thế, là không trả lại cho họ “cái thuộc về họ”,
mà lại là cái chính yếu.
Từ đây Sứ điệp Mùa Chay năm 2010 quảng diễn thêm
về sự công bằng theo cái nhìn ở trên. Đức Thánh Cha trở lại với
quan niệm Do Thái của Cựu Ước. Ngài phân tích từ “công bằng” mà tiếng Do
Thái diễn tả bằng từ “Sedaqah”. Ngài nói như sau: “Ở trung tâm sự
khôn ngoan của Dân Israel, chúng ta nhận ra một sự nối kết sâu đậm giữa đức tin
vào Thiên Chúa, Đấng nâng kẻ yếu đuối lên (Tv 113 (112), 7) và sự công
bằng đối với người thân cận. Chính từ ngữ dùng trong tiếng Do Thái chỉ nhân đức
công bằng, sedaqah, diễn tả điều đó. Quả vậy sedaqah, về một phía, có
nghĩa là việc chấp nhận một cách trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa của Israel,
đàng khác, từ ngữ này cũng chỉ sự bình đẳng trong các mối tương quan với người
thân cận (xem Xuất Hành, 20, 12-17), một cách đặc biệt là đối với
người nghèo khó, ngoại kiều, kẻ mồ côi và quả phụ (xem Đệ nhị luật, 10,
18-19), nhưng cả hai ý nghĩa của từ này gắn liền với nhau, bởi vì việc bố
thí cho kẻ nghèo khó, đối với người dân Israel, không có nghĩa gì khác, đó là
đổi chác lại với điều họ đã nhận từ Thiên Chúa, là Đấng đã dủ lòng thường xót
tới dân của Ngài”. Từ đây Sứ điệp nhắc lại biến cố Thiên Chúa ban Lề Luật
cho Israel, sau khi Ngài đem họ ra Ai Cập, qua Biển Đỏ. Ý nghĩa của biến cố này
là: việc Dân lắng nghe Lề Luật giả thiết niềm tin vào Thiên Chúa Đấng đã nghe
tiếng Dân than van và Thiên Chúa xuống để giải thoát họ khỏi ách người Ai Cập”
(xem Xuất Hành, 3, 8). Thiên Chúa lắng nghe tiếng kêu van của Dân
Israel, nhưng Ngài cũng đòi hỏi họ phải lắng nghe Lời của Ngài: tức là xin họ
hãy cư xử công bằng với người nghèo khó (xem Sir 4, 4-5. 8-9), với khách
ngoại kiều (xem Xuất Hành 15, 22, 20), với người nô lệ (xem Đệ nhị
luật, 15, 12-18).
Như vậy Thiên Chúa đòi họ phải nghe Lời Ngài mà
thực hiện một cuộc xuất hành (exodus) tận căn ra khỏi cái
tự mãn, tự đủ của mình để có thể sống công bằng đích thực. Cuộc xuất
hành này còn mạnh mẽ và sâu xa hơn cuộc xuất hành vượt qua mà Israel đã
thực hiện qua sự hướng dẫn của ông Maisen: đó là cuộc xuất
hành ra khỏi lòng mình, ra khỏi cái tự mãn, tự đủ của mình, là căn
nguyên của mọi hành động bất công.
Từ những suy tư trên đây, Sứ điệp Mùa Chay năm
2010 đã cho thấy đâu là sự công bằng: Công bằng là nhận ra thái
độ không đúng nơi mình: đó là tự mãn, tự đủ của con người và từ đây con người
không nhìn tới Thiên Chúa và người khác. Bất công là đặt cái “của tôi” (le
mien) vào chỗ chính của “cái của Ngài” (của Thiên Chúa) (le Sien).
Đức Thánh Cha nói: “Đứng trước sự công chính của Thập giá, con người có thể
nổi loạn, bởi vì sự công chính này cho thấy rõ ràng rằng con người không phải
là một người tự quản lý chính mình nhưng cần một Người Khác để có thể trở nên
trọn vẹn là chính mình. Quay trở về với Chúa Kitô, tin vào Tin Mừng, tự căn gốc
có nghĩa là như thế này: là ra khỏi ảo tưởng cho mình là tự đủ để khám phá ra
và chấp nhận nhu cầu của mình – nhu cầu cần tới người khác và cần tới Thiên
Chúa, nhu cầu đỏi hỏi có sự tha thứ và tình bạn thân thiết”. Điều này cần
có sự khiêm nhường thẳm sâu để nhận thức rằng mình cần tới một Người Khác để
cứu chúng ta khỏi “cái của tôi”, “cái thuộc về tôi” và tự nguyện
nhường chỗ cho “cái của Ngài”, “cái thuộc về Ngài”. Nhưng làm sao chúng
ta có được thái độ cao cả và tận căn này? Đức Thánh Cha giới thiệu và hướng
chúng ta tới hai bí tích: Thánh Thể và Thống Hối. Vì “nhờ hành động của Chúa
Kitô trong hai bí tích này, chúng ta có thể đi vào trong sự công chính “lớn lao
hơn”, đó là sự công chính của tình yêu (xem Rm 13, 8-10), sự công
chính của những ai luôn cảm thấy trong mọi hoàn cảnh mình là người mắc nợ chứ
không phải là chủ nợ, bởi vì họ đã lãnh nhận được nhiều hơn là điều họ mong
muốn”.
Và sự công bằng chính thực này là sự công bằng của
Chúa Kitô, hay sự công bằng của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Chúa Kitô.
Sứ điệp đã trích lời Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma như sau: “Nhưng
ngày nay sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật
Maisen… chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, đối với tất cả những ai có lòng
tin. Quả thế không còn có sự khác biệt nữa, bởi vì tất cả đều đã phạm tội và
tất cả đều thiếu vinh quang của Thiên Chúa, nhưng tất cả được nên công chính
hóa một cách nhưng không nhờ ơn sủng, qua sự cứu chuộc trong Chúa Kitô Giêsu. Chính
Ngài là Đấng Thiên Chúa đã thiết định rõ ràng nên việc tẩy xóa tội lỗi, nhờ đức
tin, trong máu của Ngài” (Rm 3, 21-25).
Ở đây Sứ điệp còn cho chúng ta một định nghĩa khác
của sự công chính, hay một khía cạnh khác của sự công chính: đó là sự
công chính do ân sủng, sự công chính của Chúa Kitô. Vì tự mình, con
người không thể sửa lại được điều gì, không thể chữa trị, nơi chính mình hay
nơi người khác. Bởi vì như Thánh Phaolô xác quyết: tất cả được cứu rỗi nhờ
máu của Đức Kitô. Kiểu nói nhờ máu của Đức Kitô, điều này có
nghĩa là không lễ vật nào hay công việc gì có thể đem lại cho con người sự công
chính, có thể đem lại ơn tha thứ tẩy sạch mọi tội. Nhưng hành động hiến tế của
Đức Kitô trên Thập Giá mới có sức tẩy xóa tội lỗi. Qua hành động này Chúa Kitô
nhận lấy cho mình “lời chúc dữ” (maledictio) mà con người đáng nhận, và
ban cho con người “lời chúc phúc” (benedictio), mà chỉ dành cho Thiên
Chúa mà thôi (xem Gl 3, 13-14). Đó là sự công chính của Thập Giá.
3. Những dấn thân cụ thể từ Sứ điệp Mùa Chay
Sau khi trình bày một số điểm từ Sứ điệp Mùa Chay
năm 2010 của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, chúng ta đưa ra một số dấn thân cụ
thể trong Mùa Chay này để sống sự công chính.
a) Một thái độ căn bản phải có từ Sứ điệp này, là phải dành cho “điều
thuộc về Người” (Thiên Chúa), “điều của Người” ở đúng chỗ trong cuộc
sống của chúng ta. Chúng ta phải khiêm nhường đặt mình vào cung cách của người
lãnh nhận tất cả từ Thiên Chúa và từ đó biết loại bỏ đi thái độ “tự cho mình
là đủ”, thái độ “tự mãn”, một thái độ đã ăn sâu vào trong con người
chúng ta, và ngày nay trong xã hội tiến bộ về khoa học và kỹ thuật, thái độ “tự
đủ” này càng có cơ hội phát triển mạnh, đi tới hành động chối bỏ cả Thiên
Chúa và chối bỏ tha nhân. Phải có tác động thờ lạy chân chính mà Thiên Chúa
đang muốn tìm kiếm (xem Ga 4, 23). Hằng ngày trong kinh nguyện và trong
việc tập luyện tu đức, mỗi người phải cầu xin ơn cần thiết này là biết dành cho
Thiên Chúa chỗ nhất, chỗ đúng, chỗ trên hết dành cho Ngài, và biết chấp nhận “những
gì của Ngài” và trả về cho Ngài trong cuộc sống của chúng ta. Điều này
không dễ, nhưng cần một sự khiêm nhường thực sự, như lời Đức Thánh Cha nói
trong Sứ điệp: “Do đó người ta hiểu rằng như đức tin là điều gì hoàn toàn
khác với hành động tự nhiên, dễ dàng, hiển nhiên: vì thế cần có sự khiêm nhường
để chấp nhận là phải cần tới Người Khác để cứu ta ra khỏi “cái của tôi”, và
lãnh nhận lấy cho tôi “cái của Ngài”.
b) Một dấn thân cụ thể khác được Đức Thánh Cha nêu ra, đó là đóng góp vào
việc kiến tạo các xã hội công bình. Ngài nói như sau trong Sứ điệp của Ngài: “Chính
vì ý thức mạnh mẽ về cảm nghiệm này, người Kitô hữu được thúc đẩy để đóng góp
vào việc kiến tạo những xã hội công bình, trong đó tất cả nhận được những gì
cần thiết để sống theo phẩm giá riêng của con người và trong đó sự công chính
được làm cho sống động bởi tình yêu”. Lời mời gọi và đề nghị này thật rõ ràng.
Sứ điệp nói tới “các xã hội công bình”, điều này áp dụng cho mọi
nơi và mọi thời đại. Các xã hội này được kể ra một cách tượng trưng như sau: đó
là cộng đồng quốc tế, giữa các quốc gia với nhau; đó là cộng đồng quốc gia; các
cộng đồng dân sự khác. Rồi phải kể, và nhất là các cộng đoàn tôn giáo, Giáo Hội
hoàn vũ, Giáo Hội địa phương, các họ đạo, các cộng đoàn dòng tu, các hiệp hội
tông đồ, cộng đoàn các gia đình... Trong tất cả các cộng đoàn này, sự công
chính của Chúa Kitô phải được tỏ hiện. Không một ai bị loại bỏ, không một quyền
lợi nào bị khước từ cho mỗi phần tử, cũng như một bổn phận nào bị quên lãng. Không
một tiếng nói chính đáng nào, dù của người hèn kém nhất, mà không được lắng
nghe. Vì trong tất cả, Thiên Chúa phải ở trên hết; trong tất cả, “điều thuộc
về Ngài” phải được tôn trọng trên hết.
c) Trực tiếp liên hệ tới Mùa Chay thánh, Đức Thánh Cha cũng nhắc lại việc
sống Mùa này trong cái nhìn về sự công chính. Ngài nói ở phần mở như sau: “Anh
Chị Em thân mến, mỗi năm trong dịp Mùa Chay, Giáo Hội mời chúng ta hãy kiểm
điểm lại đời sống chúng ta dưới ánh sáng của giáo huấn từ Tin Mừng (nhấn
mạnh là của tôi). Năm nay Tôi muốn giới thiệu với Anh Chị Em một vài suy tư
về chủ đề thật lớn lao rộng rãi là sự công chính, khởi đầu từ lời Thánh Phaolô
gửi tín hữu tại Rôma: Sự công chính của Thiên Chúa được tỏ hiện qua đức tin vào
Chúa Kitô” (xem Rm 3, 21-22). Đó là việc phải làm trong Mùa Chay: kiểm
điểm lại đời sống nhất là những lỗi phạm về đức công bằng.
Rồi trong phần kết luận, Sứ điệp gợi lại cách vắn tất
các việc làm thông thường trong Mùa Chay: “Anh Chị Em thân mến, Mùa Chay đạt
tới tột đỉnh trong Tam Nhật vượt qua, trong đó cả năm nay nữa, chúng ta cử hành
sự công chính của Thiên Chúa, đó là sự trọn vẹn của đức ái, của ơn huệ,
của việc cứu rỗi. Chớ gì thời gian thống hối này trở nên cho mỗi kitô
hữu thời gian của việc trở về đích thực và thời gian hiểu biết sâu xa
về mầu nhiệm của Chúa Kitô, đến để hoàn tất mọi sự công chính”(nhấn
mạnh là của tôi). Với hai đoạn văn mở đầu và kết thúc Sứ điệp Mùa Chay năm
2010, chúng ta có được lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha về việc sống Mùa Chay
theo truyền thống vẫn có trong Giáo Hội, qua việc thực hành một số việc và có
một số thái độ siêu nhiên, đó là:
- kiểm điểm lại đời sống
- thời gian thống hối
- trở về đích thực
- chuyên cần cầu nguyện
- sống trọn vẹn đức ái
- hiểu biết sâu xa về mầu nhiệm của Chúa
Kitô: nhất là qua việc đọc Kinh Thánh và thực hành hình thức Lectio
divina (đọc Kinh Thánh với cầu nguyện) [Cuộc gặp gỡ của Đức Thánh
Cha Bênêđictô XVI với các linh mục giáo phận Rôma, ngày 18-2-2010, đầu Mùa Chay
tại Vaticano, đã diễn ra dưới hình thực một buổi Lectio divina, trong đó
Đức Thánh Cha đã cùng với các linh mục tại Rôma đọc, suy niệm và cầu nguyện
theo 3 đoạn của Thư gửi tín hữu Do Thái, 3.7 và 8].
Riêng việc trở về đích thực, Đức Thánh Cha
đã quảng diễn một cách sâu rộng hơn vào buổi tiếp tín hữu hàng tuần vào thứ tư,
17-2-2010 vừa qua. Ngài nói như sau: “Lời kêu gọi đầu tiên khi linh mục bỏ
tro trên đầu chúng ta là: Hãy thống hối (trở về) và tin vào Tin Mừng. Đây là
một lời nói phải được đón nhận một cách nghiêm chỉnh khác thường của nó, đón
nhận cái mới lạ khác thường gây bỡ ngỡ mà nó diễn tả ra. Lời mời gọi thống hối
trở về quả vậy, phải lột trần và tố cáo cái giả tạo dễ dàng thường đánh dấu lối
sống thường ngày của chúng ta. Thống hối trở về có nghĩa là chuyển hướng đi
trong cuộc sống của chúng ta: tuy nhiên, việc này không chỉ là một việc ráp nối
sửa lại nhỏ nhặt thôi, mà là một việc đổi chiều đúng nghĩa và của riêng chúng
ta. Thống hối trở về là đi ngược dòng đời, nơi có “dòng” đang tuôn chảy là một
lối sống giả tạo, hời hợt, không đồng thuận với lý tưởng và đầy mơ ảo, đó là
dòng sống thường chà đạp chúng ta, thống trị chúng ta và biến chúng ta thành nô
lệ của sự dữ hoặc có khi nên tù nhân của sự tầm thường trong phạm vi luân lý. Việc
thống hối trở lại nhắm tới một mức thật cao của đời sống Kitô hữu, với việc này
chúng ta phó thác cho Phúc âm sống và mang tính cách nhân vị, là chính Chúa
Giêsu Kitô (nhấn mạnh là của tôi). Con người của Ngài là đích điểm
sau cùng và ý nghĩa sâu xa của việc thống hối trở về, chính Ngài là đường mà
mọi người được kêu mời đi trên con đường này trong cuộc sống của mình, để cho
ánh sáng của Ngài chiếu soi chúng ta và được nâng đỡ bởi sức mạnh làm khơi động
các bước chân chúng ta đi. Theo cách thế này, thì việc thống hối trở về tỏ lộ
bộ mặt của Ngài thật sáng ngời và hấp dẫn; việc thống hối trở về này không chỉ
là một quyết định có tính cách luân lý nhằm sửa lại một số điều sai lệch trong
đời sống chúng ta, nhưng là một sự chọn lựa của đức tin, nhằm lôi kéo toàn
thể con người đi vào sự hiệp thông thân tình với Con người sống động và cụ thể
của Chúa Kitô” [Báo L’Osservatore Romano, số ngày 18-2-2010,
trang 1].
Đi theo với các lời nhắn nhủ này, phụng vụ
trong Mùa Chay cũng nhắc nhở rõ ràng các việc phải làm để sống Mùa Chay sốt
sắng. Chúng ta đọc lại Thánh Thi Giờ Kinh Sách cho Mùa Chay tóm gọn các việc
làm trong Mùa Chay như sau: “Đây truyền thống thiêng liêng Giáo Hội, sống
một mùa sám hối ăn năn, Nức lòng ta hãy lo toan, Bốn mươi ngày chẵn chuyên cần
thực thi. Sách Lề Luật Môisen truyền dạy, Ngôn sứ hằng thúc đẩy không ngơi,
Kitô Vua Cả muôn đời, cũng từng trai tịnh bốn mươi đêm ngày. Ta hãy giảm mê say
vui sướng, Từ nói năng, ăn uống ngủ nghê, Tâm hồn thể xác đôi bề, Tập quen khắc
khổ thiết gì xa hoa. Phải cương quyết tránh xa hiểm họa, đã bao người nhẹ dạ
tiêu vong, Luôn luôn cảnh giác đề phòng, Kẻo sa chước quỷ mắc vòng Satan” [Sách
Các Giờ Kinh Phụng Vụ, 1995, trang 351] . Thánh thi này có tựa đề
tiếng Latin Ex more docti mystico, [Bản văn latinh của thánh thi: Ex
more docti mýstico / servémus abstinéntiam, / deno diérum círculo / ducto
quater notíssimo. / Lex et prohétae prímitus / hanc praetulérunt, póstmodum /
Christus sacrávit, ómnium/ rex atque factor témporum. / Utámur ergo párcius /
verbis, cibis et pótibus, / somno, iocis et árctius / perstémus in custódia. /
Vitémus autem péssima / quae súbruunt mentes vagas, / nullúmque demus cá1lido /
hosti locum tyránnidis / (Praesta, beáta Trínitas, / concéde, simplex Unitas, /
ut fructuósa sint tuis / haec parcitátis múnera. Amen), trong Liturgia
Horarum, vol., II, editio typica altera Libreria Editrice Vaticana, 1986,
trang 33] được coi là của Thánh Giáo Hoàng Gregorio Cả (540-604) và là thánh
thi đầu tiên của Mùa Chay. Thánh thi cho chúng ta biết ý nghĩa Mùa Chay, thời
gian Mùa Chay kéo dài 40 ngày như truyền thống Kinh thánh đã có, ngay từ thời
ông Môisen và các Tiên tri và chính Chúa Kitô đã thánh hóa truyền thống này qua
việc Ngài ăn chay 40 ngày trong sa mạc. Hành động của Chúa là gương cho chúng
ta sống, như Thánh Tôma tiến sĩ nói: “Mọi hành động biến cố của Chúa Kitô là
lời giáo huấn cho chúng ta”. Các việc phải làm trong Mùa Chay là: kiêng
khem, chay tịnh trong lời nói, việc dùng của ăn, thức uống, thời giờ nghỉ ngơi,
vui chơi giải trí. Thời gian này phải được tập luyện để chiến thắng các cám dỗ
lăng loàn do thù địch ma quỷ bày ra.
Đó là một vài điểm của Sứ điệp Mùa Chay năm 2010. Mỗi
người có thể tìm đọc và suy niệm thêm, như lời mời gọi của chính Đức Thánh Cha.
Đức Thánh Cha đã trao phó hành trình Mùa Chay của Giáo Hội cho Đức Trinh Nữ rất
thánh Maria. Trong buổi gặp gỡ tín hữu ngày thứ tư, 17-2-2010, Ngài nói như
sau: “Các bạn thân mến, trong khi chúng ta đang sẵn sàng thực hiện hành
trình khắc khổ của Mùa Chay, chúng ta muốn lấy lòng tín thác đặc biệt mà cầu
xin sự bảo trợ và giúp đỡ của Đức Trinh Nữ Maria. Xin Mẹ, người đầu tiên tin
vào Chúa Kitô, cùng đồng hành với chúng ta trong 40 ngày, với việc cầu nguyện
chuyên cần và với việc thống hối chân thành này, để sau khi được thanh luyện và
hoàn toàn đổi mới trong tâm trí và trong tinh thần, chúng ta tiến tới việc mừng
mầu nhiệm lớn lao là lễ Phục sinh của Người Con của Mẹ. Chúc tất cả Mùa Chay
thật tốt đẹp và sốt sắng!” [Báo L’Osservatore Romano, số ngày
18-2-2010, trang 1]
Lời nguyện nhập lễ (Thánh lễ cầu xin ơn hòa bình
và công lý)
Lạy Chúa, Chúa đã mặc khải cho nhân loại
rằng những ai xây dựng hòa bình
sẽ được phúc gọi là con cái Chúa.
Xin giúp chúng con luôn kiếm tìm công lý
Chúa đã dạy
vì chỉ có thế, chúng con mới được hưởng
một nền hòa bình đích thực và trường cửu.
Chúng con cầu xin.
(Sách lễ Rôma, ấn bản mẫu năm 1992, trang 931,
nhấn mạnh là của tôi).
Rôma, ngày 19-2-2010
Lm. Phanxicô Borgia Trần Văn Khả