Rôma ngày 17/12/2006
Nhân dịp
xuất bản cuốn sách « Trở về Căm Bốt, con đường tự do của một người sống
sót từ quân Khmers đỏ » (Retour au Cambodge, chemin de liberté d’une
survivante des Khmers rouges) vào đầu năm tới, bà Claire Ly đã chấp nhận trả
lời một vài câu hỏi để giúp độc giả Zenit hiểu thêm cuộc đời của bà, nhất là
việc bà theo đạo Công Giáo.
Claire
Ly sinh tại Căm Bốt năm 1946. Bà là giáo sư triết học tại một trường trung học
ở Phnom Penh, sau đó là giám đốc kỹ thuật Viện dịch sách giáo khoa tại Bộ Giáo
Dục Căm Bốt. Năm 1975, với một con nhỏ trong tay và đang mang thai, bà bị giam
trong các trại của Pol Pot và sống trong « địa ngục ». Cha bà và
chồng bà bị xử bắn. Bà bị bắt buộc lao động trong những điều kiện phi nhân đạo,
chứng kiến những cuộc xử tử vội vàng, sự nhồi sọ chính trị của các trẻ em.
Năm
1979, sau khi chế độ Pol Pot xụp đổ, bà tị nạn bên Thái Lan và sau đó sang Pháp
và sống cho tới nay. Bà đã nhận phép thanh tẩy của Giáo Hội công giáo năm 1983.
Zenit :
Thưa bà, bà làm gì mà sống sót được với sự điên rồ sát nhân của quân Khmers
đỏ ?
Bà
Ly : Quân Khmers đỏ có ý thức hệ chính trị muốn xây
dựng một nước Căm Bốt hoàn toàn Khmer, một nước Căm Bốt gạt bỏ hết mọi ảnh
hưởng ngoại bang. Để thực hiện ý thức hệ ảo vọng này, họ bắt đầu bằng sự loại
trừ tất cả những ai chống lại họ : những người tri thức do đó là những
người đầu tiên bị nhắm tới. Người dân trong tất cả các thành phố bị đuổi ra
hết. Angkar (chính phủ Khmer đỏ) coi những người thành thị là một « dân
mới » bị ảnh hưởng của văn minh tây phương. Dân này cần phải được
« tẩy luyện » bằng cách rời thành phố và làm việc khổ sai trên đồng
lúa để trở thành những người Khmer thật sự. Để có thể sống sót trong cái vòng luẩn
quẩn của bạo động, tôi đã phải dấu kín tiểu sử của mình : trước khi họ
đến, tôi dậy triết học tại thủ đô và giữ chức giám đốc kỹ thuật Viện dịch sách
giáo khoa tại Bộ Giáo Dục Căm Bốt. Do đó tôi thuộc thành phần « dân lai
căng ». Phương cách duy nhất để sống sót là theo lệnh của Angkar. Tất cả
mọi chống đối đều bị loại trừ một cách dã man. Tôi đã theo lệnh, lao động, làm
tất cả những gì mà quân Khmer đỏ yêu cầu : xây kênh đập, việc đồng áng
trồng lúa trong một bầu khí kinh hoàng và đói khát. Nhưng làm sao vâng lệnh của
những kẻ độc tài mà không mất tâm hồn mình ?...
Zenit :
Những biến cố nào đã làm bà nghi ngờ lòng tin phật giáo của mình ?
Bà
Ly : Trước một sự bạo động tàn sát con người như thế,
lúc đầu tôi đã hướng tới giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh đến sự thay đổi của
mọi thực tại. Tôi đã thấy rằng cuộc đời tôi tuân theo luật thay đổi này. Chỉ
trong một vài giờ, đời tôi đã hoàn toàn thay đổi : tôi mất tất cả những
người mà tôi yêu mến. Tất cả những điều mà tôi tưởng đã đạt được về cá nhân và
xã hội vụt bay mất ! Những ý tưởng nổi loạn và thù hận hoàn toàn xâm chiếm
con người tôi. Tôi đã không thể giữ được sự thanh thản trong cơn bão bạo động
này. Tôi tự thấy mình như một phật tử xấu không có khả năng sống theo lời dậy
của Đức Phật. Tôi đã ngã vào trong những tình cảm tiêu cực theo đạo Phật :
sự giận dữ và sự thù hận. Tôi đã trở thành một kẻ chống lại luật nghiệp chướng,
luật về hành vi và những hậu quả của nó biện minh cho hiện tại bằng những hành
vi trong quá khứ. Tôi không còn muốn đổ bất cứ trách nhiệm nào về mình cho sự
bất hạnh của mình. Chồng tôi và bố tôi không có tội gì mà phải bị xử bắn. Sự
bạo động của quân Khmer đỏ thì phi lý, chẳng có giải thích nào... Và tất cả
chúng tôi là những nạn nhân vô tội.
Zenit :
Bằng cách nào mà bà đã đối thoại được với « Thượng Đế của người tây
phương » và tin tưởng nơi Ngài ?
Bà
Ly : Để khỏi trở thành điên, tôi đã tự tạo cho mình
theo truyền thống phật giáo một đối tượng trong đầu để đổ vào đó những tình cảm
tiêu cực của mình. Trong sự bất mãn và giận dữ, tôi muốn tạo cho mình một đối
tương tâm thần mà tôi gọi là « Thượng Đế của người tây phương ». Và tôi
chửi vả Ngài mọi lúc mà không cần biết Ngài hiện hữu hay không. Trong trại của
quân Khmer đỏ, Thượng Đế của người tây phương trở thành đối tượng của sự
thù hận và sự giận dữ của tôi. Trong hai năm đầu, Ngài chỉ là nạn nhân của tôi.
Tôi bắt Ngài làm chứng cho ý chí muốn sống của tôi. Quân Khmer đỏ muốn cho tôi
chết cũng như những người tri thức khác, câu trả lời của tôi là phải sống
sót... Với thời gian, vị Thương đế này trở nên người đàm thoại duy nhất của
tôi. Tôi nhận ra rằng mặc dù hai năm trong sự thù hằn và giận dữ đối với Ngài,
Ngài đã cùng bên tôi một cách thầm lặng trong cuộc đấu tranh để sống. Tôi nhận
ra rằng sức mạnh giúp tôi sống sót không phải do từ tôi, nhưng từ một Ai khác.
Tuy nhiên tôi không thực sự nắm được và hiểu điều này.
Zenit :
Trong cuốn sách của bà với tựa đề « Trở về từ địa ngục », bà khẳng
định rằng bà theo đạo công giáo khi tham dự thánh lễ. Bà có thể giải thích cho
chúng tôi không ?
Bà
Ly : Thật không phải là điều dễ để giải thích cho quí
vị sự thâm tín tinh thần đã dẫn tôi đến việc xin chịu phép thanh tẩy. Tôi chỉ
có thể nói rằng sự thâm tín tôi đã trải qua trong một buổi lễ là chỗ đến của
một con đường dài.
Sau khi
đã sống 4 năm trong trại của quân Khmer đỏ với linh cảm được đồng hành cùng với
Thượng Đế của người tây phương, tôi đã gặp Phúc Âm trên con đường của mình.
Chính thông điệp Dives in misericordia của ĐGH Gioan Phaolô II đã cho
tôi ước muốn đọc Phúc Âm. Đó là cuộc gặp gỡ khởi đầu của tôi. Cuộc gặp gỡ đã mở
ra cho tôi một hành trình mới và cho tôi khám phá ra một vị thầy mới : Đức
Giêsu thành Nazareth. Lúc đó tôi rất ngưỡng phục Ngài nhưng tôi không nghĩ tới
khía cạnh thần linh của Ngài. Sự hấp thụ giáo dục của Phật Giáo đã giúp tôi nắm
được một cách dễ dàng khía cạnh nhân bản của Ngài hơn là khía cạnh thần linh.
Tôi đã suy tư với Phúc Âm trong vòng một năm. Chỉ sau đó tôi mới tò mò đi dự
thánh lễ. Trong buổi lễ Thánh Thể này, tôi ý thức ra rằng vinh danh của Thượng
Đế không hạ thấp xuống sự lớn lao của con người. Tôi linh cảm là Thượng Đế lớn
lao vô biên không ép buộc tự do của tôi. Một Thượng Đế cũng cần sự đồng ý của
tôi để trở thành Thượng Đế trọn vẹn. Tôi thấy sự song song giữa tự do của mình
và quyền năng của Thượng Đế là điều tuyệt đẹp.
Là người
theo đạo Phật, tôi được hấp thụ về sự cao cả của con người, bởi vì chỉ có con
người mới có thể tự giải thoát khỏi vòng luân hồi để đạt tới cùng đích là Niết
Bàn. Truyền thống phật giáo đặt con người trên mọi thần linh. Nghịch lý thay,
chính lòng tin tưởng vào sự cao cả của
con người đã thúc đẩy tôi từ chối luật về nghiệp chướng. Tôi có thể nói là
chính nòng cốt của Phật giáo đã thúc đẩy tôi đến một hành trình khác. Giai đoạn
thứ nhất là sự gặp gỡ « Thượng Đế của người tây phương » trong bất
mãn và hận thù. Giai đoạn thứ hai là sự gặp gỡ với Phúc Âm và Đức Giêsu thành
Nazareth. Tôi thành thật tin rằng chính sự gần gũi với Phúc Âm đã cho phép tôi
đạt tới giai đoạn thứ ba là gặp gỡ Đức Kitô Thánh Thể. Trong thánh lễ đó, một ước
muốn điên rồ bao trùm lấy tôi : ước muốn trở thành môn đệ chứ không chỉ là
thính giả của Đức Giêsu Kitô... Chính ước muốn thật không hợp lý này đối với
truyền thống phật giáo của tôi đã dẫn tôi đến việc xin rửa tội.
Đã 23
năm tôi từ giã sự Khôn Ngoan của Đức Phật để sống sự điên rồ của Tình Yêu của
Đức Giêsu Kitô. Tôi luôn luôn có cảm tưởng là con đường tôi đi là một hành
trình luôn được đổi mới bằng sự đối thoại liên tục giữa người phật tử ngày xưa
và người công giáo hiện nay tôi trở thành... Tôi tạ ơn Chúa Thánh Thần đã cho
tôi được sống sự đón tiếp nồng hậu đối với một người phật giáo, đó là bước đầu
của Nước Trời.
Bà
Claire Ly hiện dậy tại Viện Khoa Học và Thần Học về các tôn giáo (ISTR) ở
Marseille. Bà là tác giả của cuốn sách « Trở về từ địa ngục, Bốn năm trong
các trại của quân Khmer đỏ » ( Revenue de l’enfer, Quatre ans dans les
camps khmers rouges), nhà xuất bản Edition de l’atelier 2002 và cuốn sách thứ
hai đã nói ở trên, nhà xuất bản Edition de l’atelier 2007. Trang internet của
bà : www.clairely.com.
Thông tấn Zenit
Lang Biang dịch