Nhất định là can đảm
Theo tin Zenit ngày 4 tháng Năm, Linh Mục Federico
Lombardi, Dòng Tên, phát ngôn viên của Tòa Thánh, đã gọi cuộc hành hương sắp
đến của Đức GH Bênêđíctô XVI tới Đất Thánh “nhất định là can đảm” vì vùng này
đang kinh qua nhiều căng thẳng hơn bình thường sau cuộc tranh chấp đẫm máu hồi
tháng Giêng tại Gaza. Trong cuộc họp báo vào ngày hôm nay, Cha Lombardi cho
rằng cuộc tông du này là cuộc tông du phức tạp nhất trong 12 cuộc tông du quốc
tế của Đức Bênêđíctô XVI từ trước đến nay.
Vị phát ngôn viên này lặp lại lời khẳng định được chính
Đức Thánh Cha phát biểu vào ngày Chúa Nhật rằng cuộc hành hương này sẽ giúp
ngài “củng cố và khuyến khích các Kitô hữu của Đất Thánh đang ngày đêm phải
đương đầu với nhiều nỗi khó khăn”.
Theo cha Lombardi, tình hình chính trị của vùng này nay
khá bấp bênh, vì cả Do Thái lẫn Hoa Kỳ đều mới vừa có tân chính phủ, sự chia rẽ
giữa người Palestine khiến cho các cuộc bầu cử phải hoãn lại và các căng thẳng
do Iran đang tạo ra.
Cha cho hay: “Trong một khung cảnh gồm nhiều tình thế
đang biến động cũng như đang căng thẳng, cuộc tông du của Đức Giáo Hoàng xuất
hiện như một nghĩa cử đầy hy vọng và tin tưởng, nhằm đóng góp phần nào cho hòa
bình và hoà giải. Đối với tôi, rõ ràng nó là một nghĩa cử nhất định can đảm và
là một chứng tá tươi đẹp cho cam kết đem lại hoà bình và hoà giải trong các
tình thế khó khăn”.
Cha Lombardi cũng nhắc lại rằng nhiều người cho rằng cuộc
tranh chấp tại Gaza vào cuối năm 2008 đầu năm 2009 sẽ buộc Đức Bênêđíctô phải
hủy bỏ chuyến tông du. Nhưng ngài bảo: Đức Thánh Cha vẫn muốn thực hiện chuyến
tông du ấy như một vận động cho hòa bình. Ý nguyện của Đức Giáo Hoàng đã tạo
nên ngữ cảnh cho lời kêu gọi vào hôm Chúa Nhật, bằng tiếng Anh, trong buổi đọc
kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng (Regina Coeli) với quần chúng tại Công Trường Nhà
Thờ Thánh Phêrô: “Thứ Sáu này cha sẽ lên đường đi hành hương Đất Thánh, nơi
nhiều người đầu tiên đã được nghe tiếng nói của Đấng Chăn Chiên Lành. Cha xin
toàn thể anh chị em cùng cha cầu nguyện cho những người đau khổ của vùng đó.
Một cách đặc biệt, cha xin anh chị em nhớ đến dân tộc Palestine , là những
người từng chịu rất nhiều khốn khó và đau thương lớn lao. Xin Chúa chúc lành
cho họ và tất cả những ai sống tại Đất Thánh được ơn phúc hợp nhất và bình an”.
Nhận định của tờ Irish Times
Ngày 4 tháng Năm vừa qua, tờ Irish Times có một bài của
Mark Weiss nói về cuộc tông du Đất Thánh của Đức Giáo Hoàng, mà ông mô tả là để
thăng tiến các liên hệ liên tôn vì các liên hệ đang căng thẳng giữa Vatican với
người Do Thái Giáo lẫn Hồi Giáo cần được cải thiện.
Bài báo này cho hay: sau trạm dừng chân đầu tiên ở
Gio-đăng (từ Thứ Sáu), Đức Thánh Cha sẽ bay tới Do Thái vào ngày Thứ Hai và sẽ
ở lại đó 5 ngày, đi thăm Giêrusalem, Nadarét, Bê-lem và West Bank . Cuộc tông
du lần này cần thiết để khích lệ cộng đồng Kitô Giáo tại đây, một cộng đồng
đang nhỏ dần chỉ còn chừng 170,000 người. Pierbattista Pizzaballa, vị đại diện
Vatican trông coi các cơ sở thánh, cho hay: cuộc hành hương này nhằm nâng cao
tinh thần cho cộng đồng thiểu số: “Cuộc thăm viếng này trước hết và đầu hết
nhằm khích lệ các Kitô hữu tại Đất Thánh chịu ở lại”. Tình hình càng đặc biệt
nghiêm trọng hơn tại West Bank, nơi mà đa số các thành viên có học và giầu có
của cộng đồng Kitô Giáo đã bỏ ra đi, để cả Bêlem lại cho đa số Hồi Giáo đông
đảo ở đấy.
Đức Giáo Hoàng quyết định không tới Gaza , nơi chỉ có
khoảng 2,500 Kitô hữu sinh sống giữa khối 1.5 triệu người Hồi Giáo. Hai trăm
người Công Giáo từ giải đất này sẽ đến Bêlem tham dự Thánh Lễ hôm Thứ Tư tới
tại Công Trường Máng Cỏ, do Đức Giáo Hoàng cử hành.
Cuộc viếng thăm này cũng được kỹ nghệ du lịch Do Thái coi
là cơ hội để rũ bỏ hình ảnh tiêu cực mà người ta vốn có về xứ sở họ tiếp theo
sau cuộc chiến gần đây tại Gaza . Họ hy vọng hơn 15,000 khách hành hương sẽ
tháp tùng Đức Giáo Hoàng trong chuyến đi này. Ngoài ra, giới chức Do Thái còn
ước lượng sẽ có khoảng 200,000 du khách Kitô hữu khác tiếp tục tới Do Thái vào
những ngày còn lại trong năm. Người ta cũng hy vọng khoảng 50,000 người thờ
phượng sẽ tham dự Thánh Lễ sáng Thứ Năm trên Mount Precipice bên ngoài Nadarét,
vốn là địa điểm trong Thánh Kinh nơi đám đông Do Thái giận dữ toan tính liệng
Chúa Giêsu xuống vực thẳm.
Con số khách hành hương cùng đi với Đức GH Bênêđíctô ít
hơn nhiều so với con số 47,000 người từng đến với Đức Gioan Phaolô II lúc ngài
tới đó năm 2000. Sự lạc quan do cuộc hành hương thiên niên kỷ đem lại đã mau
chóng tan biến với việc bùng nổ cuộc nổi dậy lần thứ hai sau đó mấy tháng của
người Palestine .
Vị giáo hoàng thăm Đất Thánh đầu tiên là Đức Phaolô VI
vào năm 1964, trước khi Vatican thừa nhận nhà nước Do Thái. Các liên hệ ngoại
giao đầy đủ đã được thiết lập vào năm 1993, nhưng dị biệt vẫn tồn tại trong các
vấn đề như quyền sở hữu tài sản của Giáo Hội tại Đất Thánh và giấy phép du hành
cho hàng giáo sĩ Palestine tại West Bank.
Cuộc thăm viếng vào tuần tới xẩy ra sau hai biến cố gần
đây vốn gây ‘cọ sát’ cho các liên hệ Công Giáo và Do Thái. Các nhóm Do Thái và
Do Thái Giáo từng chỉ trích các động thái nhằm phong chân phước cho Đức GH Piô
XII, bị một số người trong bọn họ cho là đã không làm đủ để cứu người Do Thái
trong Thế Chiến Hai.
Đức GH Bênêđíctô sẽ đặt một vòng hoa tại viện bảo tàng
Diệt Chủng Yad Vashem ở Giêrusalem, nhưng sẽ không vào bên trong, tránh không
xem hình trưng bày có ghi chú rằng Đức Piô không chịu phản kháng chống lại việc
Diệt Chủng của Quốc Xã và đã chỉ duy trì một thái độ trung lập.
Các liên hệ còn bị căng thẳng thêm do việc Vatican tha vạ
tuyệt thông mới đây cho Giám Mục Richard Williamson, người Anh, từng bác bỏ
không có việc 6 triệu người Do Thái bị thảm sát trong biến cố Diệt Chủng. Giáo
Hội sau đó đã giải thích, cho rằng Đức GH không biết gì tới quan điểm của Giám
Mục Williamson khi tha vạ tuyệt thông cho vị này, và Toà Thánh đã bác bỏ lời
xin lỗi của ông ta.
Oded Ben-Hur, người từng là đại sứ Do Thái tại Vatican
giữa các năm 2004 và 2008, nói với tờ Irish Times rằng các liên hệ song phương
nay đã đủ mạnh để có thể đương đầu với những bất đồng kiểu vụ tranh cãi về việc
phong chân phước và vụ tha vạ tuyệt thông cho Williamson. Ông Ben-Hur cũng tiên
đoán rằng các liên hệ giữa Do Thái và Vatican sẽ được lên cấp trong tương lai
gần, mà cuộc tông du lần này của Đức GH sẽ là một đóng góp lớn. Ông đặt câu
hỏi: “Còn gì tốt đẹp hơn cuộc thăm viếng của vị đứng đầu Giáo Hội tới Đất Thánh
để củng cố các liên hệ song phương?”
Tuần trước, tổ chức “Huynh Đệ Hồi Giáo” tại Gio-đăng yêu
cầu Đức GH xin lỗi về các nhận định của ngài vào tháng Chín 2006 về Tiên Tri
Muhammad, những nhận định bị nhiều người Hồi Giáo coi là nhục mạ. Đức GH từng
tuyên bố rằng ngài “hối tiếc sâu xa” trước phản ứng đối với bài diễn văn của
ngài trong đó, ngài trích dẫn một bản văn trung cổ coi một số giáo huấn của
Muhammad như là “xấu xa và bất nhân”. Dựa vào khả thể các nhóm Hồi Giáo cực
đoan có thể tấn công, Sở An Ninh Do Thái (tên cũ là Shin Bet) phải lên tiếng
khuyến cáo Đức GH không nên du hành bằng giáo hoàng xa khi tới Nadarét, vì sợ
chiếc xe không tránh được cuộc tấn công của khủng bố.
Chú tâm tới hợp tác
Sam Greenberg ngày 4 tháng Năm thì thuật lại cuộc họp báo
của Đức Cha Antonio Franco, sứ thần Tòa Thánh tại Do Thái, nói về cuộc tông du.
Theo Greenberg, Đức GH Bênêđíctô sẽ cố gắng tránh các vấn đề gây tranh luận và
chỉ chú tâm tới việc hợp tác liên tôn. Trong cuộc họp báo vào hôm Thứ Hai do
Mishkenot Sha’ananim Israel Newsmaker Forum và Hội Đồng Phối Trí Liên Tôn tại
Israel tổ chức, Đức Cha Franco nói rằng: “Mục tiêu của Đức Thánh Cha là tới để
cầu nguyện; cầu nguyện cho hòa bình, cầu nguyện cho hợp nhất”. Đức Cha cũng cho
hay: cuộc hành hương của Đức GH tới Do Thái, bắt đầu vào ngày 11 tháng Năm, sẽ
không nhắc chi tới những tranh chấp như việc tái lập lại lời cầu xin cho người
Do Thái Giáo trở lại, vai trò của Giáo Hội trong Thế Chiến Hai, hay mối liên hệ
của Giáo Hội với Giám Mục Richard Williamson, người bác bỏ Nạn Diệt Chủng. “Tất
cả các vấn đề ấy đã được chôn vùi và giải quyết rồi. Đức Giáo Hoàng không tới
đây để thảo luận các vấn đề, để nói hay để cãi cọ”.
Thay vào đó, ngài sẽ chú tâm tới các liên hệ liên tín
ngưỡng, tham dự cuộc gặp gỡ lần đầu với các nhóm và các nhà hoạt động cho đối
thoại liên tôn. Đức Cha Franco cho hay: “Đó là các công trình luôn cần được
khuyến khích, hỗ trợ và trân qúy bằng đủ mọi cách, vì chúng thực sự cực kỳ quan
trọng”.
Giống nhiều cuộc tông du trước đây, Đức GH sẽ gặp gỡ các
nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như thủ tướng Binyamin Netanyahu, tổng thống Shimon
Peres và chủ tịch Palestine, Ông Mahmoud Abbas. Song song với những gặp gỡ ấy,
Đức GH sẽ chủ trì ba Thánh Lễ ngoài trời: một ở Giêrusalem, hai thánh lễ kia
tại Bêlem và Nadarét. Đức Cha Franco nói thêm: “Ngài tới đây như một khách hành
hương, nên điều ấy nhắc ta nhớ tới toàn bộ ý nghĩa đặc thù và độc đáo cũng như
tầm quan trọng và ý nghĩa của Đất Thánh”.
Tuy đây là cuộc thăm viếng có tính mục vụ, chứ không có
tính chính trị, nhưng Đức GH cũng quan tâm và cố gắng góp phần giải quyết cuộc
tranh chấp giữa Palestine và Do Thái và cải thiện thân phận các người Công Giáo
đang sống tại Do Thái và các lãnh thổ trong vùng. Và mặc dù sứ điệp chính trong
bài diễn văn của Đức GH chưa được tiết lộ, song Đức Cha Franco ‘đoán’ rằng có
lẽ nó sẽ đề cập tới thực tại của chúng ta tại Đất Thánh, tới các khó khăn, các
niềm hy vọng, các nỗi thất vọng của chúng ta, và cố gắng đem lại một sứ điệp hy
vọng.
Nhận định từ Nam Hàn
Yehonathan Tommer, trên tờ điện tử OhMyNews của Nam Hàn
ngày 5 tháng Năm, thì cho rằng cuộc tông du của Đức Bênêđíctô sẽ tán dương khát
vọng hòa bình và thanh bình tại Đất Thánh. Theo Tommer, cuộc tông du này khiến
nhiều người hy vọng rằng biết đâu các nhà lãnh đạo tôn giáo lại không thành công
ở ngay chỗ các đồng nghiệp thế tục của họ liên tiếp thất bại.
Thực vậy, cuộc tranh chấp Do Thái và Palestine không phải
là một cuộc tranh luận thần học giữa Hồi Giáo và Do Thái Giáo trên mảnh đất rắc
rối nơi các Kitô hữu và Kitô Giáo nói chung bị coi là những tay chơi bên lề. Ấy
thế nhưng nó thường mang sắc thái bóng gió khi các giải pháp thực tiễn nhằm
giảng hòa các khát vọng quốc gia trái ngược nhau bất đồng với các cấm kỵ thần
thánh và lịch sử thường được các lãnh tụ Palestine và Do Thái trưng dẫn khác
nhau để biện minh cho các mục tiêu không thỏa hiệp được của họ.
Các hy vọng và mong chờ nơi cuộc hành hương này đã được
đồng thanh nói ra bởi một nhóm tư tưởng gia Do Thái, Hồi Giáo và Kitô Giáo tại
một cuộc hội học vào tuần trước do Hội Đồng Phối Trí Liên Tôn tại Do Thái
(ICCI) tổ chức tại Trung Tâm Văn Hóa Thánh Mẫu ở Giêrusalem.
Đối thoại liên tín ngưỡng phải tiếp tục
Các nhà tư tưởng trên nhất trí về nhu cầu phải tiếp tục
cuộc đối thoại liên tín ngưỡng và xây dựng các nền tảng quần chúng cho sự hiểu
biết và hợp tác văn hóa giữa các nhóm sắc tộc và tôn giáo của xứ sở. Nhưng họ
không nhất trí trong hoài mong của họ là làm sao cuộc hành hương kéo dài năm
ngày của Đức GH tại Đất Thánh, những lời cầu nguyện và những cuộc gặp gỡ của
ngài với các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo ở Gio-đăng, ở Do Thái và ở các
lãnh thổ Palestine có thể khởi diễn được ‘các ý tưởng sáng tạo’ lạ lùng vốn
vuột khỏi tầm với của các chính khách thế tục trong cố gắng giải quyết cuộc
tranh chấp Do Thái và Palestine của họ.
Đức GH Bênêđíctô XVI sẽ là vị giáo hoàng thứ ba trong
suốt lịch sử Đất Thánh tới đây hành hương. Đức Cha Antonio Franco, Sứ Thần Tòa
Thánh tại Do Thái nói rằng: “Ngài chủ yếu tới đây như một khách hành hương để
cầu nguyện cho hoà bình và hợp nhất, vào thời điểm chúng ta đang phải đương đầu
với nhiều khó khăn và phải đưa ra giải pháp cho các vấn đề của chúng ta. Chúng
ta phải chờ mong cái ngày chúng ta có thể sống hòa bình và an ổn tại khu vực
này, mà không sợ nhu cầu phải bảo vệ và phòng vệ chính mình”.
Đức Cha Franco đề cập tới sứ điệp hợp nhất mà Đức GH sẽ
đem đến: “hợp nhất giữa người Kitô Hữu với nhau và giữa người Kitô Giáo, Hồi
Giáo và Do Thái Giáo trong một tinh thần chấp nhận và hợp tác trong tư cách
thành viên của đại gia đình nhân loại để mọi người cảm nhận được là mình đang ở
trong quê hương mình”. Ngài cũng cho biết: cuộc viếng thăm này được Do Thái tổ
chức rất cẩn trọng, hoàn toàn thỏa mãn các ước vọng và ý thích của Vatican .
Đối với ngài, nó sẽ “tăng cường các cố gắng hằng ngày nhằm hiểu biết và hợp tác
tốt hơn giữa các dân tộc trong vùng và tạo ra được các điều kiện thuận lợi cho
hòa bình trong đó các tranh chấp khác có thể được giải quyết”.
Chương trình hành hương
Đức GH Bênêđíctô XVI sẽ tới Do Thái vào ngày 11 tháng Năm
và đáp trực thăng từ phi trường quốc tế Ben Gurion để tới Giêrusalem, nơi ngài
sẽ được chào đón bởi Thị Trưởng Giêrusalem, Ông Nir Barkat. Ngài sẽ tới thăm
Tổng Thống Do Thái Shimon Peres tại Dinh Tổng Thống, sau đó tới tham dự nghi
thức đặt vòng hoa tại Yad-Va-Shem để tưởng niệm các nạn nhân của Nạn Diệt
Chủng.
Trong bốn ngày kế tiếp, Đức GH sẽ nói truyện với hàng
ngàn khách hành hương tham dự các Thánh Lễ đại trào tại Giêrusalem; tại Bêlem,
nơi ngài cũng sẽ gặp Chủ Tịch Palestine, Ông Mahmoud Abbas; và tại Nadarét,
trên Đồi Vực Thẳm (Mount of the Precipice), nơi ngài sẽ gặp Thủ Tướng Do Thái
là Benjamin Netanyahu. Ngài sẽ gặp Giáo trưởng Hồi Giáo của Giêrusalem ở Đền
Haram e Sharif, Đại Giáo Trưởng toàn Do Thái và các nhà lãnh đạo địa phương
thuộc các hệ phái La Tinh, Hy lạp, Chính Thống và nhiều hệ phái Kitô Giáo khác.
Ngài cũng sẽ thăm Bức Tường Phía Tây và Nhà Thờ Mộ Thánh và tham dự một buổi
gặp gỡ liên tín ngưỡng tại Khách Sạn Đức Bà đối diện với Tường Cổ Thành của
Giêrusalem trước khi trở lại Rôma vào ngày 15 tháng Năm.
Từ ban công nhìn xuống Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô,
trong buổi chúc lành truyền thống vào ngày Chúa Nhật vừa qua, Đức GH nói rằng:
“Do Thái là mảnh đất Chúa chúng ta sinh ra, chịu chết và sống lại, một nơi
thánh đối với ba tôn giáo độc thần, từng chịu đựng bạo lực và bất công suốt 60
năm qua. Điều ấy đã và đang tạo ra một bầu khí thiếu vắng đức tin, bấp bênh và
sợ hãi dẫn tới tranh chấp giữa lân bang hàng xóm với nhau và giữa anh em với
nhau”. Đức Thánh Cha khuyên nhủ các Kitô hữu khắp thế giới “cùng cầu nguyện với
ngài cho hạnh phúc của mọi cư dân tại Đất Thánh và toàn vùng để họ được hồng ân
hoà giải và hòa bình”.
Thăm viếng mục vụ để củng cố các cộng đồng Kitô
hữu
Đức Thượng Phụ Latinh, Fouad Twal, trong một cuộc phỏng
vấn gần đây, được đăng tải trên một trang mạng ở Giêrusalem vào tháng rồi, phát
biểu như sau: Cuộc hành hương của Đức GH sẽ là “một cuộc thăm viếng mục vụ hết
sức quân bình với một tầm nhìn hoàn cầu, đề cập tới các thực tại chính trị, xã
hội, nhân bản và tôn giáo của một dân tộc rất nhạy cảm trong một vùng đất đầy
khó khăn, những thực tại vốn phát sinh từ sau cuộc chiến tại Gaza”.
Mặc dù cuộc tông du này có chiều kích chính trị và theo
Đức Thượng Phụ Twal, “Vatican càng xích gần lại Do Thái, thì càng có khả năng
vận dụng được tình thân hữu của mình mà phục vụ tốt hơn cho hoà bình và công
lý, cũng như can thiệp cho lợi ích của mọi người Do Thái Giáo, Hồi Giáo và Kitô
Giáo tại Đất Thánh”. Tuy nhiên, quan tâm hàng đầu của Đức Giáo Hoàng là khích
lệ và củng cố các cộng đồng Kitô hữu địa phương chịu ở lại, dù hiện nay, họ
đang gặp nhiều đau thương, nhất là các cộng đồng tại Đông Giêrusalem, tại Bêlem
và tại các lãnh thổ Palestine, nơi con số các Kitô hữu mỗi ngày mỗi giảm đi
trông thấy do nhiều thực tại khó khăn tại chỗ. (Tại Do Thái, con số những người
này hiện gia tăng từ 34,000 tới 180,000 theo con số thống kê chính thức, do
lượng di dân tràn vào từ Liên Xô cũ và sự có mặt của khá nhiều công nhân khách
Kitô hữu).
Tại Gio-đăng, Đức GH Bênêđíctô XVI sẽ nhấn mạnh tới ý
nguyện của ngài muốn cổ vũ thiện chí giữa Giáo Hội và thế giới Hồi Giáo, và tại
Do Thái, ngài sẽ nhấn mạnh tới các liên hệ tốt đẹp giữa Giáo Hội và Dân Tộc Do
Thái, và tới việc mưu tìm hòa bình giữa Do Thái, Palestine và các chính phủ Ả
Rập lân cận.
Giáo sĩ David Rosen, Chủ Tịch Ủy Ban Do Thái Quốc Tế về
Tham Khảo Liên Tôn, người từng gặp Đức GH nhiều lần, nhận định rằng: là một nhà
trí thức ấm áp nhưng chủ yếu hướng nội, ngài vẫn sẽ quyết tâm tiếp tục công
trình đã được vị tiền nhiệm có sức lôi cuốn quần chúng là Đức GH Gioan Phaolô
II khởi xướng.
Đức Bênêđíctô XVI không có nhiều kinh nghiệm ngoại giao
và biết khá ít về nghệ thuật truyền thông hiện đại, nhưng những điều ấy sẽ thay
đổi. Trong khi ấy, chúng giải thích được phần nào cách xử lý các vấn đề tế nhị
gần đây chung quanh tấm hình có ghi chú về Đức Piô XII tại Yad Va Shem, việc Do
Thái yêu cầu Vatican cho mở văn khố mật cũng như việc tha vạ tuyệt thông cho
giám mục Williamson. Các vấn đề này vốn gây bất mãn cho thế giới Do Thái, nhưng
theo giáo sĩ Rosen, đã được giải quyết êm thắm trong các ngày qua, và hiện còn
có thể góp phần tích cực vào việc tái tập trung các cố gắng liên tục nhằm cải
thiện các mối liên hệ giữa Vatican và Do Thái.
Nối tay hoàn cầu, hòa giải khu vực
Trong một bản tuyên bố gần đây, Linh Mục Federico
Lombardi, phát ngôn viên của Tòa Thánh, viết rằng: cuộc hành hương tới Trung
Đông của Đức GH đưa ngài vào một hành trình sẽ “thách đố và kích thích một
trong các ước nguyện lớn nhất kể từ khi ngài đảm nhiệm chức vụ. Chúng ta biết
tình hình chính trị tại vùng này hoàn toàn bất định ra sao và viễn ảnh hòa bình
mỏng manh như thế nào. Nhưng Đức GH vẫn sẽ tới đó một cách can đảm, duy với đức
tin, để nói về hòa bình”.
Linh mục William Shomali, Giám đốc chủng việc Latinh ở
Beit Jalla gần Bêlem, thì cho hay: cuộc thăm viếng Đất Thánh của Đức GH phải
làm sao đem các bên tới chỗ “từ bỏ não trạng nạn nhân của mình mà biết thừa
nhận các đau khổ của ‘người khác’, bất kể đó là Do Thái, Palestine hay Armenia,
và tới chỗ biết xin tha thứ bằng cách nhìn nhận phần xấu xa tội lỗi của mình…
Hòa giải phá bỏ mọi bức tường, ngay cả những bức tường vô hình nhất như sợ sệt,
kỳ thị, hận thù và trả đũa”. Ngài cũng cần đem đến lời khích lệ đối với các cư
dân Kitô giáo gốc Palestine hiện đang giảm số rất nhanh, để họ tiếp tục làm
chứng nhân cho Chúa Giêsu.
Munib Younan, hiện đứng đầu Giáo Hội Tin Lành Luthêrô ở
Gio-đăng và Đất Thánh, nhận định rằng: Muốn duy trì được ơn gọi tông đồ của
mình, Giáo Hội phải lên tiếng về hàng loạt các vấn đề nhân quyền chống lại chủ
nghĩa bài Do Thái và kỳ thị Hồi Giáo, ủng hộ tự do tôn giáo bằng cách tôn trọng
các truyền thống và quyền lợi của các hệ phái khác của Giáo Hội và lên án các
vi phạm của người Do Thái đối với quyền của người Palestine được đoàn tụ gia
đình.
Giám mục Younan cũng cho rằng: trong tư cách đứng đầu
Giáo Hội Công Giáo, được sự tín nhiệm hoàn cầu, Đức GH có nhiều trách nhiệm
chính trị. “Tôi hy vọng rằng cũng giống như bất cứ vị nguyên thủ quốc gia nào,
ngài sẽ nói lên một quan điểm về các thống khổ của người Palestine và của người
Do Thái và tái khẳng định giải pháp một nhà nước hai dân tộc (two-nation state
solution) trong đó Giêrusalem là thủ đô chung của cả hai dân tộc và là mô thức
cho việc sống chung hoà bình và tôn giáo, cho công lý và hoà giải”.
Thế giới Kitô Giáo không phải là khách bàng quan thụ động
trong cuộc tranh chấp trên. Quyết tâm của thế giới ấy sẽ ảnh hưởng sâu xa tới
tương lai và quyền sở hữu các tài sản của Giáo Hội và quyền tự do lui tới các
Địa Điểm Thánh của Kitô Giáo.
Giáo sư Muhammed Dejani, sống ở Đông Giêrusalem, và là sáng
lập viên của Wasatia, một phong trào Hồi Giáo Palestine vừa mới khai sinh, nhằm
cổ vũ một xã hội dân sự trung dung, lấy hứng từ các giáo huấn của Kinh Kôrăng,
thì nói tới một tình thể nước đôi đáng buồn. Ông hy vọng rằng cuộc đến thăm của
Đức GH sẽ kích thích “một bầu khí đối thoại liên tín ngưỡng”, nhưng ông không
đặt nhiều kỳ vọng lớn lao. “Người Palestine từng bị thất vọng nhiều và diễn
trình hòa bình trật đường rầy từng cho phép các tên cực đoan ở cả hai phía
gióng được tiếng nói”. Tuy thế, việc Đức GH đến thăm là một bước can đảm và ông
hy vọng nó sẽ khởi xướng được “một diễn trình hàn gắn” giữa người Palestine và
người Do Thái. Dejani còn cho rằng: Đức GH là “một người có lòng nhân ái. Ngài
mang tới một sứ điệp phổ quát về hòa bình, về yêu thương, nhân từ và khoan
dung”.
Deborah Weissman, Giáo Sư môn Do Thái tại Đại Học Hybálai
và là Đồng Chủ Tịch của ICCI, nhìn nhận rằng Đức GH Bênêđíctô XVI là “con người
thực sự nồng ấm” sau khi bà được gặp ngài tại Vatican mấy tháng trước đây. Bà
hy vọng rằng cuộc đến thăm của ngài sẽ làm nhanh hơn ‘công việc còn bỏ dở” giữa
người Do Thái Giáo và người Kitô Giáo. “Ngài là người tận tâm với đối thoại
nhưng hơi nước đôi đối với các vấn đề thần học chính yếu liên quan tới Giao Ước
giữa người Do Thái và Thiên Chúa, liên quan tới việc lên khung tiên kiến người
Do Thái và việc liệu có thể có cứu rỗi đối với tín hữu của các tôn giáo khác
hay không”. Weissman hy vọng rằng sẽ không còn “những bước thụt lùi hơn nữa”.
Vatican kiểm soát các thánh điểm Kitô Giáo
Trong khi đó, Jack Khoury cho hay: Ông Peres vừa lên
tiếng kêu gọi để Vatican được quyền kiểm soát các thánh điểm Kitô Giáo tại Đất
Thánh, một lời kêu gọi rõ ràng đi ngược lại quan điểm của Bộ Trưởng Nội Vụ Eli
Yishai.
Xưa nay, Vatican vẫn yêu cầu Do Thái chuyển giao chủ
quyền các thánh điểm chủ chốt tại Đất Thánh cho Tòa Thánh và lời yêu cầu này
vốn gây bất đồng nơi các viên chức cao cấp tại Giêrusalem. Bộ Nội Vụ cương
quyết duy trì quyền kiểm soát các thánh điểm này, gọi việc từ bỏ quyền ấy là
“hy sinh” chủ quyền Do Thái. Roi Rachmanovitch, phát ngôn viên của ông Yishai,
cho hay: “Vấn đề này thuộc thẩm quyền của ông bộ trưởng, và ông bộ trưởng chưa
sẵn sàng hy sinh chủ quyền của Do Thái, dù chỉ có tính tượng trưng”.
Ông Peres đang áp lực để chính phủ chịu chấp nhận yêu
sách của Vatican trong việc từ bỏ quyền kiểm soát đối với sáu địa điểm tôn
giáo, trong đó có Nhà Thờ Truyền Tin ở Nadarét; Nhà Thờ Tiệc Ly (Coenaculum)
trên Đồi Zion ở Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu dùng bữa sau hết với các tông đồ;
Vười Diệsimani, nằm dưới chân Đồi Cây Dầu ở Giêrusalem; Núi Tabor; và Nhà Thờ
Hóa Bánh Ra Nhiều dọc theo bãi biển Kinneret. Theo Đài Phát Thanh Quân Đội, Ông
Peres đang vận động để ông Yishai chịu nhượng những thánh điểm ấy cho Giáo Hội
Công Giáo, nhưng chưa được mọi viên chức nhất trí. Bộ trưởng Du Lịch là Stas
Misezhnikov cho Đài Quân Đội hay: “Nếu chắc chắn việc trao tặng lớn lao này cho
thế giới Kitô Giáo sẽ đem hàng triệu khách hành hương Kitô Giáo tới đây, thì
chúng tôi có lý do tốt để nghĩ tới việc thoả thuận đó. Nhưng vì chưa chắc chắn
về điều đó, thì tại sao ta lại đi trao tặng?”
Sự bất đồng giữa Giêrusalem và Tòa Thánh này có nguy cơ
gây căng thẳng cho cuộc viếng thăm của Đức Bênêđictô vào tuần tới. Các viên
chức Vatican cho hay họ sẽ lặp lại yêu cầu trên trong cuộc viếng thăm sắp tới,
để ít nhất đòi được Nhà Thờ Tiệc Ly ở Giêrusalem.
Tin của Reuter
Hãng tin Reuter ngày 4 tháng Năm thì đưa một tin tích cực
hơn: vì chính phủ Do Thái muốn dành một vinh dự cho Đức Bênêđíctô XVI nhân dịp
ngài đến thăm đất nước họ, nên một ủy ban liên bộ của Do Thái đã soạn thảo một
văn kiện nhằm đặt các thánh điểm nói trên ra ngoài phạm vi trưng thu của nhà
nước.
Một viên chức thành thạo với ủy ban này cho hay: “Điều ấy
quả là thích đáng vì chúng tôi muốn Đức GH có khả năng khánh thành một thỏa
thuận khi ngài tới đây. Thế giới Công Giáo từng coi vấn đề nổi bật này như dấu
chỉ thiếu niềm tin về phía chúng ta”.
Tuy nhiên, dự thảo trên bị Bộ Trưởng Nội Vụ Eli Yishai
bác bỏ, không chịu ký tên. Ông ta vốn đứng đầu đảng cực chính thống Do Thái
Giáo trong chính phủ liên hiệp cực hữu của Thủ Tướng Benjamin Netanyahu.
Ngoài ra, cũng còn một khó khăn khác: Vườn Diệtsimani nằm
ở Đông Giêrusalem vốn thuộc phe Ả Rập, bị Do Thái chiếm trong trận chiến Trung
Đông năm 1967 và việc sáp nhập nó vào Do Thái vốn không được quốc tế nhìn nhận.
Người Palestine vốn muốn dùng Đông Giêrusalem làm thủ đô cho quốc gia tương lai
của họ, nên họ ít ưa một thỏa ước bất cứ nào đó ngầm nhìn nhận quyền kiểm soát
của Do Thái.
Tuy thế, một nguồn tin chính trị cho hay: quyết định của
Yisahai trong vụ này rất có thể bị nội các bác bỏ. Văn phòng của Thủ Tướng
Netanyahu chưa lên tiếng gì về vụ việc này. Nhưng rất nhiều các viên chức Do
Thái vẫn mô tả cuộc đến thăm của Đức Bênêđíctô XVI như một cơ may dẹp tan các
căng thẳng giữa hai bên. Đàng khác, tình trạng xuống dốc về du lịch tiếp theo
cuộc bùng dậy của Ả Rập năm 2000 cũng làm Do Thái hy vọng cuộc đến thăm này sẽ
lôi cuốn nhiều du khách trong số hơn một tỉ người Công Giáo thế giới tới thăm
đất nước họ và vực dậy kỹ nghệ du lịch kia.
Chuẩn bị chào mừng
Theo tin tờ The Jerusalem Post, ngày 4 tháng Năm
vừa qua, Thị Trưởng Giêrusalem là Nir Barkat lên tiếng chào mừng du khách tới
Giêrusalem trước ngày Đức GH Bênêđíctô XVI tới đó. Trong lời chào mừng này, Nir
Barkat viết rằng: “Thật là một vinh dự lớn cho tôi được nhân danh dân chúng
Giêrusalem chào đón Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, và hàng ngàn khách hành hương
từ khắp thế giới tới thăm Giêrusalem”.
Lời chào mừng còn thêm: “Giêrusalem là trái tim và linh
hồn dân tộc Do Thái và là một thành phố đặc biệt đối với hơn ba tỷ người có đức
tin trên khắp thế giới. Lịch sử phong phú của Giêrusalem tiếp tục hội tụ các
tôn giáo vĩ đại và các nhà lãnh đạo các tôn giáo này từ nhiều nền văn hóa và
tôn giáo khác nhau. Giêrusalem quả là một thành phố đích thực của hòa bình, nơi
người thuộc mọi hậu cảnh có thể tự do thực hành các niềm tin tôn giáo của
mình”.
Sau đó, Barkat tiếp tục đặc biệt chào mừng Đức GH, cũng
như “mỗi và mọi khách hành hương bằng một sứ điệp nhẫn nại vì hòa bình. Với
cuộc viếng thăm có tính lịch sử và quan trọng tại Giêrusalem, thủ đô của Quốc
Gia Do Thái này, tôi biết rằng chúng ta đã thực hiện một bước tiến gần hơn tới
tự do tôn giáo và khoan dung mà hết thẩy chúng ta từng cố gắng đạt cho bằng
được trên khắp thế giới và ở đây tại Thành Thánh này. Tôi kính chúc Đức Thánh
Cha và mọi khách qúy của chúng tôi một cuộc thăm viếng đầy hân hoan và thoải
mái tại Giêrusalem”.
Hôm Chúa Nhật, Bộ Ngoại Giao Do Thái đã khánh thành một
trang mạng dành riêng cho chuyến tông du của Đức GH Bênêđíctô XVI, địa chỉ ở
tại http://popeinisrael.org.il. Trang mạng này sử dụng 8 thứ tiếng khác nhau:
Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Ý, Đức và Hy Bá Lai. Nó gồm các tín
liệu viết và thính thị nói về cuộc viếng thăm của Đức GH, về các mối liên hệ Do
Thái và Vatican, các cộng đồng Kitô Giáo tại Do Thái và các thánh điểm của Kitô
giáo khắp lãnh thổ.
Trang mạng này cũng cung cấp những cập nhật thường xuyên
trong suốt cuộc thăm viếng, cũng như những buổi phát sóng trực tiếp các biến cố
trong cuộc hành hương của Đức GH, như cuộc viếng thăm Yad Vashem, các thánh lễ
tại Vườn Diệtsimani và Đồi Vực Thẳm, các cuộc thăm viếng tại Nhà Thờ Tiệc Ly và
Nhà Thờ Mộ Thánh.
Đại nhạc hội hòa bình để vinh danh Đức Giáo Hoàng
Tờ Israel Culture ngày 4 tháng Năm có bài của
Merav Yudilovitch cho hay: một buổi đại nhạc hội sẽ được tổ chức tại hí viện
Beit She’an để chào mừng Đức Bênêđíctô XVI với chủ đề hoà giải và sống chung,
do nhiều nghệ sĩ nổi danh trong vùng và của Ý tham dự.
Với sứ điệp hoà bình và huynh đệ, các nghệ sĩ địa phương
và Ý thuộc mọi tôn giáo sẽ trình diễn một buổi đại nhạc hội để vinh danh Đức GH
nhân cuộc viếng thăm Do Thái của ngài. Buổi đại nhạc hội này được tổ chức vào
ngày 13 tháng Năm tại đại hí viện Rôma tại thành phố miền Bắc có tên là Beit
She'an.
Buổi đại nhạc hội này bao gồm các nhạc sĩ, ca sĩ và vũ
viên và sẽ được trực tiếp phát tuyến tới 26 quốc gia qua đài truyền hình SAT
của Ý. Các phóng viên của đài này sẽ tháp tùng Đức Thánh Cha trong suốt cuộc
viếng thăm Đất Thánh của ngài.
Một khán đài sẽ được dựng tại đại hí viện dành cho biến
cố này, do Piono Leoni người Ý thiết kế. Khán đài này dự tính sẽ được dựng để
hòa điệu với khung cảnh cổ xưa. Các xướng ngôn viên của buổi trình diễn sẽ là
nữ tài tử kiêm người mẫu Do Thái Moran Atias và Julio Bazo.
Buổi trình diễn này sẽ được bắt đầu với Nhóm Nhà Hát Cộng
Đồng của Qũy Beresheet LaShalom, một tổ chức ở miền Bắc Do Thái có thành viên
thuộc mọi tầng lớp trong xã hội Do Thái, gồm cả người Do Thái lẫn Ả Rập, Hồi
Giáo, người Druze và Kitô Hữu, cả đạo lẫn đời. Nhóm này do Angelica Edna Calo
Livne thành lập. Bà vốn sinh tại Rôma và đậu tiến sĩ văn chương Ý. Nhóm sẽ
trình diễn cùng với sự phụ họa của các vũ viên thuộc Công Ty Fresco Dance. Công
ty này được thành lập năm 2002 bởi vũ sư và biên đạo múa Yoram Carmi. Họ sẽ
trình diễn một vở nói về sống chung, vũ theo điệu nhạc được đặc biệt sáng tác
cho dịp này, do Dàn Đại Hòa Tấu Raanana và Nhóm Gaya trình tấu.
Các tham dự viên khác sẽ là ca sĩ Ai Cập Samira Said, ca
sĩ Ý Lucio Dalla, ban nhạc rốc Do Thái Rockfour, ca đoàn của Viện Magnificent
Institute, gồm các ca viên Do Thái, Hồi Giáo Palestine và Kitô Giáo, danh vĩ
cầm Francesco D'Orazio, và giọng nam cao nổi tiếng Alessandro Safina.
Biến cố chính của buổi trình diễn này sẽ là phép lành
bình an và hòa giải của Đức GH. Cuối cùng, toàn bộ các nghệ sĩ sẽ cùng nhau
trình diễn bài “We Are the World" (Chúng Ta Là Thế Giới) do Michael
Jackson và Lionel Richie sáng tác.
Không cần thanh minh thanh nga nữa
Hãng AP thì tường trình rằng phát ngôn viên của Đức GH
cho hay: Tòa Thánh đã “giải thích và làm sáng tỏ đủ mọi điều” liên quan tới bài
diễn văn năm 2006 của Đức GH, một bài diễn văn bị nhiều người Hồi Giáo coi là
xúc phạm đến tôn giáo của họ.
Đức Thánh Cha dịp đó nhấn mạnh rằng bản văn Trung Cổ được
ngài trích dẫn từng coi một số giáo huấn của tiên tri Muhammad là “xấu xa và
bất nhân” đã không hề phản ảnh quan điểm riêng của ngài. Nhưng tổ chức Huynh
Đoàn Hồi Giáo (Muslim Brotherhood) của Gio-đăng vừa đây đã lên tiếng đòi Đức
Giáo Hoàng phải xin lỗi trước khi ngài khởi sự cuộc viếng thăm Đất Thánh vào
Thứ Sáu này, trong đó trạm đầu tiên sẽ là Gio-đăng.
Phát ngôn viên của Đức GH là Cha Federico Lombardi cho
hay: “có lẽ đây là vấn đề thế giới Hồi Giáo cần hiểu rõ điều Đức GH muốn nói.
Chúng tôi không thể tiếp tục nhắc lại cho đến tận thế cùng những lời đã minh
xác”.
Vua Gio-đăng phá lệ để nghênh đón Đức Giáo Hoàng
Theo tin Zenit ngày 5 tháng Năm, Vua Gio-đăng Abdallah II
dự tính, vào Thứ Sáu này, sẽ phá lệ nghi lễ khi ông nghênh đón Đức Giáo Hoàng
Bênêđíctô XVI. Theo Cha Lombardi, Nhà Vua Gio-đăng sẽ thân hành ra tận phi
trường để nghênh đón Đức Thánh Cha vào lúc 2 giờ 30 chiều. Và với một nghĩa cử
chưa bao giờ có, ông sẽ cùng hoàng hậu Rania tháp tùng Đức Thánh Cha ra phi
trường lúc ngài rời vương quốc của ông vào ngày Thứ Hai.
Cha Lombardi nhận định rằng nhà vua muốn đóng góp đặc
biệt vào cuộc đối thoại liên tôn bằng nhiều sáng kiến khác nhau. Cha nhắc lại
Thông Điệp Amman của nhà vua trong đó ông khuyến khích thế giới Hồi Giáo hãy từ
bỏ chủ nghĩa cực đoan, và Thông Điệp Liên Tín Ngưỡng Amman, chủ yếu nhắn gửi
người Kitô Giáo và người Do Thái Giáo và kêu gọi việc cổ vũ hòa bình và các giá
trị chung nơi các tôn giáo.
Phát ngôn viên Tòa Thánh còn ghi nhận thêm rằng một trong
các cố vấn của Vua Abdallah chính là Ghazi bin Muhammad, người đã phối hợp 138
học giả Hồi Giáo lên tiếng trả lời các tấn công chống lại Đức Giáo Hoàng vì bài
diễn văn Regensburg của ngài. Nhóm này đã viết “Lời Chung” mà cuối cùng đã dẫn
tới việc thành lập ra Nghị Hội Công Giáo và Hồi Giáo tại Rôma.
Một cuộc tông du xây nền
Zenit ngày 5 tháng Năm cũng thuật lại nhận định của Đức
HY Leonardo Sandri, Thánh Bộ Các Giáo Hội Đông Phương, về chuyến đi sắp tới của
Đức Bênêđictô qua Đất Thánh. Theo Đức HY, Đức GH muốn thực hiện chuyến đi này
ngay lúc mới khởi đầu triều giáo hoàng của ngài. Sở dĩ đến nay, vào năm thứ năm
triều đại giáo hoàng, ngài mới thực hiện được dự tính đó, là vì các cuộc tông
du trước đây phần lớn đã được lên chương trình từ thời giáo hoàng trước, đặc
biệt là Ngày Giới Trẻ tại Cologne và Cuộc Gặp Mặt Các Gia Đình tại Tây Ban Nha.
Đức HY Sandri nhấn mạnh rằng: Đức Thánh Cha muốn được
dành chuyến đi đầu hết, chuyến đi mang ý nghĩa toàn bộ cho triều giáo hoàng của
ngài hướng về Chúa Giêsu, về Ngôi Lời Thiên Chúa, là tới Đất Thánh, một chuyến
đi chính nhằm đặt để sắc thái cho toàn bộ triều giáo hoàng của ngài.
Nhân dịp này, Đức HY Sandri cũng nhắc lại ý định của Đức
Bênêđíctô XVI muốn tới Đất Thánh để cổ vũ cho hòa bình. “Qua sự hiện diện của
ngài, Đức GH là sứ giả của thanh thản và hòa bình và là một thúc đẩy đối với
mọi người đang có trách nhiệm về thời cuộc hay tình thế các dân tộc. Trong
trường hợp tại Đất Thánh, sự hiện diện ấy bao hàm một khuyến khích đối với diễn
trình hòa bình đã có từ lâu và hiện gặp nhiều khó khăn”
Con số thống kê tại Đất Thánh
Cơ sở Catholic Culture (Văn Hóa Công Giáo), ngày 5 tháng
Năm, trình bày một số thống kê của chính Vatican về Đất Thánh.
Mặc dù người Kitô hữu đang rời bỏ vùng này, do bầu khí
kinh tế và chính trị không thuận tiện, nhưng người Công Giáo vẫn chiếm gần 2%
dân số các quốc gia được Đức Giáo Hoàng viếng thăm. Tại Gio-đăng, trạm đầu tiên
của chuyến tông du, hiện có 109,000 người Công Giáo trong tổng số 5.7 triệu
dân, và gần 31,000 trẻ em ghi danh học tại 123 trường Công Giáo. Tại Do Thái và
các lãnh thổ Palestine, có 130,000 người Công Giáo trong số 7.2 triệu cư dân,
với gần 44,000 học sinh ghi danh tại 192 trường Công Giáo đủ các cấp từ vườn
trẻ tới đại học. Giáo Hội cũng quản lý 36 bệnh viện, bệnh xá, viện mồ côi, nhà
trẻ, và các viện bác ái khác.
Tin của Hãng CNA còn cho hay thêm: tại Gio-đăng, hiện có
ba giáo tỉnh và 64 giáo xứ, với 4 giám mục, 103 linh mục, 258 tu sĩ và 7 đại
chủng sinh. Tại Do Thái và các lãnh thổ Palestine, hiện có 9 giáo tỉnh, 78 giáo
xứ và 3 trung tâm mục vụ, với 11 giám mục, 406 linh mục, 1,171 tu sĩ, 1 nhà
truyền giáo giáo dân, 14 tiểu chủng sinh và 110 đại chủng sinh.
Do Thái phát hành tem thư đánh dấu chuyến tông du
Theo tin ngày 4 tháng Năm của NECN/APTV, sở bưu điện Do
Thái đã phát hành một tá tem thư đặc biệt để kỷ niệm chuyến viếng thăm sắp tới
của Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI tại Đất Thánh.
Các tem thư này, được bán cho công chúng bắt đầu từ Thứ
Hai tới, trình bày 12 thánh điểm Kitô Giáo trong vùng được Đức Giáo Hoàng dự
tính viếng thăm nhân chuyến tông du tại đây từ ngày 11 tới ngày 15 tháng Năm.
Sở bưu điện này cho biết họ cũng sẽ phát hành một tá tem thư khác trình bày
cuộc tông du thực sự của Đức Giáo Hoàng tới các thánh điểm này.
Hội Mộ Thánh gánh vác phí tổn chuyến tông du của
Đức Giáo Hoàng
Cindy Wooden của tờ BostonPilot cho hay Hội Mộ Thánh góp
phần gánh vác chi phí của chuyến tông du tới Đất Thánh. Hẳn mọi người còn nhớ:
Hội Hiệp Sĩ Mộ Thánh ở Giêrusalem (the Equestrian Order of the Holy Sepulcher
of Jerusalem) được chân phước GH Piô IX lập năm 1847 để hỗ trợ Tòa Thượng Phụ
Latinh của Giêrusalem và các người Công Giáo khác sống tại Đất Thánh.
Cuộc tông du từ ngày 8 tới ngày 15 tháng Năm này sẽ giúp
Đức Giáo Hoàng thấy kết quả cụ thể của việc hỗ trợ trên và nhu cầu tiếp diễn
của người Kitô hữu trong vùng, nhưng chính cuộc tông du này một phần có được
cũng là nhờ sự hảo tâm của các hiệp sĩ.
Đức Hồng Y John P. Foley, người Mỹ và là hiệp sĩ tối cao
của Hội, cho hay: các hiệp sĩ và mệnh phụ đã dâng cho Đức Thánh Cha và Đức
Thượng Phụ Latinh Fouad Twal mỗi vị khoảng 325,000 mỹ kim để giúp trang trải
chi phí cho chuyến tông du. Ngài cũng cho biết: 50 hiệp sĩ của Hội sẽ lập thành
một hàng rào danh dự cho suốt chuyến đi của Đức Giáo Hoàng. Theo Đức Hồng Y, hỗ
trợ cuộc tông du bằng lời cầu nguyện và bằng tài chánh là hỗ trợ Đức Thánh Cha
trong sứ mệnh thừa nhiệm Thánh Phêrô của ngài. “Ngài sẽ làm điều Thánh Phêrô
vốn làm là khích lệ các tín hữu, thừa nhận họ, đem lại cho họ cảm thức tươi mới
rằng họ có giá trị và cho họ biết Giáo Hội hoàn vũ đánh giá cao chính họ và tầm
quan trọng trong đức tin của họ biết là dường nào”.
Hiện nay, Hội có chừng 24,000 hội viên trong 32 quốc gia.
Các hội viên đoan hứa hàng ngày cầu nguyện cho Giáo Hội, cho công việc của tòa
thượng phụ Latinh ở Giêrusalem và các thánh điểm có liên hệ tới cuộc đời Chúa
Giêsu và cho bản thân họ đủ sức mạnh thực thi bổn phận bác ái của mình, nhất là
đối với “người nghèo và người bệnh tại Đất Thánh”.
Về vấn đề quyên góp, Đức Hồng Y Foley cho hay: “mục tiêu
của chúng tôi là quyên góp mỗi hội viên chừng 600 mỹ kim một năm” nhưng đóng
góp thiếu không phải là cơ sở để chấm dứt tư cách hội viên. Vì hội được lập
“chủ yếu để phát triển hội viên về phương diện thiêng liêng” qua cầu nguyện, học
hỏi và dấn thân cụ thể nhằm “hỗ trợ Giáo Hội tại Đất Thánh để Giáo Hội ấy không
trở thành một bảo tàng viện, mà là một Giáo Hội sống động”.
Các người Công Giáo tại Đất Thánh, mà phần lớn là người
Palestine , vốn là “dòng dõi những người đầu hết bước chân theo Chúa Giêsu Kitô
và hiện nay thuộc nhiều nghi lễ khác nhau, và chẳng may, cũng thuộc nhiều giáo
hội khác nhau” dù phần lớn là Công Giáo và Chính Thống Giáo. Kể từ năm 2000,
các thành viên của hội đã dâng cúng gần 65 triệu mỹ kim để yểm trợ Tòa Thượng
Phụ Latinh, chủng viện, các giáo xứ và trường học cũng như các cơ quan bác ái
của Tòa này và nhiều cơ sở khác như Bệnh Viện Thánh Giuse ở Giêrusalem và Đại
Học Bêlem, do các Sư Huynh Dòng Chúa Kitô (Christian Brothers) đảm trách.
Mặc dù phần lớn sự yểm trợ của hội được dành cho Tòa
Thượng Phụ Latinh ở Giêrusalem, nhưng các hiệp sĩ cũng làm việc với cơ quan
phối trí của Thánh Bộ Các Giáo Hội Đông Phương để hỗ trợ các dự án có giá trị
liên hệ tới các giáo hội Melkite, Maronite, Chaldean và Công Giáo Armenian tại
Do Thái và tại Gio-đăng.
Vào khoảng một nửa số học sinh ghi danh theo học các
trường Công Giáo trong vùng là Kitô hữu. Các trường này cung cấp việc giáo dục
tôn giáo tùy theo tôn giáo của học sinh. Nên các học sinh Hồi Giáo có thể đem
thầy Hồi Giáo vào dạy về Hồi Giáo cho các em, nhưng triết lý sống (ethos) của
trường, theo Đức HY Foley, thì là Công Giáo. Mục tiêu của việc mở rộng việc ghi
danh là để cổ vũ tinh thần tương kính, khoan dung và hòa bình. Bất cứ điều gì
có thể góp phần vào hòa bình cũng đều quan trọng. Nên Đức HY Foley hy vọng
người Do Thái tỏ ra hiểu biết nhiều hơn đối với những người Palestine biết điều
và con số những người Palestine biết điều sẽ mỗi ngày một gia tăng.
Đức Hồng Y cũng tiết lộ rằng mọi trường học tại Do Thái,
kể cả trường Công Giáo, đều được chính phụ tài trợ. Nhưng việc tài trợ ấy không
có tại Palestine và Gio-đăng. Chính vì thế, nhiều trường tại hai nơi đó phải
tiếp nhận tài trợ từ Hội Mộ Thánh. Hội cũng giúp tiền học phí nữa vì Hội không
muốn bất cứ trẻ em Công Giáo nào không được hưởng nền giáo dục Công Giáo chỉ vì
gia đình các em không đóng được lệ phí.
Đối với Đức HY Foley, giáo dục là chìa khóa giúp người
nghèo trong vùng thoát khỏi cảnh nghèo, giúp cổ vũ việc chung sống hòa bình và
tạo ra các điều kiện cần thiết để thuyết phục các Kitô hữu đừng di cư. Nếu các
cộng đồng Công Giáo không còn sinh sống và làm việc tại Đất Thánh nữa, thì theo
Đức Hồng Y, “ta sẽ đánh mất sợi dây liên kết với các gốc rễ của chúng ta”.
Thay đổi quan điểm với Do Thái
Jeff Abramowitz, của Deutsche Presse-Agentur, ngày 4
tháng Năm, cho rằng cuộc tông du của Đức Bênêđíctô XVI tới Do Thái lần này cho
thấy rõ một thay đổi rất tích cực và rõ ràng trong mối liên hệ Do Thái và
Vatican .
Thực vậy, vị giáo hoàng đầu tiên đến thăm Do Thái đã
không thừa nhận chính thức là ngài đến thăm quốc gia đó. Hẳn mọi người còn nhớ,
năm 1964, Đức Phaolô VI từ Gio-đăng dừng chân một ngày tại Do Thái, nhưng ngài
đã thận trọng không nhắc đích danh quốc gia Do Thái trong chuyến dừng chân ấy.
Vì vào lúc ấy, Do Thái và Vatican chưa lập liên hệ ngoại giao. Khi đã trở về
Vatican, Đức Phaolô VI có gửi cho Tổng Thống Do Thái, lúc ấy là Zalman Shazar,
một thư cám ơn, nhưng đã gửi thư ấy cho “Ông Shazar” tại Tel Aviv, chứ không
phải tại Giêrusalem, là nơi ở chính thức của Ông Shazar.
Đến lượt Đức Gioan Phaolô II, không những ngài nhắc đích
danh quốc gia Do Thái trong hành trình đến Đất Thánh năm 2000, mà còn gặp tổng
thống, thủ tướng và hai trưởng giáo sĩ của Do Thái. Cuộc thăm viếng của vị giáo
hoàng thứ ba tới Đất Thánh lần này được Daniel Rossing, Giám Đốc Trung Tâm Do
Thái về Các Liên Lạc Do Thái và Kitô Giáo, cho là một bước nhẩy vọt. Ông nói:
“Ta không nên quên sự kiện này là trong 50-60 năm nay, đã có những bước tiến
hết sức đáng kể trong các mối liên hệ Do Thái và Kitô Giáo, nhất là các liên hệ
Do Thái và Công Giáo”.
Phần lớn các nhà bình luận và các học giả đều nhất trí
rằng thái độ của Vatican đối với Do Thái chịu ảnh hưởng bởi hai nhân tố chính
sau đây: Thứ nhất là thần học, tức thái độ của người Công Giáo đối với người Do
Thái Giáo, và thứ hai là chính trị thực tiễn (realpolitik) vì phần lớn Kitô hữu
đang sống tại Đất Thánh là người Ả Rập tự nhận mình có tinh thần quốc gia
Palestine.
Ai cũng biết các giáo huấn của Giáo Hội Tiên Khởi thường
lên án người Do Thái Giáo đã bác bỏ Chúa Giêsu, và coi việc phá hủy Đền Thờ
Giêrusalem vào năm 70 cũng như việc tứ tán của người Do Thái Giáo như là hình
phạt của Chúa đối với việc bác bỏ kia và vai trò của họ trong vụ việc đóng đinh
Con Yêu Dấu của Người. Mãi đến năm 1965, não trạng ấy mới thay đổi với tuyên
ngôn Nostra Aetate của Công Đồng Vatican II cởi bỏ cái tội giết Chúa
(deicide) của dân tộc này. Giáo trưởng David Rosen, người từng đóng một vai trò
hàng đầu trong việc thăng tiến các mối liên hệ giữa Do Thái và Vatican, thì
tuyên ngôn trên "đem đến một cuộc cách mạng tích cực trong giáo huấn của
Giáo Hội”.
Khai triển cách mạng trên đã được Đức GH Gioan Phaolô II
tiếp tục. Ngài được coi là vị giáo hoàng đóng góp nhiều hơn tất cả các vị tiền
nhiệm cho việc cổ vũ các liên hệ giữa Công Giáo và Do Thái Giáo, rẫy bỏ hoàn
toàn nền thần học bài Do Thái. Năm 1993, dưới triều đại của ngài, Vatican và Do
Thái chính thức thiết lập các liên hệ ngoại giao đầy đủ.
Việc thiết lập liên hệ ngoại giao này thật là một bước can
đảm, bởi cho đến lúc đó, Giáo Hội vẫn có nhiều e ngại đối với các Kitô hữu gốc
Ả Rập trong vùng. Thực vậy, như trên đã nói, phần lớn người Công Giáo sống tại
Do Thái và các lãnh thổ bị Do Thái chiếm đóng đều đứng về chính nghĩa
Palestine, ít có ai chịu chấp nhận việc Vatican xích lại gần nhà nước Do Thái,
ít nhất thì Vatican cũng nên chờ cho tới lúc giới lãnh đạo Palestine chịu làm
như thế.
Rất may, cơ hội ấy đã xẩy ra trong năm 1993 lúc Do Thái
và Tổ Chức Giải Phóng Palestine ký bản tuyên bố lịch sử các nguyên tắc chung,
làm phát sinh ra diễn trình hòa bình. Nhờ thế mà liên hệ ngoại giao giữa
Vatican và Do Thái đã được thiết lập.
Đất Thánh chuẩn bị nghênh đón Đức Giáo Hoàng
Từ tháng Tư, các thợ sơn, nhân công và các nhà khảo cổ đã
cùng nhiều người khác thực hiện những chuẩn bị sau cùng cho cuộc nghênh đón Đức
Giáo Hoàng tới Đất Thánh.
Theo hãng tin EFE, các công nhân bận bịu sơn các khung
cửa và rà xét các bức tường tại Phòng Tiệc Ly. Nhà thờ Mộ Thánh cũng được tạm
đóng cửa trong một thời gian để chuẩn bị. Tại Đồi Vực Thẳm ( Mount Precipice ),
các công nhân đã xây dựng một khán đài để Đức Giáo Hoàng ngỏ lời với hàng ngàn
người bên ngoài Nadarét.
Theo Cha Ricardo Bustos thuộc Đền Thánh Truyền Tin, sẽ có
ba ca đoàn địa phương, một của người Maronite, một của người Melchite và một ca
đoàn Latinh, và ít nhất sẽ có một bài đọc hát theo Nghi Lễ Đông Phương trong
Thánh Lễ tại Đồi Vực Thẳm.
John Seligman, một nhà khảo cổ làm việc tại Cơ Quan Khảo
Cổ Do Thái, có nhiệm vụ tân trang Phòng Tiệc Ly, cho biết: việc Đức GH tới thăm
là “một cơ hội lớn để trưng bày các địa điểm quan trọng nhất của Kitô Giáo.
Chúng tôi đã làm sạch các tường, sửa lại gạch và chữa các bức tường hư, để địa
điểm này coi cho được đối với cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng”.
Cha Pierbattista Pizzaballa, Quản Thủ Đất Thánh, nói rằng
cuộc viếng thăm của Đức GH cho thấy: bất chấp các hiểu lầm, mối liên hệ với thế
giới Do Thái Giáo và Hồi Giáo là mối liên hệ rất quan trọng đối với cả Giáo Hội
Công Giáo nói chung và cho bản thân Đức GH nói riêng. Do Thái đầu tư hơn 9
triệu mỹ kim để canh tân các địa điểm được Đức Giáo Hoàng viếng thăm.
Lực lượng an ninh khổng lồ bảo vệ chuyến tông du
Theo hãng tin AP, Do Thái sẽ triển khai 80,000 nhân viên
an ninh trong “Chiến Dịch Áo Trắng” (Operation White Cloak) để bảo vệ Đức GH
Bênêđíctô XVI trong thời gian ngài tới thăm nước này.
Tổng úy trưởng Cảnh sát Do thái là Dudi Cohen gọi cuộc
tới thăm này là “một biến cố lịch sử, xét về phương diện an ninh, thì rất phức
tạp”. Ông cho hay: 80,000 nhân viên an ninh sẽ được triển khai để giữ an ninh
cho chuyến viếng thăm này, trong đó có 60,000 cảnh sát. Số còn lại là cảnh sát
chìm và binh sĩ.
Đức GH Bênêđíctô XVI sẽ là vị giáo hoàng thứ hai chính
thức viếng thăm Do Thái. Vị tiền nhiệm của ngài là Đức Gioan Phaolô II tới đây
vào năm 2000 để thực hiện cuộc tông du thiên niên kỷ. Năm 1964, Đức GH Phaolô
VI cũng tới Do Thái, nhưng cuộc viếng thăm đó là một cuộc viếng thăm không
chính thức và chỉ kéo dài mấy tiếng đồng hồ.
Các viên chức Do Thái và Palestine đang lên cơn sốt trong
việc hoàn tất các sắp xếp sau cùng cho chuyến viếng thăm. Tại Giêrusalem, Đức
GH sẽ viếng thăm nơi thánh thiêng nhất, nơi người Do Thái Giáo thường tới cầu
nguyện, đó là Bức Tường Phía Tây của Cổ Thành Giêrusalem; Đền Thờ Đá (the Dome
of the Rock), tức đền thờ chính của Hồi Giáo, và Nhà Thờ Mộ Thánh, nơi Chúa
Giêsu chịu đóng đinh và được chôn cất.
Đức GH sẽ cử hành thánh lễ ngoài trời tại Giêrusalem,
Bêlem và Nadarét. Cohen cho hay nguyên tại Giêrusalem, chính phủ Do Thái sẽ huy
động 30,000 nhân viên an ninh. Trình bày với báo chí về kế hoạch an ninh, Cohen
cho hay: hiện không có dấu hiệu tình báo nào về một cuộc tấn công nhắm vào Đức
GH, nhưng ông cho rằng “khủng bố là một thực tại mà Do Thái phải đương đầu suốt
cả năm”. Ông cũng cho biết: lực lượng an ninh trong “Chiến Dịch Áo Trắng” đã
được huấn luyện trong nhiều tháng nay và sẽ sử dụng nhiều kỹ thuật mới, nhưng
ông từ chối không cho biết thêm chi tiết”.
Cảnh sát nói rằng họ sẽ chặn nhiều đường phố, không cho
xe cộ lưu thông, và sẽ cho kéo đi những chiếc xe đậu dọc lộ trình của Đức GH.
Vì lý do an ninh, Đức GH sẽ sử dụng giáo hoàng xa của ngài trong hành trình
ngắn tại Nadarét đến chỗ cử hành Thánh Lễ tại đấy.
Dân số Kitô Giáo tại Đất Thánh là 160,000 người gồm
khoảng 110,000 người sống bên trong Do Thái, 50,000 người tại West Bank và
3,800 tại Gaza. Cảnh sát cho biết: hơn 10,000 Kitô hữu tại West Bank sẽ được
cấp giấy phép đặc biệt để tham dự các buổi chào đón Đức GH. Đối với các Kitô
hữu từ Gaza, cảnh sát cho hay họ còn đang do dự không biết có nên cho họ tới
tham dự hay không vì sợ những người cầm quyền thuộc phong trào Hamas quá khích
tại đó dám lợi dụng giấy phép để cài người vào Do Thái.
Hãng Alitalia chở Đức GH và đoàn tùy tùng tới Đất Thánh
Theo tin WAPA, Đức Thánh Cha sẽ sử dụng máy bay A-320 của
hãng hàng không Alitalia để tới Đất Thánh. Hãng này cho biết họ rất vinh dự
được chuyên chở Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng tới Amman , chặng đầu trong
chuyến tông du của ngài. Airbus A-320 “Dante Alighieri” là một trong các phi cơ
mới được du nhập vào đoàn phi cơ của hãng này.
Ngoài Đức GH và phái đoàn của ngài, đại diện truyền thông
khắp thế giới cũng sẽ có mặt trên chiếc phi cơ này. Chuyến bay đặc biệt tên là
AZ-4000 sẽ cất cánh khỏi phi trường quốc tế Leonard da Vinci ở Rôma vào lúc 9
giờ 30 sáng Thứ Sáu và sẽ đáp xuống phi trường Queen Alia ở Amman lúc 2 giờ 30
chiều, giờ địa phương.
Phi hành đoàn gồm 3 phi công và 6 tiếp viên phi hành,
được chọn trong số những nhân viên kỳ cựu trong nghề và tha thiết dấn thân
trong nhiệm vụ. Chỉ huy trưởng chuyến bay là Roberto Germano, giám đốc điều
hành các chuyến bay của Alitalia. Phi công chính là Giacomo Belloni, người đã
có tới 10,500 giờ bay.
Đức Thánh Cha gửi thông điệp cho Đất Thánh trước ngày lên đường
Đài Phát Thanh Vatican, ngày 6 tháng Năm, đưa tin: trong
buổi triều kiến chung vào hôm Thứ Tư vừa qua, Đức Thánh Cha đã nói về chuyến đi
sắp đến của ngài tới Đất Thánh với 40,000 người tại Công Trường Nhà Thờ Thánh
Phêrô. Nhân cơ hội này, ngài cũng đã gửi tới nhân dân Đất Thánh thông điệp đặc
biệt sau đây:
“Các bạn thân mến, Thứ Sáu này, tôi sẽ rời Rôma để tông
du Giođăng, Do Thái và các Lãnh Thổ Palestine. Sáng nay, tôi muốn dùng dịp may
để qua buổi phát tuyến truyền thanh và truyền hình này chào mừng mọi người
thuộc các vùng đất trên. Tôi rất náo nức mong tới lúc được ở bên các bạn và
chia sẻ với các bạn mọi hoài mong và hy vọng cũng như mọi đau thương và đấu
tranh của các bạn. Tôi sẽ đến với các bạn như một người hành hương hòa bình.
Chủ đích của tôi là trước nhất thăm viếng những nơi đã trở nên thánh thiêng nhờ
cuộc đời của Chúa Giêsu, và, cầu nguyện tại các nơi ấy cho hồng phúc hòa bình
và hợp nhất cho gia đình các bạn, và mọi người vốn nhận Đất Thánh và Trung Đông
là quê hương. Trong nhiều cuộc gặp gỡ có tính tôn giáo và dân chính diễn ra
trong suốt tuần tới, sẽ có cuộc gặp mặt với đại diện các cộng đồng Hồi Giáo và
Do Thái Giáo mà với họ nhiều tiến bộ lớn lao đã thực hiện được trong đối thoại
và trao đổi văn hóa. Một cách đặc biệt, Cha xin nồng nhiệt chào mừng người Công
Giáo trong vùng và xin chúng con cùng cha cầu nguyện cho cuộc viếng thăm này
mang lại nhiều hoa trái cho cuộc sống thiêng liêng và dân chính của mọi người
đang sinh sống tại Đất Thánh. Mọi người chúng ta hãy ngợi khen Chúa đã ban cho
sự tốt lành này. Ước chi mọi người chúng ta trở thành người của hòa bình. Cầu
chúc mọi người chúng ta kiên vững trong ước vọng và cố gắng hòa bình”.
Muốn hiểu chuyến tông du của Đức GH, phải quay về với Thánh Kinh
George Weigel, trên Newsweek số ngày 6 tháng Năm, cho
rằng dù Tòa Thánh muốn nói sao thì nói về chuyến tông du sắp tới của Đức Giáo
Hoàng, các nhà lãnh đạo chính trị trong vùng ngài sắp viếng thăm không thể nào
không nhằm mục tiêu chính trị. Nhà lãnh đạo chính trị nào thì cũng thế thôi. Họ
có thể bất cần Ban Ki-moon (Tổng thư ký LHQ) nghĩ về họ ra sao, nhưng ngay
những lãnh tụ như Kim Jong Il (Bắc Hàn) và Mahmoud Ahmadinejad (Iran) cũng hy
vọng Đức Giáo Hoàng sẽ xếp họ vào hàng ngũ thiên thần.
Bởi thế mà trong mấy ngày qua, đủ mọi chính kiến đã được
nêu ra, đến quên cả sự kiện hết sức bản thân của cuộc viếng thăm này: nó là
cuộc hành hương của một con người Thánh Kinh tới lãnh thổ Thánh Kinh. Muốn hiểu
cuộc hành hương này phải khởi đi từ gốc ngọn thực sự trong tư duy của Đức
Bênêđíctô XVI, tức Thánh Kinh.
Dù nhiều người ngày nay hay khoác cho tư duy thần học của
ngài nhãn hiệu “bảo thủ”, nhưng lúc còn là một đại chủng sinh và là sinh viên
tiến sĩ thời Tây Đức hậu chiến, Joseph Ratzinger đã là một nhà canh tân thần
học rồi. Bởi từ lúc ấy, người sinh viên này đã biết nhấn mạnh tới việc thần học
phải bắt đầu với Thánh Kinh và phải trở về với Thánh Kinh như điểm tham chiếu
chủ chốt. Nhận ra thứ luận lý lạnh lùng của nền thần học lúc ấy đầy buồn tẻ và
phi nhân, Ratzinger bị lôi cuốn vào phương thức thần học của những con người
sống vào thiên niên kỷ đầu hết mà người ta thường gọi là “Giáo Phụ”: những nhà
trí thức và mục tử vĩ đại như Ambrose, Augustine, John Chrysostom, Basil,
Gregory Nazianzen, Gregory thành Nyssa và Ephrem người Syrian. Đối với các vị
này, thần học chẳng là gì khác ngoài việc giải thích Thánh Kinh. Người sinh
viên trẻ tuổi Joseph Ratzinger nghĩ rằng trở về với Thánh Kinh và Giáo Phụ là
tái năng lực hóa thần học sau những thảm họa của nửa phần đầu thế kỷ 20. Ngài
đã hiến hơn nửa thế kỷ cuộc đời học giả của mình cho dự án tái sinh lực hóa ấy.
Thích thú một điều: phương thức căn bản của Đức Bênêđíctô
đối với Thánh Kinh gần như có thể mô tả là Thệ Phản: bởi vì đối với nhà thần
học Joseph Ratzinger, Thánh Kinh “trước hết và đầu hết là lời Thiên Chúa nói
với Giáo Hội”, như Cha Thomas Rausch thuộc trường Đại Học Loyola ở Marymount đã
viết trong một cuốn sách mới về cái nhìn thần học của Đức Bênêđíctô. Nói cách
khác, đối với Đức Bênêđíctô, Thánh Kinh không phải đơn giản chỉ là một bản văn.
Thánh Kinh là một phần yếu tính trong việc Thiên Chúa đi tìm chúng ta… Điểm dị
biệt giữa ngài và Thệ Phản là: ngài không giải thích Thánh Kinh một cách chiểu
tự (literalist). Ngài cũng khác với những nhà thần học lớn tuổi hơn thuộc các
thế hệ 1940 và 1950, vì ngài không coi Thánh Kinh như một thư viện để người ta
lục lọi mà lôi ra các điểm thần học trừu tượng. Đúng hơn, như Cha Rausch viết,
các chú giải Thánh Kinh của Đức Bênêđíctô dựa trên “một nhậy cảm hết sức đồng
điệu với các chủ đề và hình ảnh Thánh Kinh, một nhậy cảm mà ngài khám phá dễ dàng
trong cả hai giao ước”.
Theo chân Thánh Bonaventure, vị thánh mà ngài dành luận
án tiến sĩ thứ hai để viết về, Đức Bênêđíctô nhấn mạnh rằng Thánh Kinh có cả
tính bản thân lẫn tính chữ nghĩa. Hiểu một cách đúng đắn, Thánh Kinh là một
cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa hằng sống và dân tộc mà Người muốn đem tới sự sống
viên mãn, dân tộc từng sống mấy thiên niên kỷ qua và dân tộc đang sống bây giờ.
Như thế, rút gọn “Thánh Kinh” hay Lời Chúa vào duy chữ nghĩa mà thôi là làm nó
mất hết chiều kích bản thân mà tự thân vốn mang tính nhân và thần.
Xác tín về chiều kích bản thân của Thánh Kinh ấy là trọng
điểm trong cái hiểu của Ratzinger về phương pháp nghiên cứu Thánh Kinh hiện đại
thường gọi là “phương pháp phê bình sử học” (historical-critical method). Đức
Bênêđíctô không cực đoan hay duy chiểu tự. Ngài sẵn sàng để cho những điều các
học giả tìm tòi được liên quan tới nguồn gốc và sự biến hóa của bản văn Thánh
Kinh lên khuôn cho cách đọc Thánh Kinh của ngài. Điều ngài không chấp nhận là
rút gọn Thánh Kinh vào các mẫu mực khảo cổ. Theo Đức Bênêđíctô, khoa phê bình
lịch sử về Thánh Kinh có thể cho ta biết nhiều điều, nhưng nó không thể cho ta
biết bản văn ấy có nghĩa gì đối với chúng ta hiện nay.
Cuộc gặp gỡ thâm hậu của nhà thần học Ratzinger với Thánh
Kinh Hybálai và Tân Ước Kitô Giáo trong hơn nửa thế kỷ qua giúp ngài vừa hết
sức tôn kính Thánh Kinh vừa hết dạ tôn kính Do Thái Giáo sống động, một dạ tôn
kính có cơ sở thần học. Lòng tôn kính này là căn bản chắc chắc nhất cho tình
thân hữu chân chính và lòng tôn trọng lẫn nhau. Đức Bênêđíctô biết rằng Thánh
Kinh Hybálai hết sức yếu tính đối với Kitô Giáo. Như có lần ngài viết: “Tân Ước
không phải là một sách khác của một tôn giáo khác, một sách mà vì lý do này hay
lý do nọ đã nhận vơ Sách Thánh của người Do Thái làm một thứ cấu trúc mào đầu
của mình. Tân Ước không là gì khác hơn là lời giải thích ‘Lề Luật, các Tiên Tri
và Lời Dạy’ tìm thấy hay chứa đựng trong truyện kể về Chúa Giêsu”
Sau cùng, cũng có thể gọi Đức Bênêđíctô là một nhà dân
túy về Thánh Kinh (biblical populist). Vốn là người từng góp phần soạn ra Hiến
Chế Mạc Khải của Công Đồng Vatican II, nhà thần học Joseph Ratzinger muốn phục
hồi Thánh Kinh cho dân Giáo Hội, để Thánh Kinh ấy, một lần nữa, trở thành nguồn
suối cho lời kinh và cái hiểu của Kitô hữu. Một trong những điểm ngài hết sức
chỉ trích những người quá thổi phồng phương thức phê bình lịch sử là họ đã lấy
Thánh Kinh ra khỏi dân Giáo Hội, bằng cách dạy các tín hữu bình thường rằng cái
bản văn cổ xưa hết sức phức tạp này chỉ dành cho các chuyên viên thành thạo đọc
mà thôi.
Weigel cho rằng trong chuyến tông du tới Đất Thánh lần
này, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI sẽ nói và làm nhiều chuyện. Những chuyện ấy
sẽ được sàng sẩy qua cái lọc của truyền thông và được mổ xẻ qua mọi sắc thái
chính trị. Nhưng bên dưới những chuyện ngài nói và làm ấy, sẽ là lòng tôn kính
sâu xa của ngài đối với Thánh Kinh. Ngài hoàn toàn xác tín rằng những sách cổ
xưa ấy nói lên các lời chân lý và ánh sáng cho thời đại ta. Ngài sẽ nói điều
ấy, dưới nhiều hình thức khác nhau của cùng một chủ đề vĩ đại. Hãy chờ xem ai
là người biết lắng nghe.
Tầm quan trọng lịch sử của chuyến tông du Đất Thánh
Karna Swanson của hãng tin Zenit đã đến phỏng vấn Linh
Mục David Neuhaus về chuyến tông du bắt đầu hôm nay của Đức Giáo Hoàng
Bênêđíctô XVI tại Đất Thánh. Cha David Neuhaus là một linh mục Dòng Tên, hiện
là đại diện cho các người Công Giáo nói tiếng Hybálai của Tòa Thượng Phụ Latinh
tại Giêrusalem. Trong cuộc phỏng vấn này, cha Neuhaus đề cập tới việc Do Thái
chuẩn bị nghênh đón Đức Giáo Hoàng, các thách đố chính của chuyến đi và tầm
quan trọng lịch sử của chuyến tông du này.
Hỏi: Do Thái đang chuẩn bị ra sao cho cuộc viếng thăm của
Đức Bênêđíctô XVI? Đặc biệt là người Công Giáo nói tiếng Hybálai tại Do Thái,
họ đang chuẩn bị ra sao?
Cha Neuhaus: Như một quốc gia, Do Thái đang chuẩn bị để
nghênh đón một vị khách hết sức nổi bật. Cờ Vatican đang tung bay trên các
đường phố Đức Thánh Cha sẽ đi qua. An ninh và các biện pháp khác đã thấy hiển
hiện tại các nơi ngài sẽ đến viếng. Báo chí đầy những truyện kể về Đức GH
Bênêđíctô, về lịch trình thăm viếng của ngài, về các khía cạnh sinh hoạt của
Giáo Hội, và có lẽ có ý nghĩa nhất là về Giáo Hội địa phương, là giáo hội hiện
ít được ai chú ý vì (hiện diện) trong một xứ sở mà Kitô hữu chỉ chiếm từ 2 tới
3% dân số.
Tuy nhiên, cộng đồng Công Giáo nói tiếng Hybálai, cũng
như cộng đồng Công Giáo nói tiếng Ả Rập, đang ráo riết chuẩn bị để nghênh đón
vị mục tử của chúng ta, trong niềm vui và phấn khích. Chúng tôi chuẩn bị lắng
nghe và quan sát, học hỏi và mở rộng cõi lòng mình ra. Chúng tôi rất hy vọng
được Đức Giáo Hoàng khích lệ và giúp đỡ để hiểu rõ sâu sắc hơn bao giờ hết ơn
gọi làm “số sót nhỏ bé” tại vùng đất này, một vùng đất thường vẫn được đánh dấu
bằng tranh chấp. Chúng tôi hãnh diện khi Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô nhấn mạnh
rằng ngài tới đây trước hết và đầu hết để thăm chúng tôi và hiện diện với chúng
tôi.
Câu hỏi: Đức Thánh Cha nhiều lần xin mọi người cầu nguyện
cho cuộc hành hương này và phát ngôn viên của ngài gọi nó là một chuyến đi
“nhất định là can đảm”. Cha nghĩ liệu có những nguy cơ đặc thù nào xẩy ra cho
chuyến đi tới Đất Thánh vào lúc này hay không?
Cha Neuhaus: Đây quả là chuyến đi can đảm vì quả có nhiều
rủi ro. Chúng tôi đang sống trong một tranh chấp có tính chính trị khắp nước.
Mọi phía đều cố gắng khai thác chuyến thăm của Đức Thánh Cha để thăng tiến
quyền lợi của riêng họ. Đức Thánh Cha không những gặp gỡ thực tại tôn giáo
trong sinh hoạt Đất Thánh mà ngài còn phải thăm viếng các đại diện chính thức
của cả Do Thái lẫn Thẩm Quyền Palestine.
Ngài sẽ phải nghe hai câu truyện quốc gia ở những nơi bi
thảm nhất của họ, lúc tới thăm Yad Vashem (tưởng niệm các nạn nhân Diệt Chủng)
và Trại Aida (trại tị nạn Palestine từ cuộc chiến năm 1948). Rủi ro rất rõ, vì
Đức Giáo Hoàng cố gắng tới đây như một người hành hương để cầu nguyện cho hòa
bình và hợp nhất. Nhiều người đang chờ ngài lên tiếng ủng hộ chính nghĩa của
họ. Đức Giáo Hoàng cố gắng tới đây như một mục tử. Nhưng nhiều người sẵn sàng
mổ xẻ từng lời ngài nói và mọi động thái ngài làm để rút ra một kết luận chính
trị.
Chuyến viếng thăm sẽ phải được biên đạo một cách tuyệt
đối khéo léo sao cho chủ đích của Đức Thánh Cha được bảo toàn, trong một bối
cảnh bị nhiều người mưu toan kéo ngài vào vũng lầy tranh chấp và quyền lợi nhỏ
nhen. Đức Giáo Hoàng cần một lòng can đảm của các tiên tri xưa khi giáp mặt với
các thế lực, ngõ hầu có thể nói lên tiếng nói chân lý và hoàn tất được hành
động viếng thăm mảnh đất này trong tư cách người hành hương hoà bình, hợp nhất
và yêu thương. Ước chi lời cầu xin của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tăng sức
cho Đức GH Bênêđíctô để ngài tiến bước trên con đường của vị tiền nhiệm. Ước
mong cuộc hành hương này bồi đắp và thăng tiến hơn nữa cuộc hành hương tuyệt
vời của vị tiền nhiệm ấy.
Câu hỏi: Đức hồng y Leonardo Sandri vào tuần này vừa tiết
lộ rằng chuyến đi Đất Thánh là chuyến đi được Đức Giáo Hoàng dự tính thực hiện
ngay từ đầu triều đại giáo hoàng. Tại sao chuyến đi này lại quan trọng đến thế?
Cha Neuhaus: Chuyến đi quan trọng vì nhiều bình diện khác
nhau. Thứ nhất, Đức Thánh Cha tới một lãnh thổ vốn là hiện trường lịch sử cứu
rỗi của chúng ta, lãnh thổ của các tổ phụ, tiên tri và hiền nhân Cựu Ước, lãnh
thổ của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, của các môn đệ và tông đồ Tân Ước. Ngài tới
để nhắc chúng ta nhớ tới tầm quan trọng của những địa điểm thánh thiêng này đối
với bản sắc Kitô Giáo của chúng ta vì chúng chính là những nhắc nhớ trường cửu
lòng trung tín của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Thứ hai, ngài tới để khuyến khích và hỗ trợ Giáo Hội mẹ
Giêrusalem. Trong các tuần lễ này, từ Lễ Phục Sinh tới Lễ Chúa Thánh Thần Hiện
Xuống, chúng ta vốn đọc Công Vụ Tông Đồ trong đó Giêrusalem và Giáo Hội thành
này là những điểm quy chiếu khôn nguôi. Chúng ta phải tăng sức cho Giáo Hội
Giêrusalem như là điểm quy chiếu tìm về nguồn cội, và vì việc làm chứng cho
Chúa Giêsu là một việc chủ yếu tại mảnh đất Người từng sinh sống.
Thứ ba, Đức Giáo Hoàng tới chính trái tim của một khu vực
bất ổn để trình bày khuôn mặt của Giáo Hội như là người cổ vũ công lý, hòa bình
và quan trọng hơn cả là tha thứ và cảm thương. Chúng ta cần chuyến tông du này
một cách đặc biệt để cổ vũ sự tha thứ, hiện hết sức vắng bóng trong ngôn từ
bình thường về cuộc tranh chấp ở đây.
Thứ bốn, Đức Giáo Hoàng tới để cổ vũ đối thoại với cả
người Do Thái Giáo lẫn người Hồi Giáo.
Câu hỏi: Chuyến đi này sẽ là cơ hội gặp gỡ giữa người
Công Giáo, Hồi Giáo và Do Thái Giáo. Đức Giáo Hoàng có thể làm gì để tránh hiểu
lầm với Do Thái Giáo và Hồi Giáo như đã xẩy ra vào đầu năm nay liên quan tới vụ
tha vạ tuyệt thông cho giám mục Richard Williamson, và bài diễn văn Regensburg
lúc khởi đầu triều đại giáo hoàng của ngài, một bài diễn văn làm một số người
Hồi Giáo bất bình?
Cha Neuhaus: Các cuộc gặp gỡ với các thẩm quyền Do Thái
Giáo và Hồi Giáo là yếu tố quan trọng trong chuyến viếng thăm này. Cũng thế,
Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm một vài địa điểm quan trọng của hai truyền thống
tôn giáo này, tức Đền Haram al-Sharif (của Hồi Giáo, nơi ngài sẽ viếng Vòm Nhà
Đá [Dome of the Rock]) và Bức Tường Phía Tây (của Do Thái Giáo). Trước hai cuộc
viếng thăm này, là cuộc gặp mặt liên tín ngưỡng trong đó, Đức Giáo Hoàng sẽ nói
truyện với hàng trăm người Do Thái Giáo, Kitô Giáo và Hồi Giáo đang đảm nhiệm
các công tác đối thoại liên tôn, giáo dục, phúc lợi xã hội, nhân quyền, dân
chủ, khoan dung, những người đang hoạt động trong tư cách kiến tạo hòa bình và
cổ vũ cho công lý và hòa giải.
Cả người Do Thái Giáo và người Hồi Giáo đều đang mong chờ
các ngôn từ và hành vi hòa giải đối với các căng thẳng trước đây. Những giây
phút quan trọng đối với việc này không những sẽ là các cuộc viếng thăm các thẩm
quyền tôn giáo và những địa điểm thánh thiêng đối với các truyền thống Do Thái
Giáo và Hồi Giáo, mà còn là tại những nơi Đức Giáo Hoàng sẽ chứng kiến nỗi đau
đớn của nhân dân trong vùng. Những cuộc gặp gỡ này tự chúng đều là những cơ hội
để Đức Thánh Cha tỏ cho anh chị em Hồi Giáo và Do Thái Giáo khuôn mặt của một
người anh em khi nói tới những lời khôn ngoan và yêu thương và đặt để được việc
khởi động các hành vi tôn trọng và cảm thương nhau.
Câu hỏi: Đức Giáo Hoàng nói rằng ngài tới Đất Thánh như
một “Người Hành Hương Hòa Bình”. Làm thế nào vị đứng đầu Giáo Hội Công Giáo có
thể là một sức mạnh hòa bình tại vùng đất này?
Cha Neuhaus: Đây là một thách đố rất lớn trong một vùng
xem ra thường là không muốn lên đường tìm kiếm hòa bình. Đức Giáo Hoàng tới
không với tư cách một nhà lãnh đạo chính trị, nhưng trong tư cách một nhà lãnh
đạo tinh thần và tôn giáo đi hành hương. Điều ấy có nghĩa ngài có được sự tự do
của Chúa Thánh Thần và ngài có thể tìm cách biến đổi trí tưởng tượng của mọi
người trong vùng vốn chỉ nhìn thấy tranh chấp và thách thức.
Có lẽ Đức Thánh Cha không có công thức chính trị mới mẻ
nào để đề nghị với các nhà lãnh đạo ở đây, nhưng tôi chắc chắn ngài sẽ nhấn
mạnh tới các yếu tố chủ chốt cho việc kiến tạo hòa bình, những yếu tố rất hiếm
khi được nhắc tới trong ngôn từ chính trị đang thịnh hành tại vùng này. Tha thứ
và cảm thương là hai trong các yếu tố chắc chắn Đức Giáo Hoàng sẽ nhấn mạnh
trong các cuộc gặp gỡ với người Do Thái và Palestine .
Đức Giáo Hoàng tới không như một vị vua, mà như một tiên
tri, một hiền nhân. Điều ấy giúp ngài thoát khỏi phần nào các thúc bách của
quyền lực và quyền lợi chính trị để ngài có thể đề cập tới hoàn cảnh đáng buồn của
chúng ta bằng ngôn từ của sự thật và yêu thương. Chỉ cần mở được trí tưởng
tượng để chúng ta nhìn thấy điều chúng ta không thể tự mình nhìn thấy, như
người khác chính là anh em chứ không phải thù địch của ta, là ngài đã có thể
giúp ta trừ khử được con qủy sợ hãi, ngờ vực và hận thù vốn thuộc địa hóa tâm
trí chúng ta từ trước đến nay.
Câu hỏi: Đối với những người theo dõi chuyến đi của Đức
Giáo Hoàng từ ngoại quốc, đâu là một vài yếu tố văn hóa cần ghi nhận?
Cha Neuhaus: Có lẽ đơn giản hơn hết, những người theo dõi
như thế cần hiểu rằng Đức Giáo Hoàng tới những quốc gia không phải là Công
Giáo, mà đúng hơn là những quốc gia được xác định bằng truyền thống, lịch sử và
căn tính Do Thái (Israel), cũng như truyền thống, lịch sử và căn tính Hồi Giáo
(Giođăng và Thẩm Quyền Palestine). Đối với phần lớn các dân tộc này, Đức Giáo
Hoàng không phải là vị mục tử qúy yêu, mà chỉ là một vị vọng ngoại quốc vốn bị
coi như đại biểu cho cái đau và cái phiền phức vốn lên sắc diện cho các liên hệ
giữa người Do Thái Giáo và người Công Giáo một đàng, và đàng kia giữa người Hồi
Giáo và người Công Giáo.
Nên tất cả chúng ta phải cầu nguyện để cuộc viếng thăm
này trở thành một giờ khắc biến đổi quan trọng trong đó, người Do Thái và người
Palestine, người Do Thái Giáo và người Hồi Giáo, biết nhìn ra khuôn mặt của
Chúa Giêsu Kitô, một người khiêm hạ, biết cảm thương và là đầy tớ của anh chị
em mình, nơi Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI. Tựu chung, đó là thách đố quan trọng
nhất của cuộc tông du lần này.
Tại Giođăng, Đức Giáo Hoàng nói hòa bình
Tin Reuters ngày 8 tháng Năm, từ Amman, cho hay: Đức Giáo
Hoàng bắt đầu chuyến đi khá tế nhị tới Trung Đông vào hôm Thứ Sáu bằng cách tỏ
lòng “tôn kính sâu xa” đối với Hồi Giáo và cho hay: Giáo Hội Công Giáo sẽ làm
mọi điều có thể làm được để góp phần vào diễn trình hòa bình đang bị ngưng đọng
trong vùng.
Khởi đầu chặng thứ nhất của một chuyến đi sẽ bao gồm Do
Thái và các Lãnh Thổ Palestine, ngài cũng kêu gọi một cuộc đối thoại ba chiều
giữa Kitô Giáo, Hồi Giáo và Do Thái Giáo để hỗ trợ hòa bình. Ngài nói với các
phóng viên báo chí trên chuyến máy bay chở ngài tới Giođăng rằng: “Chắc chắn
tôi sẽ cố gắng đóng góp cho hòa bình, không với tư cách cá nhân mà với tư cách
nhân danh Giáo Hội Công Giáo, nhân danh Tòa Thánh. Chúng tôi không phải là một
thế lực chính trị nhưng là một sức mạnh tâm linh và sức mạnh tâm linh này là
một thực tế có thể góp phần tạo tiến bộ cho diễn trình hòa bình”.
Tòa Thánh có liên hệ ngoại giao đầy đủ với hầu hết các
quốc gia tại Trung Đông và có thoả hiệp ngoại giao với Thẩm Quyền Palestine.
Đức Giáo Hoàng nói thêm: “Là tín hữu, chúng tôi xác tín rằng cầu nguyện là một
sức mạnh thật sự, nó mở cửa thế giới cho Thiên Chúa. Chúng tôi xác tín rằng
Thiên Chúa đang lắng nghe và có thể tác động trên lịch sử và tôi nghĩ rằng nếu
hàng triệu tín hữu biết cầu nguyện, thì đó là một sức mạnh có ảnh hưởng và có
thể đóng góp vào việc thăng tiến hòa bình”.
Ngài cũng nói với các nhà báo rằng các cố gắng hòa bình
thường bị ngăn chặn bởi quyền lợi phe phái, do đó Giáo Hội có thể “góp phần làm
cho quan điểm hữu lý triển nở” vì Giáo Hội muốn mời gọi cả người Do Thái Giáo
lẫn người Hồi Giáo dấn thân vào một cuộc đối thoại cho hòa bình đặt căn bản
trên đức tin. Ngài bảo: “Cuộc đối thoại ba chiều phải tiến lên phía trước. Nó
rất quan trọng đối với hòa bình, và còn cho phép mỗi người sống tốt niềm tin
của mình”.
Vị giáo hoàng 82 tuổi này tỏ ra thận trọng trong việc
tránh né các ngôn từ chính trị lộ liễu, ngay ở giai đoạn đầu tiên trong chuyến
công du tới vùng này. Thay vào đó, ngài nhấn mạnh tới tiềm năng của tôn giáo
trong việc giải quyết tranh chấp. Cuộc tông du của Đức Bênêđíctô xẩy ra trong
dư vị bài diễn văn năm 2006 tại Regensburg, trong đó ngài trích dẫn nhận xét
của một vị hoàng đế Byzantine cho rằng Hồi Giáo ưa bạo lực và phi lý. Bài diễn
văn đó hiện vẫn còn làm một số thành phần Hồi Giáo bất bình và các lãnh tụ của
Phong Trào Duy Hồi Giáo tại Giođăng từng lên tiếng phản đối cuộc viếng thăm nếu
ngài không chịu xin lỗi trước. Tòa Thánh cũng như Đức Giáo Hoàng minh xác nhiều
lần rằng ngài không ủng hộ nhận định của vị hoàng đế kia. Nay là lúc không cần
phải nhắc tới biến cố ấy nữa. “Cuộc viếng thăm Giođăng cho tôi cơ hội thuận
tiện để nói lên lòng tôn kính sâu xa của tôi đối với cộng đồng Hồi Giáo”, đó là
lời Đức Bênêđíctô nói trong bài diễn văn tại phi trường Amman . Ngài cũng ca
ngợi Vua Abdullah II đã tận tình “cổ vũ một cái hiểu tốt hơn về các nhân đức
được Hồi Giáo truyền dạy”.
Nhà vua nói chính trị
Tuy nhiên, Vua Abdullah II, người nồng nhiệt nghênh đón
Đức Giáo Hoàng tại phi trường Amman, đã không tránh né các vấn đề chính trị đặc
thù của vùng này và đã cho Đức Giáo Hoàng nếm thử các khó khăn mà ngài sẽ thấy
ở chặng kế tiếp của chuyến đi, lúc tới Do Thái. Nhà Vua lên tiếng kêu gọi giải
pháp hai nhà nước cho cuộc xung đột Do Thái và Palestine . Ông cho rằng: “Các
giá trị chung chia của chúng ta có thể góp phần quan trọng tại Đất Thánh, nơi,
chúng ta phải cùng nhau cất bỏ cái bóng của tranh chấp”.
Theo tờ tuần báo Anh, the Tablet, trước ngày đức Giáo
Hoàng tới Gio-đăng, Vua Abdullah II nói với hãng truyền hình RAI của Ý rằng:
ông hy vọng cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng sẽ làm gia tốc các cố gắng nhằm
đạt hòa bình cho Trung Đông. Ông bảo: “Cuộc viếng thăm này rất đúng lúc”. Ông
cũng nói với nhật báo Corriere della Sera của Milan rằng: "các lời ngài
nói sẽ là một kích thích nhằm vào tất cả chúng ta, thúc đẩy chúng ta tiến nhanh
hơn tới hòa bình”.
Theo tờ The New Straits Time, tại buổi nghênh đón Đức
Giáo Hoàng, nhà vua nhấn mạnh tới “tầm quan trọng của việc chung sống và sự hoà
hợp giữa người Hồi Giáo và người Kitô Giáo” và cảnh giác rằng “những giọng nói
khiêu khích, các ý thức hệ hàm hồ gây chia rẽ, chỉ đe dọa đem đến những thống
khổ khôn tả mà thôi… Chúng tôi hoan nghênh cam kết của ngài trong việc loại trừ
các quan điểm lầm lạc và gây chia rẽ từng mang họa lại cho các mối liên hệ giữa
người Kitô Giáo và người Hồi Giáo… Tôi hy vọng rằng cùng nhau chúng ta sẽ mở
rộng cuộc đối thoại mà chúng ta đã mở ra”.
Về phía Do Thái, từ ngày tuyên thệ làm người đứng đầu tân
chính phủ cánh hữu vào ngày 31 tháng Ba đến nay, Thủ Tướng Benjamin Netanyahu
chưa bao giờ đặc thù thảo luận tới việc thiết lập một nhà nước Palestine tại
West Bank và Giải Gaza, vốn được Mỹ và khối Ả Rập coi là ưu tiên. Tại cuộc họp
của Uỷ Ban Các Vấn Đề Công Cộng Mỹ Do Thái (American Israel Public Affairs
Committee [Aipac]) tại Hoa Thịnh Đốn vừa qua, Netanyahu cho hay hòa bình với
thế giới Ả Rập là một ưu tiên đối với ông: “Chúng tôi muốn hòa bình với thế
giới Ả Rập, nhưng chúng tôi cũng muốn hòa bình với người Palestine.Tôi tin rằng
việc ấy có thể thực hiện được, nhưng tôi nghĩ việc ấy đòi một phương thức mới
hẳn”.
Trong bối cảnh ấy, bất cứ Đức Giáo Hoàng nói điều gì về
chủ đề này đều sẽ có tiếng vang khắp vùng, nhất là lúc ngài tới thăm trại tị
nạn của người Palestine, không xa hàng rào mà Do Thái đã và đang xây cất gần
Bêlem trong lãnh thổ West Bank hiện đang bị Do Thái chiếm đóng. Đức Tổng Giám
Mục Michel Sabbah, thượng phụ về hưu của Giêrusalem và là một người Palestine ,
nói rằng: “Tôi tin Đức Giáo Hoàng sẽ đem tới một sứ điệp nói lên nỗi đau khổ
của người Palestine dưới sự chiếm đóng của Do Thái”.
Tại phi trường Amman , Đức Tổng Giám Mục Sabbah nói với
thông tín viên của Reuters rằng: “Tôi nghĩ ngài sẽ gửi một thông điệp nói lên
nỗi bất công từng giáng xuống người Palestine , bất kể họ là Kitô hữu hay người
Hồi Giáo”.
Ưu tiên thăm người khuyết tật
Đúng như chương trình, Vua Abdullah II đã thân hành ra
tận máy bay để cùng hoàng hậu Rania nghênh đón Đức Giáo Hoàng lúc ngài đáp
xuống phi trường Amman . Cũng theo chương trình, hai vị sẽ còn gặp nhau vào
buổi chiều tại hoàng cung để thảo luận. Tuy nhiên, ưu tiên hàng đầu của Đức
Giáo Hoàng là tới thăm trung tâm dành cho người khuyết tật tại giáo xứ Regina
Pacis (Nữ Vương Hòa Bình). Theo tin Catholic News Service, trung tâm trên do
Giáo Hội Công Giáo sở hữu và điều hành, nhằm chăm sóc sức khỏe và khôi phục cho
hơn 600 người Giođăng khuyết tật về thể lý và tinh thần. Tại đây, ngài xúc động
đề cập tới việc biến khổ đau thành có ý nghĩa và các cố gắng của Giáo Hội nhằm
trợ giúp người khuyết tật. Việc ngài tới thăm trung tâm này cũng nói lên quan
tâm của Giáo Hội đối với những người bệnh hoạn. Tại Giođăng, người ta ước lượng
có tới 10% người trẻ dưới tuổi 19 mang khuyết tật trầm trọng. Trung tâm điều
trị hết sức tối tân này được điều hành bởi ba nữ tu thuộc Dòng Truyền Giáo
Comboni và một nhóm giáo viên, điều trị viên và thiện nguyện viên để giáo dục
và chăm sóc miễn phí cho những người Hồi Giáo và Kitô Giáo tàn tật.
Đức Giáo Hoàng đến trung tâm giữa tiếng reo hò của đám
đông. Ngài len lỏi vào giữa hàng ngũ tín hữu, trong khi ban nhạc Giođăng thổi gerpe,
một loại kèn ống của họ, và đánh tabla (trống đánh bằng tay). Trong bài
huấn dụ, ngài nhận rằng đôi khi thật “khó tìm được lý lẽ giải thích điều xem ra
chỉ là một trở ngại phải vượt qua hay đơn giản chỉ là đau khổ phải hứng chịu,
đau khổ thể lý hay đau khổ xúc cảm”. Ngài cho rằng: đức tin vào Thiên Chúa và
tình yêu vô điều kiện của Người đem lại tầm nhìn cần thiết, và cầu nguyện có
thể giúp ta chữa lành các vết thương tâm linh và xúc cảm. Ngài vui cười nói với
đám đông tại trung tâm: “Các bạn thân mến, không giống người hành hương thuở
xưa, tôi tới đây chẳng mang theo quà cáp hay lễ dâng gì cả. Tôi chỉ đến với một
chủ đích, một niềm hy vọng: là cầu nguyện cho hồng phúc hợp nhất và hòa bình
đầy qúy giá, nhất là hợp nhất và hòa bình cho Trung Đông”.
Phản ứng của người Hồi Giáo
Vào sáng hôm nay, ngài cũng sẽ đọc diễn văn trước các nhà
lãnh đạo Hồi Giáo và ngoại giao đoàn sau khi viếng Đền Thờ Hồi Giáo Al-Hussein
Mosque. Các học giả Hồi Giáo coi cuộc viếng thăm Đền Thờ này là một dấu hiệu
thiện chí.
Basma Dajani, một giáo sư dạy tiếng Ả Rập tại Đại Học
Giođăng cho hay: “chúng tôi hoan nghênh cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng tại
nơi thánh ấy. Chúng tôi hy vọng cuộc viếng thăm này không chỉ nhằm gây tác động
hỗ tương về tôn giáo, mà còn là cơ hội cho sự hợp tác văn hóa giữa người Ả Rập
và người Phương Tây”.
Hamdi Murad, một học giả Hồi Giáo và là thành viên của
Trung Tâm Nghiên Cứu Chung Sống Liên Tín Ngưỡng Giođăng cho hay: “Trong tư cách
một quốc gia Hồi Giáo, chúng tôi hoan nghênh Đức Giáo Hoàng. Cuộc thăm viếng
của ngài thật tích cực… và giúp xua đuổi mọi hiểu lầm giữa Vatican và thế giới
Ả Rập”.
Lớn mạnh, góp phần xây dựng Trung Đông
Trước khi rời Gio-đăng qua Do Thái, Đức Giáo Hoàng sẽ làm
phép viên đá đầu tiên xây dựng ít nhất ba cấu trúc Công Giáo: một đại học tân
lập tại Madaba, cách Amman 20 dặm, và hai nhà thờ tại
Bethany-quá-bên-kia-Giođăng gần địa điểm người ta tin Chúa Giêsu xưa kia đã
được Thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho. Giám đốc báo chí của Tòa Thánh là
Cha Federico Lombardi cho biết: khi làm phép các viên đá đầu tiên nói trên, Đức
Giáo Hoàng hy vọng cộng đồng Kitô hữu nhỏ bé của nước này tiếp tục ở lại và lớn
mạnh, góp phần vào sự phồn vinh của đất nước.
Marie-Ange Siebrecht, một nhân viên thuộc tổ chức “Trợ
Giúp Các Giáo Hội Túng Thiếu”, vừa từ Trung Đông trở về Đức, mô tả điều kiện
sống hết sức khó khăn của các Kitô hữu tại vùng này. Theo cô, người Kitô hữu
tại Galilê chẳng hạn, tuy có được những điều kiện sống tốt hơn người Palestine
tại West Bank, nhưng đối với Do Thái, họ vẫn bị coi là công dân bậc nhì, nghĩa
là không được đủ tự do như các công dân Do Thái khác, như không được tự do du
hành như các công dân kia. Dù thế, vẫn có chừng 73,000 người Công Giáo tại
Galilê, một con số không nhỏ.
Cô cho hay khu vực quanh Bêlem thuộc West Bank có nhiều
vấn đề tồi tệ nhất. Ở đấy, người ta như sống trong một nhà tù, vì bức tường
phân cách kia, họ không thể tới lui được chi cả. Vấn đề càng trở nên khó khăn
hơn cho các cặp vợ chồng Kitô giáo còn trẻ. Cô trưng trường hợp người chồng trẻ
được cấp giấy đi Giêrusalem làm việc, nhưng người vợ của anh thì không được
phép rời Bêlem để cùng đi và sống với anh…
Cô kêu gọi Kitô hữu hãy tới Đất Thánh không phải chỉ để
thăm những nơi thánh mà còn thăm những ‘viên đá sống’ vì những người Kitô hữu
này rất vui khi thấy anh chị em Kitô hữu tới lui gần gũi với mình.
Đó chính là điều Đức Thánh Cha đang làm. Ngài đến nói với
những viên đá sống này rằng: nay quả là một thời kỳ hết sức khó khăn đối với
họ, nhưng cũng là thời điểm của hy vọng, thời điểm của “một bắt đầu mới và một
cố gắng mới tiến tới hòa bình”. Ngài cho họ hay: họ là thành tố quan trọng
trong sinh hoạt của các quốc gia tại trung Đông, và Giáo Hội muốn khích lệ họ
hãy “can đảm, khiêm nhường và nhẫn nại để tiếp tục ở lại trong nước” và đóng
góp cho xã hội, đặc biệt qua hệ thống học đường và bệnh viện của mình. Nhất là
các học đường, những định chế này sẽ giúp đưa người Kitô Giáo và người Hồi Giáo
tìm về với nhau.
Tự do tôn giáo
Trong đáp từ của ngài tại phi trường Amman, Đức Giáo
Hoàng nói rằng các công trình xây dựng trên còn làm chứng cho sự tự do tôn giáo
của Gio-đăng. Và ngài hy vọng sự tự do ấy được quảng bá khắp vùng. Theo ngài,
tự do tôn giáo là một quyền căn bản, “và tôi hết sức hy vọng và cầu nguyện để
việc tôn trọng các quyền và phẩm giá bất khả nhượng của mọi con người, bất kể
nam hay nữ, được khẳng nhận và bênh vực mỗi ngày một hơn, không phải chỉ ở
Trung Đông, mà còn ở mọi vùng trên thế giới”.
Theo tin của Catholic News Service, Đức Thánh Cha nhân
dịp này cũng ca ngợi các nhà lãnh đạo Giođăng trong việc ủng hộ các cố gắng tìm
ra giải pháp công bằng cho cuộc xung đột Do Thái và Palestine. Cuối tháng Tư
vừa qua, Vua Abdullah II từng gặp Tổng Thống Barack Obama và thúc giục ông này
có những động thái cương quyết cho hòa bình giữa Do Thái và Palestine, bằng
cách cảnh cáo rằng một cuộc chiến tranh Trung Đông mới sẽ bùng nổ nếu không có
tiến triển thật sự nào trong 18 tháng tới. Nhà Vua cũng mới gặp Tổng Thống Ai
Cập là Hosni Mubarak để cố gắng tái phát động các cuộc thương thảo nghiêm chỉnh
về hòa bình giữa người Palestine và người Do Thái, đặt căn bản trên giải pháp
hai quốc gia.
Đức Giáo Hoàng cũng ghi nhận việc Giođăng tiếp nhận người
tị nạn từ Iraq. Con số người tị nạn này lên đến 700,000 người, trong đó có
70,000 người là Kitô hữu. Một số Kitô hữu này cũng đã tham dự các buổi nghênh
đón Đức Giáo Hoàng tại Giođăng.
Thù tiếp của Giođăng
Báo chí tường thuật rằng theo truyền thống Đức Giáo Hoàng
không ăn uống với các vị nguyên thủ quốc gia, nên tại Giođăng, dù được quốc
vương, hoàng hậu và hoàng gia đón tiếp nồng hậu, ngài vẫn không dự yến tiệc chi
tại hoàng cung cả. Phần lớn các bữa ăn của ngài diễn ra tại Tòa Đại Sứ của
Vatican ở Amman, do các đầu bếp thượng thặng trông coi. Thực đơn đã được gửi
trước cho Vatican và các đầu bếp được dặn dò cẩn thận là Đức Giáo Hoàng không
dùng nấm và đồ biển.
Giođăng đã dành cả hai tháng chuẩn bị cho chuyến tông du
của Đức Giáo Hoàng. Biển ngữ chào đón ngài được chăng khắp các phố, có biển ngữ
viết rằng: “Hãy đứng sau quốc vương để nghênh đón Đức Giáo Hoàng trong suốt
cuộc hành hương của ngài. Hỡi người Hồi Giáo và Kitô Giáo”. Sở bưu điện Giođăng
cũng sẽ phát hành các tem thư đặc biệt trong những ngày tới để đánh dấu cuộc
viếng thăm này, nhưng các viên chức không cho biết thêm tin tức gì về hình thù
các tem thư này.
Chuyến đi của Đức Bênêđíctô phản ảnh chuyến đi lịch sử năm
2000 của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, người được cả người Do Thái Giáo lẫn
người Hồi Giáo ca ngợi như nhau. Phản ứng tốt đẹp vào ngày đầu cuộc viếng thăm
cho người ta hy vọng Đức Bênêđíctô XVI cũng sẽ gặt hái được một thành quả tương
tự. Một viên chức, ông Bader, cho hay hàng ngàn chiếc nón mang cờ Giođăng và
Vatican cũng như các áo thung in hình nhà vua và Đức Giáo Hoàng đã được phân
phối tại vận động trường quốc tế tại Amman vào ngày Chúa Nhật trước Thánh Lễ
Đức Giáo Hoàng cử hành tại đó. Theo tin của tờ The National, Nhà Cầm Quyền
Palestine đã bằng lòng bỏ kế hoạch tiếp đón Đức Giáo Hoàng tại một khán đài
cạnh bức tường phân cách West Bank với Do Thái, mà theo Essa Qaraqie, một nhà
lập pháp của Palestine, là do áp lực của Do Thái. Họ đã di chuyển địa điểm
nghênh đón tới một ngôi trường của Liên Hiệp Quốc bên trong trại tị nạn. Phải
chăng, đó cũng là vết rạn của sự căng thẳng cố hữu trong vùng.
Vũ Văn An