Cuộc tông du Đất Thánh (9)
Hòa bình, hy vọng chung
“Chúng tôi mong đợi Đức Giáo Hoàng như con
cái mong đợi người cha”, lời phát biểu của Eli Hajjar quả đã tóm lược được hết
cảm thức mong chờ của Kitô hữu đối với chuyến tông du Đất Thánh của Đức Thánh
Cha.
Ngài đã tới Do Thái vào ngày hôm nay, 11
tháng Năm, sau khi lưu lại Giođăng ba ngày và chỉ trở lại Rôma vào Thứ Sáu này.
Theo chương trình, ngài sẽ đọc 29 bài diễn văn trong suốt cuộc hành trình này.
Hajjar, một sinh viên 21 tuổi của Đại Học
Bêlem, người dạy giáo lý cho trẻ em và làm nhiều việc xã hội giúp đỡ người cao
niên, mong rằng cuộc tông du của Đức Giáo Hoàng sẽ diễn tiến thanh thản. Theo
anh, “Ngày nay, Kitô hữu, và nhất là người Công Giáo rất hy vọng Đức Giáo Hoàng
sẽ mang lại hòa bình cho cuộc sống của chúng tôi. Người Do Thái Giáo và người
Hồi Giáo cũng hy vọng được biết con người vĩ đại vốn là người kế vị Thánh Phêrô
này một cách tốt hơn”
Bêlem
Bêlem cũng đang đầy hy vọng chờ đợi Đức
Giáo Hoàng. Vicenzo Bellomo, một giáo dân Ý thuộc phong trào Fidei Donum (Ơn
Phúc Đức Tin), từng ở Trung Đông ba năm nay, và hiện làm việc với cơ quan trông
coi Đất Thánh của dòng Phanxicô, tại vùng Bêlem, nhận xét rằng: “Cuộc thăm
viếng Bêlem là một cuộc thăm viếng lãnh thổ hiện đang bị vây kín chung quanh.
Muốn ra khỏi đây, bạn cần có giấy phép. Gần giống như đến thăm người tù vậy,
mặc dù đây là một địa điểm hết sức đặc biệt”.
Đức Giáo Hoàng sẽ cử hành một Thnáh Lễ tại
đây vào hôm Thứ Tư. Bellomo cho hay: người ta đặt “niềm hy vọng tươi đẹp, đầy
hứng khởi và tin tưởng sâu sắc vào vị Giáo Hoàng này. Họ hy vọng ngài sẽ có
những lời nói lên sự thật về Gaza và về tình huống các Kitô hữu tại đây”.
Nadarét
Thánh lễ lớn sau cùng của Đức Thánh Cha
trong chuyến tông du Đất Thánh lần này sẽ diễn ra tại Nadarét vào hôm Thứ Năm.
Nhiều người đang mong chờ cho ngày ấy mau đến. Cha Renato Rosso, Dòng Cát Minh
Không Giầy, đang tổ chức các chuyến xe buýt cho giáo dân thuộc giáo xứ Thánh
Giuse, là giáo sứ theo nghi lễ Latinh duy nhất tại Haifa, trong đó có khoảng
100 thanh niên Công Giáo Tiến Hành. Cha bảo: “Đối với phần đông những người
này, đây là lần đầu không những được thấy Đức Giáo Hoàng mà còn được tiếp xúc
với anh chị em Kitô hữu từ khắp nơi trên thế giới”. Hòa bình cũng là niềm hy
vọng chính của các Kitô hữu này: “Người Do Thái Giáo và người Hồi Giáo coi
chuyến tông du này như dấu chỉ tái khẳng định ý chí hướng tới hòa bình và tìm
ra giải pháp cho các vấn đề lớn lao của cộng đồng Palestine”.
Kêu gọi một quê hương an ổn cho mọi
người
Ngày 11 tháng Năm, vừa từ Giođăng đặt chân
tới phi trường quốc tế Tel Aviv của Do Thái, Đức Giáo Hoàng đã nhấn mạnh tới
nhu cầu phải chấm dứt các tranh chấp tại Đất Thánh để tìm ra một giải pháp hòa
bình và công chính đảm bảo một quê hương an ổn cho mọi người.
Trước sự hiện diện của Tổng Thống Simon
Peres, Thủ Tướng Benjamin Netanyahu, và nhiều chức trách dân sự và nhiều vị
giám mục tại Đất Thánh, Đức Giáo Hoàng khẳng định rằng ba tôn giáo độc thần vĩ
đại là Kitô Giáo, Do Thái Giáo và Hồi Giáo có chung “một niềm tôn kính đặc biết”
đối với Giêrusalem. Ngài hết sức hy vọng “mọi khách hành hương thăm các nơi
thánh sẽ được thăm những nơi này một cách tự do, không bị một hạn chế nào, ngõ
hầu có thể tham dự các nghi lễ tôn giáo và cổ vũ việc duy trì xứng đáng các nơi
thờ phượng tại các địa điểm thánh thiêng ấy”.
Ngài buồn rầu nhận định rằng: “Dù tên
Giêrusalem có nghĩa là thành phố hòa bình, nhưng suốt nhiều thập niên qua, điều
hiển nhiên là hòa bình vẫn xa vời một cách thảm thương đối với cư dân của mảnh
đất thánh thiêng này”.
Ngài bảo “Con mắt thế giới đang nhìn về
phía các dân tộc của vùng này trong khi các dân tộc này đang cố gắng thực hiện
cho bằng được một giải pháp công lý và bền vững cho các cuộc tranh chấp từng
đem lại xiết bao đau thương… Niềm hy vọng của không biết bao nhiêu người đàn
ông, đàn bà và trẻ em vào một tương lai an toàn và ổn định hơn tùy thuộc kết
quả các cuộc thương thảo hòa bình giữa người Do Thái và người Palestine”.
Ngài nói tiếp: “Hiệp ý với người thiện chí
ở khắp nơi, tôi khẩn khoản xin mọi người có trách nhiệm hãy thăm dò mọi ngả
đường có thể để tìm ra một giải pháp công bình cho các khó khăn nổi bật hiện
nay, ngõ hầu cả hai dân tộc được sống hòa bình trên mảnh đất quê hương riêng
của họ, bên trong các biên giới an toàn và được quốc tế công nhận. Về phương
diện này, tôi hy vọng và cầu xin để một bầu không khí tin cậy hơn không bao lâu
nữa sẽ được tạo ra, giúp các bên có khả năng thực hiện được tiến bộ thực sự
trên con đường hòa bình và ổn định”.
Về phần các cộng đồng Kitô Giáo tại Đất
Thánh, Đức Thánh Cha thúc giục họ “Bằng chứng tá cầu nguyện của các con đối với
Đấng từng rao giảng sự tha thứ và hòa giải, bằng việc dấn thân của các con
trong việc duy trì tính thánh thiêng của sự sống nhân bản, các con có thể góp
phần một cách đặc thù vào việc chấm dứt các mối thù địch từng giáng họa bao lâu
nay trên mảnh đất này”.
Về phần Tổng Thống Peres, khi lên tiếng
chào mừng Đức Thánh Cha, Ông gọi cuộc tông du này là một “sứ mệnh hòa bình”.
Ông nói: “Chúng tôi từng thực hiện hòa bình với Ai Cập và Giođăng, và hiện
chúng tôi đang có những cuộc thương thảo tạo hòa bình với người Palestine, và
đã tiến tới một nền hòa bình tổng thể cho từng khu vực”. Ông cho rằng cuộc tông
du của Đức Thánh Cha “đem tới một cái hiểu đầy phúc đức giữa các tôn giáo và
gieo rắc hòa bình khắp mọi nơi”
Đối thoại liên tín ngưỡng, đường dẫn tới
hòa bình
Trong bài diễn văn công khai lần thứ hai
tại Do Thái, Đức GH Bênêđíctô XVI nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cuộc đối
thoại liên tôn trong việc mưu cầu hòa bình, khi được Tổng Thống Peres nghênh
đón tại dinh tổng thống ở Giêrusalem vào ngày hôm nay, 11 tháng Năm.
Tại dinh này, Đức GH đã trồng tượng trưng
một cây ở vườn của dinh trước mặt nhiều yếu nhân chính trị và tôn giáo. Sau đó,
là cuộc trao đổi đầy cởi mở giữa nhà lãnh đạo Do Thái và Đức Thánh Cha. Sau đó,
Đức Thánh Cha nói truyện với mọi người hiện diện. Theo ngài, hoà bình trước hết
là hồng ân của Thiên Chúa, một hồng ân ta chỉ có thể nhận được khi ta chịu đi
tìm Thiên Chúa “bằng trọn trái tim mình”. Ngài nhấn mạnh: “Đóng góp đặc thù của
tôn giáo vào việc mưu cầu hòa bình chủ yếu hệ ở việc tìm kiếm Chúa hết lòng hết
dạ và đầy hợp nhất… Chính sự hiện diện đầy năng động của Thiên Chúa đã lôi kéo
các trái tim lại với nhau và bảo đảm sự hợp nhất”.
Theo Đức Giáo Hoàng, an ninh “phát sinh từ
sự tin tưởng [lẫn nhau] và không phải chỉ là việc không có đe dọa nhưng còn là
việc cảm nhận được sự thanh bình và tự tin. Trong kế sách của Thiên Chúa dành
cho thế giới, an ninh, chính trực, công lý và hòa bình, là những điều không thể
tách biệt được với nhau. Không một cá nhân, một gia đình, một cộng đồng hay một
quốc gia nào được miễn chước khỏi nhiệm vụ phải sống trong công lý và làm việc
cho hòa bình”.
Để kết luận, Đức Thánh Cha cho mọi người
hay: “tôi vốn nghe được tiếng kêu của những người đang sống tại mảnh đất này.
Tiếng kêu này đòi công lý, hòa bình, và sự tôn trọng phẩm giá họ, đòi một nền
an ninh bền vững, đòi một cuộc sống hàng ngày không phải sợ sệt vì bị đe dọa từ
bên ngoài và những bạo lực vô nghĩa. Và tôi cũng biết rằng vô số đàn ông, đàn
bà và người trẻ đang cố gắng làm việc cho hòa bình và tình liên đới qua nhiều
chương trình văn hóa và qua nhiều sáng kiến nhằm nới rộng vòng tay cảm thương
và thực tiễn; khiêm hạ đủ để tha thứ, những con người này đã can đảm nắm lấy
giấc mơ vốn là quyền lợi của họ”.
Vị Giáo Hoàng người Đức tại đài kỷ niệm
Diệt Chủng
Linh mục Caesar Atuire, quản trị viên đặc
nhiệm của Opera Romana Pellegrinaggi, một định chế của Vatican nhằm phúc âm hóa
bằng du lịch, người tháp tùng Đức Bênêđíctô XVI trong chuyến tông du lần này,
nhận xét rằng việc đức Thánh Cha tới viếng đài kỷ niệm Diệt Chủng Yad Vashem
tại Giêrusalem là một sứ điệp rất mạnh cho toàn thể Giáo Hội.
Cha cho rằng việc chọn Yad Vashem như là
một trong các điểm đến thăm đầu tiên ở Do Thái là một động thái can đảm. Trong
một bài diễn văn cảm động tập chú vào tầm quan trọng của một cái tên, Đức Thánh
Cha nói tại đài tưởng niệm này như sau: “Nhìn các khuôn mặt phản chiếu trong hồ
nước đang êm đềm tĩnh lặng tọa lạc trong khuôn viên đài tưởng niệm này, người
ta không khỏi nhớ tới việc mỗi người trong số họ đều mang một cái tên. Tôi chỉ
có thể tưởng tượng ra nỗi chờ mong đầy hân hoan của cha mẹ họ lúc các ngài lo
lắng chờ đợi con cái mình sinh ra. Mình sẽ cho đứa con này cái tên nào đây? Nó
sẽ ra sao ngày sau? Không ai có thể tưởng tượng được chuyện chúng lại bị kết
tội phải chịu một số mạng đáng trách đến thế!”
Cha Atuire nghĩ rằng lời lẽ của Đức Thánh
Cha không phải chỉ là những suy tư cá nhân của ngài mà là những lời của người
đứng đầu Giáo Hội. “Giáo Hội Công Giáo bác bỏ tất cả những gì là bạo lực và tôi
nghĩ rằng: vào thời điểm Đức Giáo Hoàng thăm viếng xứ sở này, quả là thích hợp
để khẳng định rằng tất cả chúng ta đều có sứ mệnh được Đức Thánh Cha trình bày
trong bài diễn văn của ngài, là làm việc để những thảm kịch này không xẩy ra
nữa trong lịch sử nhân loại”.
Mặt khác, theo cha Atuire, “Đức Giáo Hoàng
là người Đức, một quốc gia mà người tổ chức ra Nạn Diệt Chủng, tức nhóm Quốc
Xã, vốn thuộc về”. Điều này càng làm tăng ‘trọng lượng’ cho sứ điệp của ngài
cũng như cuộc hành hương của ngài tới Đất Thánh.
Lời lẽ của ngài càng hùng hồn hơn khi ngài
cho biết: “chúng ta không muốn những việc này được lặp lại, và khi đã giáp mặt
với tính hãi hùng của những gì xẩy ra, chúng ta cần phải học cách làm mọi sự có
thể làm được để thế giới này trở thành một thế giới tốt hơn”.
Tôn giáo không thể là nguồn gây chia rẽ
Trong buổi gặp gỡ đại diện các tổ chức đối
thoại liên tôn tại Đất Thánh vào hôm nay, 11 tháng Năm, Đức Giáo Hoàng khẳng
định rằng cần phải tôn trọng các dị biệt tôn giáo và cổ vũ những gì kết hợp
chúng ta.
Cuộc gặp gỡ trên diễn ra tại hội trường
Trung Tâm Viện Giáo Hoàng Đức Bà Giêrusalem do Đức GH Gioan Phaoloô II thiết
lập, dành cho các chương trình tôn giáo, văn hóa, bác ái và giáo dục. Trước các
đại diện Kitô Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo, Druze và Samaria, Đức Giáo Hoàng
đọc một bài diễn văn bằng tiếng Anh và ghi nhận rằng: “một số người khiến chúng
ta tin rằng các dị biệt của chúng ta tất yếu là nguyên nhân gây chia rẽ và do
đó cùng lắm chỉ nên khoan dung”.
Ngài nói tiếp: “Một ít người còn chủ trương
rằng tiếng nói của chúng ta cần bị giập tắt. Nhưng chúng ta biết rằng các dị
biệt của chúng ta không bao giờ được trình bày sai lạc như là nguyên nhân tất
yếu của va chạm hay căng thẳng giữa chúng ta cũng như trong xã hội nói chung”. “Đúng
hơn, các dị biệt ấy phải đem lại cơ hội tốt đẹp để người của các tôn giáo khác
nhau có thể sống với nhau trong sự tôn trọng, qúi mến và đánh giá lẫn nhau một
cách sâu sắc, khích lệ lẫn nhau trong đường lối Thiên Chúa”.
Đức GH khuyến khích các người tham dự cuộc
gặp gỡ “hãy can đảm tiến lên, tôn trọng mọi điều dị biệt chúng ta và cổ vũ mọi
điều kết hợp chúng ta trong tư cách các tạo vật được chúc phúc bằng ý nguyện
đem hòa bình lại cho các cộng đồng của chúng ta và cho toàn hế giới”.
Biến cố không hay
Sau bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng, Giáo
Sĩ Hồi Giáo Taysir Tamimi, thẩm phán tối cao của Các Tòa Án Hồi Giáo tại
Giêrusalem, đăng đàn diễn thuyết mặc dù ông không có trong chương trình chính
thức, và phát động một cuốc tấn công bằng lời chống Do Thái bằng tiếng Ả Rập.
Trong khi ông đang nói, giữa sự ngỡ ngàng
của mọi người, thì hai người theo Do Thái Giáo rời ghế ngồi của mình. Đức
Thượng Phụ Latinh của Giêrusalem là Tổng Giám Mục Fouad Twal, tiến lên để ngăn
cản vị giáo sĩ Hồi Giáo trên. Đức Giáo Hoàng, vì không hiểu tiếng Ả Rập, nên
không rõ điều vị giáo sĩ này phát biểu.
Sau biến cố này, Cha Federico Lombardi, giám
đốc báo chí của Tòa Thánh, đã phân phối một bản tuyên bố cho rằng lời phát biểu
của vị giáo sĩ Hồi Giáo kia “không được các nhà tổ chức cuộc gặp gỡ dự trù”.
Cha cho hay: “Trong một cuộc gặp gỡ dành cho việc đối thoại, việc can thiệp như
thế quả đã trực tiếp bác bỏ nội dung phải có của đối thoại. Chúng tôi hy vọng
rằng một biến cố như thế sẽ không phá hoại được sứ mệnh của Đức Giáo Hoàng nhằm
cổ vũ hòa bình và cả đối thoại liên tôn, như ngài đã khẳng định rõ ràng nhiều
lần trong chuyến hành hương lần này”. Cha hy vọng: biến cố trên sẽ không làm
trở ngại cuộc đối thoại liên tôn tại Đất Thánh.
Nhận định trên Bản Tin CBS
Linh mục Thomas D. Williams, thuộc Đạo Binh
Chúa Kitô (www.thomasdwilliams.com), một nhà thần học Mỹ sống tại Rôma, có cung
cấp một bài bình luận về chuyến đi của Đức Giáo Hoàng tới Đất Thánh, trên bản
tin CBS.
Theo Cha, trong những ngày qua, nhiều người
chỉ lưu ý tới điều Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nói hay viết khi một ngôn từ hay
một hành động nào đó của ngài khiến người ta không hài lòng hay khiến giới
truyền thống tò mò chú ý. Dĩ nhiên, thái độ ấy dẫn tới lối nhìn một chiều và
đầy tiêu cực về đường lối của Đức Bênêđíctô trong ngôi vị Giáo Hoàng. Bởi thế,
hầu như mọi người chỉ biết câu ngài trích dẫn năm 2006 trong bài diễn văn tại
Regensburg, Đức Quốc, đã làm phật lòng người Hồi Giáo, và việc ngài tha vạ
tuyệt thông cho bốn vị giám mục lạc giáo, mà một trong số họ đã bác bỏ Nạn Diệt
Chủng, chứ ít ai chịu đọc các thông điệp của ngài về tình yêu và lòng hy vọng,
hay nghe bài diễn văn của ngài về Thánh Phaolô và các giáo phụ đầu hết của Giáo
Hội.
Cha Williams nói rằng: “Hôm qua, Đức
Bênêđíctô cử hành Thánh Lễ ngoài trời tại Vận Động Trường Quốc Tế tại Amman.
Tại nơi đó, một viên kim cương như thế lại đã không được giới truyền thông lưu
ý. Tại một xứ sở đại đa số theo Hồi Giáo, Đức Bênêđíctô đã chọn để đưa ra một
suy tư khá dài về phẩm giá người phụ nữ, bằng cách nhắc tới “đặc sủng tiên tri”
của họ và đề cao họ là “người ấp ủ lòng yêu thương, thày dạy lòng nhân từ và là
người kiến tạo hòa bình”. Theo ngài, nhờ làm chứng công khai cho việc tôn trọng
phụ nữ, Giáo Hội tại Đất Thánh sẽ đóng góp đáng kể vào việc thăng tiến nền văn
hóa có nhân tính thực sự và xây dựng được nền văn minh tình yêu.
Rồi vừa tới Do Thái vào sáng hôm nay, 11
tháng Năm, Đức GH không để mất thời gian, đã phá tan ngay dư vị hoài nghi cuối
cùng đối với chủ trương của ngài về nạn Diệt Chủng. Thực thế, ngay tại phi
trường Tel Aviv, ngài đã nói như sau: “Trong thời gian tôi lưu lại Do Thái,
thật là đúng đắn và thích hợp khi được dịp vinh danh ký ức về sáu triệu nạn
nhân Do Thái trong biến cố Diệt Chủng, và để cầu xin cho thế giới khỏi phải
chứng kiến một lần nữa cái tội ác lớn lao cỡ ấy. Buồn thay, chủ nghĩa bài Do
Thái vẫn tiếp tục ngoi cái đầu xấu xa lên ở nhiều nơi trên thế giới. Điều ấy
hoàn toàn không thể chấp nhận được. Mọi cố gắng phải được đưa ra để đánh bại
chủ nghĩa bài Do Thái ở bất cứ nơi nào nó hiện diện, và để cổ vũ lòng kính
trọng và quí mến đối với thành viên mọi dân tộc, mọi bộ tộc, mọi ngôn ngữ và
mọi quốc gia khắp mặt địa cầu”.
Cha Williams hy vọng rằng thiện chí hiển
nhiên của Đức Giáo Hoàng trong mặt trận chống trả chủ nghĩa bài Do Thái sẽ nhận
được thiện chí hỗ tương từ những người nghe ngài. Việc ngài sau đó tới thăm đài
tưởng niệm Yad Vashem lại là một minh xác khác cho thấy cam kết của ngài đối
với việc đẩy mạnh các mối liên hệ Do Thái và Kitô Giáo, cũng như một chủ trương
thống nhất nhằm bảo vệ nhân quyền.
Sau hai biến cố trên, Cha Williams cho hay:
ngài có nói truyện với một số người Do Thái ở ngoài phố, đại đa số hài lòng với
chủ trương và đường lối của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô. Duy có một người cho cha
hay: Đức Giáo Hoàng nên dùng từ “sát nhân” chứ không phải chỉ là “giết” để nói
về trường hợp 6 triệu nạn nhân Diệt Chủng nói trên.
Theo cha Williams, cho đến nay, Đức Giáo
Hoàng không những không tránh né vấn đề nào trong các sinh hoạt của ngài tại
Đất Thánh; trái lại còn tích cực theo đuổi một con đường cao hơn, tức thách
thức các thính giả của mình bước vào hòa bình, công lý, đối thoại và tôn trọng
lẫn nhau.
Lời đầu tiên trên đất Do Thái là lên án
chủ nghĩa bài Do Thái
Việc Thủ Tướng Benjamin Netanyahu cũng có
mặt trong buổi nghênh đón Đức Giáo Hoàng tại phi trường Tel Aviv là một dấu chỉ
có ý nghĩa cho thấy lòng kính trọng của ông đối với Đức Giáo Hoàng, vì việc
nghênh đón này, theo truyền thống, chỉ cần có vị nguyên thủ quốc gia là Tổng
Thống Simon Peres.
Đức Giáo Hoàng được hàng danh dự quân sự
dàn chào trong khi quốc ca của Vatican và Do Thái được cử vang. Trong bài diễn
văn bằng tiếng Anh, Đức Thánh Cha nói rằng: “Tòa Thánh và quốc gia Do Thái có
chung nhiều giá trị, mà trên hết là cam kết dành cho tôn giáo chỗ đứng đúng đắn
trong đời sống xã hội”.
Ngài nói tiếp: “Việc sắp xếp đúng đắn các
liên hệ xã hội giả thiết và đòi phải có sự tôn trọng tự do và phẩm giá của mọi
hữu thể nhân bản, những người mà người Kitô Giáo, người Hồi Giáo và người Do
Thái Giáo đều tin là đã được Thiên Chúa đầy yêu thương tác tạo nên và dự tính
cho hưởng cuộc sống vĩnh cửu. Khi chiều kích tôn giáo của con người nhân bản bị
bác khước hay bị đẩy ra bên lề, thì chính nền tảng để hiểu đúng đắn các nhân
quyền bất khả nhượng sẽ bị đặt vào thế lâm nguy. Thảm họa thay, dân tộc Do Thái
đã phải kinh qua các hậu quả khủng khiếp của các ý thức hệ vốn bác khước chính
phẩm giá nền tảng của mọi con người nhân bản”.
Sau khi vinh danh 6 triệu nạn nhân Do Thái
của nạn Diệt Chủng, Đức Giáo Hoàng nói thêm: “Ước chi các lời sau đây của tiên
tri Isaia nên trọn: nhiều dân tộc sẽ xuôi về núi thánh nhà Chúa, để Người dạy
dỗ họ đường lối của Người, để họ đi trong đường lối của Người, đường lối hòa
bình và công lý, đường lối dẫn tới hòa giải và hoà hợp”
Sứ mệnh hoà bình
Trong bài diễn văn nghênh đón Đức GH tại
Phi Trường Tel Aviv, sau khi gọi chuyến đi của ngài là “sứ mệnh hòa bình”, Tổng
Thống Do Thái, Simon Peres, đã nói như sau: “Tôi đánh giá cao các chủ trương và
hành động của ngài trong việc hạ bệ mức độ bạo lực và hận thù trên thế giới.
Tôi chắc chắn rằng điều ấy sẽ được tiếp tục trong cuộc đối thoại giữa Do Thái
Giáo và Kitô Giáo trong tinh thần tiên tri. Tôi vinh danh các cố gắng của ngài
trong việc nuôi sống người đói ăn và giải cơn khát của con người đối với niềm
tin vào con người và vào Đấng Tạo Hóa của vũ trụ”.
Ông nói thêm: “Xứ sở chúng tôi nghèo tài
nguyên, nhưng giầu đức tin. Xứ sở chúng tôi nửa là hoang địa, nhưng đã xây dựng
được một nền thương mại phồn thịnh nhờ sức mạnh của vốn liếng nhân bản, và một
xã hội biết tìm công lý cho mọi trẻ em sinh ra”. Ông thưa với Đức GH rằng: “Cuộc
viếng thăm của ngài tại đây đem đến một hiểu biết đầy phúc đức giữa các tôn
giáo và gieo rắc hòa bình khắp nơi nơi. Do Thái lịch sử và Do Thái canh tân
thẩy đều cùng nhau chào mừng việc ngài tới đây như là để dọn con đường vĩ đại
dẫn tới hòa bình từ thành phố này tới thành phố nọ”.
Tại Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Diệt Chủng
Từ phi trường Tel Aviv, Đức GH dùng trực
thăng bay tới Giêrusalem, nơi ngài được thị trưởng Nir Barkat nghênh đón. Sau
đó, ngài về tòa Đại Diện Tòa Thánh để dùng bữa trưa, rồi tới Yad Vashem, đài
tưởng niệm các nạn nhân của Diệt Chủng, đốt lên ngọn lửa tưởng niệm và đặt vòng
hoa vàng trắng tại đó.
Ngài vinh danh các nạn nhân, và cho hay: họ
sẽ được tưởng nhớ bởi “mọi người nhất quyết không bao giờ cho phép một sự tàn
bạo như thế làm ô nhục một lần nữa toàn bộ nhân loại”. Đức GH, sau đó, gặp gỡ
một số người sống sót của nạn Diệt Chủng trong một buổi lễ long trọng có sự
tham dự của Tổng Thống Peres và chủ tịch quốc hội Reuven Rivlin. Đức Giáo Hoàng
phát biểu tại buổi lễ này rằng: “Ước chi nỗi thống khổ của họ không bao giờ bị
bác khước, hạ giá hay lãng quên! Và ước chi mọi người thiện chí tỉnh táo trong
việc nhổ tận gốc khỏi trái tim con người bất cứ điều gì có thể dẫn tới những
thảm kịch như thế này”.
Giáo Hội chống lại sự thống trị của hận
thù
Cũng tại Yad Vashem, Đức GH nói rằng “Họ
(các nạn nhân) mất mạng sống, nhưng không bao giờ mất tên: tên tuổi họ được
khắc ghi mãi mãi trong trái tim người thân yêu, các bạn đồng tù sống sót, và
mọi người nhất quyết không bao giờ để cho một tàn bạo như thế này làm ô nhục
nhân loại một lần nữa. Trên hết, tên tuổi họ đời đời được định vị trong trí nhớ
Thiên Chúa Toàn Năng”.
Trong nghi lễ sau đó với các người sống sót
nạn Diệt Chủng, Đức Giáo Hoàng nói rằng: Giáo Hội cảm thương sâu xa đối với các
nạn nhân được tưởng nhớ tại đây. Và Giáo hội cũng xích lại thật gần tất cả
những ai ngày nay đang chịu bách hại vì nòi giống, mầu da, điều kiện sống hay
tôn giáo. Thống khổ của họ là thống khổ của Giáo Hội, và thống khổ của Giáo Hội
là hy vọng công lý của họ. “Trong tư cách Giám Mục Rôma và là người kế nhiệm
Tông Đồ Phêrô, giống các vị tiền nhiệm của mình, tôi xin tái khẳng định rằng
Giáo Hội cam kết dấn thân vào việc cầu nguyện và không mệt mỏi làm việc để bảo
đảm rằng hận thù sẽ không còn thống trị trong trái tim con người nữa. Vì Thiên
Chúa của Abraham, của Isaac và của Jacob vốn là Thiên Chúa của hòa bình”.
Vũ Văn An
Nguồn Vietcatholic.net