HAI GIÁM MỤC VIỆT NAM LÀ BIỂU TƯỢNG CÁC HIỀN SĨ ĐẾN TỪ PHƯƠNG ĐÔNG
Ngày 7-8-1683, nguyện đường Hội Thừa sai Paris được đặt
tên là Épiphanie (Hiển linh), vừa là bổn mạng các cha thừa sai, lại vừa nói lên
định hướng truyền giáo tại phương Đông.
Chủ nhật 3-1-2010, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ
tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam và Đức Cha Giuse Võ Đức Minh, Phó Tổng thư ký
Hội đồng Giám mục Việt Nam là hai hiền sĩ phương Đông, sứ giả của Giáo hội Việt
Nam cùng với Linh mục Jean-Baptiste Etcharren, Bề trên tổng quyền Hội Thừa Sai
Paris, là vị đạo sĩ thứ ba. Cha Etcharren gốc xứ Basque (Euskal Herria) ở miền
tây dãy núi Pyrénées, từng sống ở Việt Nam trong suốt 18 năm. Ngài thông thạo
tiếng Việt, từng là cha sở Đông Hà (Quảng Trị), một họ đạo cách cố đô Huế 66
km, nằm ở giao điểm quốc lộ 1A và quốc lộ 3. Ba vị đạo sĩ, hai vị giám mục đến
từ phương Đông và một linh mục có tâm hồn phương Đông, đã cử hành lễ Hiển linh
cùng với trên 100 linh mục Pháp và châu Á hiện tu học tại Đại học Công giáo
Paris, với sự bảo trợ của Hội Thừa sai Paris : 50 linh mục Việt Nam tu học tại
Đại học Công giáo Paris, 13 linh mục Việt Nam học tại Đại học Công giáo
Toulouse, 18 linh mục Ấn Độ, 9 linh mục Đại Hàn, 6 linh mục Trung Quốc, 7 linh
mục Indonexia (nước có nhiều tín đồ Hồi giáo nhất thế giới), Myamar (Miến Điện)
: 2, Nhật Bản : 1, Kampuchia : 1 và Bangla Desh : 1.
Đức Ông Giuse Mai Đức Vinh, Giám đốc Giáo Xứ Việt Nam và
Linh mục Thi sĩ Cung Chi cùng hiệp dâng Thánh lễ.
Hành trình tiến về Thành thánh Giêrusalem
Năm 1851, Charles Gounod đã sáng tác Ca khúc lên đường
của các vị Thừa sai (Chant pour le départ des Missionnaires) và Ca khúc
truy niệm các vị Tử đạo (Chant pour l’anniversaire des Martyrs). Các nốt
nhạc hào hùng của hai bản trường ca đã trở thành lời chào mừng đầy ý nghĩa mà
linh mục Etcharren đã tuyên đọc bằng tiếng Pháp, chúng tôi xin chuyển ngữ như
sau :
‘‘Tiên tri Isaïa trình thuật cuộc hành trình của các
dân tộc tiến về Giêrusalem : ‘‘ Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập
hợp, kéo đến với người : con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm
bên hông’’.
Thưa quý thân hữu, chúng ta là thiện nam tín nữ tiến về
Thiên Chúa vinh quang, vì thế hôm nay chúng ta tạm dừng chân trong nguyện đường
Hiển linh này. Chúng tôi nhiệt liệt hoan nghênh toàn thể quý vị.
Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa về thời điểm ân phúc này, chúng
ta được mời gọi dừng chân, bước vào lễ hội bằng cách nhìn quanh ta : thật là
vui sướng dường bao khi nhận ra quanh ta những khuôn mặt con cái nam nữ của
Thiên Chúa đồng hành với chúng tôi. Chắc hẳn tập họp này hãy còn khiêm tốn,
nhưng hết sức đa dạng, biểu hiện được cuộc hành trình của các dân tộc tiến về
thành thánh Jérusalem cửu trùng.
Năm nay, hình ảnh tập họp của chúng tôi đặc biệt huy
hoàng nhờ sự hiện diện của hai vị giám mục ở giữa chúng ta, đến từ phương Đông,
là nước Việt xa xôi. Các ngài đặc biệt đến đây để cử hành lễ Hiển linh. Chúng
tôi hân hoan giới thiệu Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, giám mục giáo phận Đà
Lạt, chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam . Ngài sẽ chủ lễ và giảng thuyết trong
lễ Hiển linh này.
Bên cạnh ngài là Đức Cha Giuse Võ Đức Minh, giám mục giáo
phận Nha Trang, Phó Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Viêt Nam . Trong số các nhiệm
vụ của ngài trong Hội đồng Giám mục Việt Nam, ngài đặc trách liên lạc với Hội
Thừa sai Paris với lòng nhiệt thành về án phong chân phước và phong thánh cho
Đức Cha Pierre Lambert de la Motte và Đức Cha François Pallu là các đại diện
tông tòa đầu tiên ở Việt Nam và vài tỉnh Hoa Nam vào năm 1659. Chúng tôi coi cả
hai vị là các nhà sáng lập Hội Thừa sai Paris .
Thưa quý Đức Cha, chúng tôi cám ơn quý ngài đã nhiệt
thành đáp lời mời của chúng tôi một cách tự phát, mặc dù công việc đa đoan và
phải xử lý nhiều tình huống đôi khi là tế nhị.
Thiết tường chúng tôi nên nhường lời để Đức Cha nói lên
những tình cảm đã thúc đẩy quý ngài đến cử hành lễ Hiển linh này. Về phần chúng
tôi, chúng tôi xin thông báo sự hiệp thông nhiệt thành của chúng tôi đối với
Giáo hội Việt Nam trong Năm Thánh mà quý ngài vừa khai mạc, tạ ơn Thiên Chúa về
việc thành lập hai phủ đại diện tông tòa đầu tiên cách đây 350 năm và việc
chính thức thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam cách đây 50 năm. Quý ngài đã vui
lòng mời chúng tôi đến dự lễ khai mạc Năm Thánh ngày 24-11 vừa qua tại Sở Kiện,
thuộc tổng giáo phận Hà Nội. Thật khó mà diễn tả sự xúc động của chúng tôi
trước một rừng 100 000 tín hữu thành tâm cầu nguyện, nhưng ít ra tôi có thể
đoan chắc rằng tôi cảm thấy vui hơn bao giờ hết được làm linh mục của Hội thánh
Công giáo Tông truyền, và là thành viên của Hội Thừa sai Paris.’’
Quan hệ giữa Hội Thừa sai Paris và Giáo hội Việt Nam
Trong đáp từ bằng tiếng Pháp, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn
Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, đã nhắc lại lịch sử 350 năm truyền
giáo của Hội Thừa sai Paris trên đất nước Việt Nam mà hoa trái ngày nay được
thể hiện qua Năm Thánh 2010 trên khắp ba miền đất nước. Chúng tôi xin chuyển
ngữ toàn văn diễn từ của Đức Cha Nguyễn Văn Nhơn như sau :
‘‘Trọng kính Cha Bề trên Tổng quyền, quý Cha, quý Anh
Chị Em trong Đức Kitô,
Đối với Đức Cha Giuse và chúng tôi, thật là niềm vui vô
hạn và hạnh phúc đặc biệt được hiện diện ở đây cùng quý vị, trong thời điểm tạ
ơn, cử hành lễ Hiển linh là bổn mạng Hội Thừa sai Paris năm 2010. Trước hết,
chúng tôi muốn làm tròn nhiệm vụ cao quý của chúng tôi là chuyển đến Cha Bề
trên lời chào huynh đệ của tất cả giám mục và cộng đoàn dân Chúa ở Việt Nam,
với lời chúc Năm Mới ân phúc vừa khởi đầu. Thánh lễ Tạ ơn mà Cha Bề trên Tổng
quyền khả kính đã yêu cầu tôi chủ lễ lại càng có ý nghĩa, vì quý Cha vừa cử
hành vào năm 2008 đại lễ kỷ niệm 350 năm thành lập Hội Thừa Sai Paris vào năm
1658. Năm toàn xá bế mạc vào lễ Hiển linh 2009 trước Năm Thánh của chúng tôi kỷ
niệm 350 năm thành lập vào năm 1659 hai đại diện tông tòa đầu tiên tại miền Bắc
và miền Nam ; việc thành lập Giáo hội Việt Nam từ khởi nguyên đã được trao cho
Hội Thừa sai Paris, và 50 năm thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam vào năm 1960.
Hai lễ kỷ niệm đã được khai mạc trọng thể ngày 24-11-2009 tại Sở Kiện, thuộc
Tổng giáo phận Hà Nội, đạt cao điểm với Đại hội Dân Chúa vào tháng 11-2010 tại
Saigon thuộc tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh và sẽ bế mạc tại Trung tâm
Thánh mẫu La Vang thuộc Tổng Giáo phận Huế vào lễ Hiển linh năm 2011. Các lễ
kính tại Pháp và tại Việt Nam nhắc nhở một cách sống động quan hệ liên đới đã
được tạo dựng từ hơn ba thế kỷ giữa Hội Thừa sai Paris và Giáo hội chúng tôi,
sự hiệp thông được bắt đầu một cách cụ thể với trọng trách của Đức Cha François
Pallu và Đức Cha Pierre Lambert de la Motte, vừa là sáng lập viên Hội Thừa sai
Paris, đồng thời là các các chủ chăn tiên khởi của Giáo hội Việt Nam. Các ngài
đã để lại dấu ấn sâu đậm, dấu ấn của Đức Cha François Pallu được cảm nhận trực
tiếp về phần Hội Thừa sai Paris, và dấu ấn của Đức Cha Lambert de la Motte được
Giáo hội Việt Nam trực cảm. Nhiệm vụ của hai vị bổ sung và không thể tách biệt
nhau. Các ngài là các nhà đồng sáng lập Hội Thừa sai Paris cũng như Giáo hội
nước Việt. Chính vì vậy, Hội Thừa sai Paris và Hội đồng Giám mục Việt Nam đồng
ý là đồng tác giả, cùng ký tên vào thỉnh nguyện chung xin phong chân phước và
phong thánh cho hai vị thừa sai có công, hai nhà khai sáng và là giáo phụ trong
đức tin. Chúng tôi hy vọng rằng án chung tuyên phong chân phước và phong thánh
lại càng tăng cường hơn nữa quan hệ liên đới vốn có giữa Hội Thừa sai Paris và
Giáo hội Việt Nam . Chúng ta cùng cầu nguyện để án phong thánh chung này được
Thiên Chúa ban ơn và mang lại kết quả mỹ mãn, vinh danh Chúa Ba Ngôi, đồng thời
cổ vũ toàn thể dân Chúa ở Việt Nam làm chứng một cách xác tín đầy thuyết phục
rằng Tin Mừng có trong tâm khảm các bậc giáo phụ trong đức tin và cũng để duy
trì nhiệt tình truyền giáo của Hội Thừa sai Paris theo đường lối của các nhà
sáng lập.
Chính trong ý nguyện đó, chúng ta bắt đầu cử hành phụng
vụ Thánh thể và xin Chúa thứ tha mọi lỗi lầm của chúng ta.’’
Ánh sáng từ phương Đông (Lux ex Oriente)
Sau khi công bố Tin Mừng, Đức Cha Chủ tịch đã giảng bằng
tiếng Pháp. Ngài nhắc lại ý nghĩa của lễ Hiển linh :
‘‘Hôm nay, trong ngày lễ Hiển linh, ánh sáng đích thực
thế gian soi sáng các nhận vật đến từ các đất nước xa xôi. Đó là các đạo sĩ
phương Đông (Mt 2,1). Nói đúng ra, Bê Lem nằm ở phương đông Athènes và Roma là
các trung tâm văn minh Âu châu cổ đại, nhất là đế quốc La Mã thời bấy giờ được
coi là trung tâm của thế giới đã biết. Vậy mà ánh sáng xuất hiện từ một thành
phố xa lạ ở Palestine, gởi đi một thông điệp nhiệm mầu, qua ánh sáng mờ của vì
sao nhưng không kém nhiệm mầu, từ phương Đông xa xôi mà không phải là phương
Tây. Đó chính là mầu nhiệm ánh sáng từ phương Đông (lux ex Oriente) Các nhà đạo
sĩ phương Đông xa xôi là những người đi tìm Chúa quan sát ‘‘cảnh sắc bầu trời
và những dấu chỉ thời gian’’ (Mt 16,3), lên đường đi về hướng Tây so với nước
họ, và họ đã gặp Chúa Kitô là Vua dân Do Thái, ở miền Cận Đông.’’
Sau đó, Đức Cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam nhắc
lại nhận định của Đức Gioan-Phaolô II : ‘‘Chúa Kitô Cứu thế nhập thể là người
châu Á’’. Ngài nói :
‘‘Còn một mầu nhiệm khác trong thời kỳ phúc âm hóa đầu
tiên trực chỉ phương Tây, vì Tin Mừng được truyền bá từ Bê Lem là trung tâm của
miền Cận Đông, nơi phát sinh ánh sáng thế gian, đến tận đế quốc Roma vốn là
trung tâm thế giới được biết đến vào thời đại Chúa Kitô và Giáo hội sơ khai.
Cận Đông, Trung Đông và Viễn Đông tạo thành toàn bộ phương Đông. Theo Đức
Gioan-Phaolô II ‘‘Chúa Kitô Cứu thế nhập thể là người châu Á (Ecclesia in Asia,
1999)’’.
Nhiệm vụ truyền giáo tại châu Á
Trong phần kế tiếp, Đức Cha Chủ tịch đã nói về nhiệm vụ
gieo hạt giống phúc âm trên đồng ruộng châu Á như sau :
‘‘Nhiệm vụ gieo hạt giống phúc âm trên dải đất Á châu
thuộc về Giáo hội hoàn vũ. Nhưng công bằng mà nói, các Giáo hội công giáo Tây
phương được hưởng việc phúc âm hóa ngày từ thiên niên kỷ ki tô giáo đầu tiên ;
vào thiên niên kỷ thứ hai đã gởi nhiều vị thừa sai sang châu Á để làm chứng Đức
Kitô và Phúc âm của ngài, theo Đức Gioan-Phaolô II và Đức Bênêdictô XVI, chứng
từ này là một công trình cao trọng mà Giáo hội có thể mang lại cho đất nước
Việt Nam và cho các dân tộc Á châu khác, đáp ứng được sự tìm kiếm sâu xa chân
lý và những giá trị bảo đảm cho sự phát triển toàn diện con người. Chính nhờ
các vị thừa sai dòng Tên được sự đỡ đầu của Bồ Đào Nha vào thế kỷ XVII đã mở ra
những cộng đoàn kitô hữu ở hai miền Nam - Bắc, đồng thời góp phần lâu dài trong
lãnh vực hội nhập văn hóa, như thể chế giáo lý viên, việc sáng lập chữ quốc ngữ
trên cơ sở mẫu tự la tinh, việc biên soạn các sách giáo lý đầu tiên bằng chữ
quốc ngữ. Sau đó, các vị thừa sai người Pháp của Hội Thừa sai Paris đã được Tòa
Thánh gởi sang Việt Nam để tiếp nối công trình của các linh mục dòng Tên từ
1659, năm thành lập hai đại diện tông tòa tại miền Nam và miền Bắc. Tòa thánh
bổ nhiệm các vị chủ chăn đầu tiên là Đức Cha Pierre Lambert de la Motte và Đức
Cha François Pallu. Hai vị thừa sai quan trọng này đồng thời là các nhà sáng
lập Hội Thừa sai Paris . Sau thời điểm này, các vị thừa sai châu Âu khác, đặc
biệt là các cha dòng Đa Minh và dòng Phanxicô thuộc nhiều quốc tịch khác nhau
đến Việt Nam góp phần vào việc phúc âm hóa. Sau thời gian bách hại đẫm máu kéo
dài đến đầu thế kỷ XX, có thêm nhiều đợt các vị thừa sai châu Âu, nhất là các
tu sĩ nam nữ đồng hành với cộng đoàn dân Chúa được tôi luyện trong thử thách.
Nổi bật trong các công trình tốt đẹp này, Hội Thừa sai Paris đã mang lại nhiều
đóng góp quan trọng trong việc phúc âm hóa đất nước chúng tôi. Vì vậy, Hội Thừa
sai có công, qua Đức Cha Lambert de la Motte, và được sự tiếp sức của người bạn
đồng chí hướng là Đức Cha François Pallu, đã tổ chức được các cộng đoàn kitô
hữu son trẻ ở Việt Nam do các cha dòng Tên thành lập, trở thành một Giáo hội có
cấu trúc, do các giám mục kế thừa các thánh tông đồ, cộng tác hài hòa với hàng
giáo sĩ người Pháp, Giáo hội Việt Nam vào giai đoạn này gồm các vị thừa sai
châu Âu và các linh mục Việt Nam, luôn được các giáo lý viên đào tạo trong các
chủng viện không chính thức phụ giúp và một đội ngũ chức sắc giáo dân, được gọi
là các quý chức của họ đạo, âm thầm và tự nguyện phục vụ cộng đoàn giáo hội, và
các nữ tu tận hiên thuộc tu hội ‘‘Mến Thánh giá’’, do Đức Cha Lambert de la
Motte sáng lập năm 1670, không chỉ dấn thân trong các công tác mục vụ của giáo
xứ, nhưng cả các hoạt động truyền giáo khác đến với muôn dân (ad gentes), nhất
là trong lãnh vực giáo dục và từ thiện.
Công lao lớn nhất của Hội Thừa sai Paris là đã thành
công, theo mục tiêu chính, đào tạo hàng giáo sĩ địa phương, cùng với các vị
thừa sai người Âu, có thể đảm đương gánh nặng mục vụ và truyền giáo của một
Giáo hội ngụp ngập suốt ba thế kỷ trong các cuộc bách hại đẫm máu với hàng trăm
ngàn người được phúc tử đạo. Trong số này có 117 vị đã được nâng lên hàng hiển
thánh năm 1988, một thày giảng trẻ đươc phong chân phước năm 2000. Trong danh
sách này có hai giám mục, tám linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris . Trong số 126
giạm mục châu Âu từng lãnh trọng trách chủ chăn ở Việt Nam, có 76 vị (chiếm tỷ
lệ 6/10) thuộc Hội Thừa sai Paris. Trong số 4 500 vị thừa sai được gửi sang Á
châu trong dòng lịch sử 350 năm có 956 vị, chiếm tỷ lệ hơn 1/5, đã cống hiến sự
gian khổ, nhiều khi là hy sinh cả tính mạng để kiến tạo Giáo hội Đức Kitô ở
Việt Nam. Chỉ riêng con số này đủ nói lên sự hiệp thông đặc biệt cùng chung
định mệnh giữa Hội Thừa sai Paris và Giáo hội Việt Nam .
Nhân khai mạc trọng thể Năm Toàn xá ngày 24-11-2009 vào
lễ các Thánh Tử đạo Việt Nam, nhân danh Hội đồng Giám mục và cộng đoàn dân
Chúa, chúng tôi đã bày tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với các vị thừa sai người Âu
đã dự phần vào việc hình thành và phát triển Giáo hội son trẻ đầy sức sống năng
động. Chúng tôi cũng đã vinh dự có sự hiện diện của Đức Hồng Y André
Vingt-Trois, Tổng Giám mục Paris đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp,
Linh mục bề trên Tổng quyền Hội Thừa sai Paris . Tôi muốn lặp lại ở đây, trong
Nhà Mẹ vào lễ bổn mạng của Hội, lòng biết ơn chân thành của về sự đóng góp
không thay thế được mà Giáo hội Pháp mang lại, nhất là sự liên đới huynh đệ và
sự hiệp thông định mệnh mà Hội Thừa sai đã chứng tỏ đối với Giáo hội son trẻ
chúng tôi. Tình liên đới này còn được tiếp nối trong tình cảm thân thiết.’’
Tương lai tôn giáo ở châu Á
Trong phần kết luận Đức Cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục
Việt Nam đã nói đến toàn cảnh truyền giáo tại Á châu và tại Việt Nam trong
những ngày sắp tới.
‘‘Để kết thúc, chúng tôi muốn chia sẻ cái nhìn tiên
tri của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II về tương lai tôn giáo ở châu Á. Tôi đoan
chắc rằng không có bao nhiêu người thực sự là vô thần trong lục địa rộng lớn
này, bởi vì châu Á là cái nôi của những tôn giáo lớn trên thế giới ; và các dân
tộc châu Á từ ngàn xưa luôn có lòng mộ đạo. Họ là các dân tộc đi tìm Chúa, đi
tìm một ý nghĩa, vì vậy tương hợp hầu như là bẩm sinh với linh đạo trở nên
những người ‘‘Nghèo khó của Chúa’’, mặc dù ngày nay quyết định dấn thân theo
đường lối phát triển kinh tế để xóa đói giảm nghèo. Đặc tính tôn giáo tự nhiên
đi đôi với sự nhạy cảm về các giá trị thiêng liêng, có thể được coi là ‘‘tiền
đề phúc âm’’. Tuy nhiên, thách đố lớn nhất đối với chúng tôi chủ yếu là khuynh
hướng tự nhiên của người châu Á dễ theo gương lành hơn là các lý luận trừu
tượng, vì vậy các người rao giảng phúc âm và giảng đạo xuất hiện không như các
bậc thầy, mà như người chứng, hoặc hơn nữa là các bậc thầy nhưng đồng thời là
người chứng, điều này vô cùng cần thiết. Vô số các tiền nhân Tử đạo của chúng
tôi đã là các Chứng nhân cao cả trong quá khứ, ngày nay là bậc Thầy trong lãnh
vực phúc âm hóa. Khi hướng tâm trí và tình cảm chúng tôi về các đồng bào ruột
thịt, chúng tôi nhìn thấy Đức Kitô Phục sinh ở trung tâm, ngài là Chứng nhân
trung thực và bậc Thầy tối thượng. Kinh nghiệm lịch sử của Giáo hội chúng tôi
chứng tỏ việc phúc âm hóa chính là chặng đường Thánh giá, đồng thời chúng tôi ý
thức rằng chỉ có con đường khổ nạn mới đưa đến niềm vui Phục sinh đích thực, sự
vinh quang đích thực là vinh quang của Chúa Kitô Sống lại.
Chúng ta cùng cầu nguyện để ước mong tiên tri của Đức
Gioan-Phaolô II, Người tôi trung của Chúa, sớm trở thành hiện thực.’’
Bài giảng của Đức Cha Chủ tịch được cộng đoàn, trong số
có nhiều vị thức giả lắng nghe. Trong nguyện đường Hiển linh của Hội Thừa sai
Paris có sự hiện diện của giáo sư Philippe Bordeyne, khoa trưởng Thần học và
Tôn giáo học Đại học Công giáo Paris, giáo sư Michel Berder, giám đốc Cao học
Đại học Công giáo Paris, nhiều giáo sư đại học Pháp, Việt và nhiều thân hào,
nhân sĩ.
Trong phần hiệp lễ, linh mục Nguyễn Thanh Lý đã hướng dẫn
cộng đoàn đồng ca ‘‘Đêm Đông’’ của nhạc sư Hải Linh : ‘‘Nơi hang Bê Lem huy
hoàng ánh sao, đưa lối Ba Vua phương Đông đến chầu.’’
Hành trinh Ra Khơi (Duc ad Altum) trong Năm Thánh
Trong thánh lễ cử hành tại nguyện đường Hiển linh Paris ,
các Đức Cha Việt Nam đã bận phẩm phục giám mục đặc biệt của Năm Thánh 2010.
Trên mão giám mục có huy hiệu ‘‘Ra Khơi’’ (Duc in Altum), vừa là lời mời gọi về
nguồn với lịch sử 350 năm của Giáo hội Việt Nam, được thể hiện qua hải trình
của các vị thừa sai cập bến cảng nước ta để rao giảng Tin mừng, lại vừa hướng
về tương lai của Giáo hội Việt Nam.
Ngày 15-6-2003, Đức Hồng y Crescenzio Sepe, Tổng Trưởng
Thánh bộ Truyền giáo và Rao giảng Tin mừng cho Muôn dân đã nhắn nhủ cộng đoàn
dân Chúa Việt Nam như sau :
‘‘Tôi muốn khích lệ anh chị em hãy thực hiện với lòng can
đảm và hăng say lời mời gọi ‘‘Ra Khơi’’ (Duc in Altum) mà Đức Gioan-Phaolô II
đã đề ra cho Ngàn Năm Thứ Ba. Trong chương trình này, Đức Thánh Cha mời gọi Giáo
hội và cộng đoàn dân Chúa ‘‘khởi hành với Chúa Kitô’’, Đấng cần được biết, được
mến yêu và được noi gương để trong Người, và với Người biến đổi lịch sử, tiến
tới viên mãn trong thành Giêrusalem Thiên Quốc. Đức Thánh Cha đã ấn định như
hướng đi chung ‘‘nên thánh’’ như ưu tiên mục vụ hàng đầu cần phải huy động mọi
sức lực để thực hiện.’’
Cuộc hành trình ‘‘Duc in Altum’’ trong Năm Thánh 2010
tiếp nối cuộc hành trình của ba nhà đạo sĩ phương Đông năm xưa lên kết Hội Thừa
sai Paris và Giáo hội Việt Nam trong sứ mạng truyền giáo tại quê nhà để mỗi
người dân Việt sẽ là một đạo sĩ : ‘‘Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.
Họ vào nhà, thấy Hài nhi và thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người.’’
(Mt 1,10-11).
Paris, ngày 4 tháng 1 năm 2010
Lê Đình Thông – dunglac.org