Đức
Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh
Radiovaticana 11/01/2010 – VATICAN. Sáng ngày 11-1-2010, ĐTC Biển
Đức 16 đã tiếp kiến đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh, gồm đại diện của 178 quốc
gia có quan hệ trên cấp đại sứ cùng với đại diện của chính quyền Palestine, đến
chúc mừng ngài nhân dịp đầu năm mới.
Quốc gia thứ 178 lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh trên cấp đại
sứ và sứ thần là Liên bang Nga hồi cuối tháng 12 vừa qua. Từ khi ĐTC Biển Đức
16 làm Giáo Hoàng có thêm 4 quốc gia lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh.
Như những lần trước đây, buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn là dịp để
ĐTC kiểm điểm tình hình thế giới đồng thời bày tỏ lập trường của Tòa Thánh đối
với các vấn đề thời sự.
Sau lời chào mừng của vị Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa
Thánh, là Ông Alejandro Lalladares Lanza, Đại sứ của Honduras, ĐTC chào thăm và
gửi lời cầu chúc nồng nhiệt đến các vị Đại Sứ, chính quyền và nhân dân các nước
mà các vị đại diện. Ngài đánh giá cao sứ mạng của các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh,
đồng thời nói rằng:
“Tôi cũng nghĩ đến tất cả các nước khác trên trái đất: Người Kế Vị
Thánh Phêrô mở rộng cửa cho tất cả mọi người và muốn có những quan hệ với tất
cả mọi nước, những quan hệ góp phần vào sự tiến bộ của gia đình nhân loại. Từ
vài tuần nay, quan hệ ngoại giao hoàn toàn đã được thiết lập giữa Tòa Thánh và
Liên Bang Nga, đây là một động lực mang lại sự hài lòng sâu xa. Cũng vậy, thật
là một điều rất ý nghĩa cuộc viếng thăm mà Chủ Tịch Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam mới thực hiện nơi tôi, một quốc gia tôi rất quí mến, nơi mà Giáo Hội
đang mừng kỷ niệm sự hiện diện từ nhiều thế kỷ qua việc cử hành Năm Thánh”.
Các khía cạnh của cuộc
khủng hoảng môi sinh
Tiếp đến, ĐTC đã đi từ cuộc khủng hoảng kinh tế để đề cập đến các
khía cạnh khác nhau của nghĩa vụ bảo vệ môi sinh và thiên nhiên, nạn buôn bán
võ khí, chiến tranh, và sự gia tăng chi phí quân sự, nạn nghèo đói và thiên
tai, các vụ kỳ thị và bách hại tôn giáo. Ngài nói:
“Giáo Hội cởi mở đối với tất cả mọi người, vì trong Thiên Chúa Giáo
Hội hiện hữu cho tha nhân! Vì thế, Giáo Hội nồng nhiệt chia sẻ số phận của nhân
loại. Trong năm mới bắt đầu này, nhân loại còn phải chịu cuộc khủng hoảng bi
thảm đè nặng trên nền kinh tế thế giới, tạo nên một sự bất ổn trầm trọng về mặt
xã hội ở các nơi. Trong thông điệp “Bác ái trong chân lý”, tôi đã mời gọi tìm
kiếm những căn cội sâu xa gây nên tình trạng đó: xét cho cùng, những nguyên
nhân ấy là do một não trạng ích kỷ và duy vật nơi nhiều người, họ quên những
giới hạn gắn liền với mọi loài thụ tạo. Hôm nay, tôi muốn nhấn mạnh rằng cũng
não trạng ấy đang đe đọa thiên nhiên. Có lẽ mỗi người chúng ta đều có thể trưng
dẫn một thí dụ về những thiệt hại mà não trạng ấy gây ra cho môi sinh ở các nơi
trên thế giới. Trong số các ví dụ đó, tôi có thể trưng dẫn một điều xảy ra
trong lịch sử gần đây của Âu Châu: cách đây 20 năm, khi bức tường Berlin sụp đổ
và khi các chế độ độc tài vô thần sụp đổ sau nhiều thập niên thống trị tại một
phần Âu Châu này, phải chăng người ta đã chẳng thấy rõ những vết thương sâu đậm
mà một chế độ kinh tế thiếu những tham chiếu về sự thật con người đã gây ra
không những cho phẩm giá và tự do của con người và các dân tộc, nhưng còn cho
cả thiên nhiên nữa đó sao, như sự ô nhiễm mặt đất, nước và không khí. Sự chối
bỏ Thiên Chúa không những làm biến thái tự do của con người, nhưng còn tàn phá
thiên nhiên. Kết quả là sự bảo tồn thiên nhiên không chỉ chủ yếu đáp ứng một
đòi hỏi về thẩm mỹ, nhưng còn đáp ứng một yêu sách về luân lý, vì thiên nhiên
biểu lộ ý định yêu thương và sự thật đi trước chúng ta và đến từ Thiên Chúa”.
“Vì thế, tôi chia sẻ những âu lo sâu đậm mà những cản trở về mặt
kinh tế và chính trị đang gây ra cho cuộc chiến chống lại sự suy thoái môi
sinh. Đây là những khó khăn mà người ta có thể nhận thấy mới đây, trong khóa
họp thứ 15 của Hội đồng các quốc gia tham dự Hiệp Ước cơ bản của LHQ về những
thay đổi khí hậu, nhóm tại Copenhagen từ ngày 7 đến 18-12 vừa qua. Tôi cầu mong
rằng trong năm nay, trước tiên tại thành phố Bonn, rồi đến Mêhicô, người ta có
thể đạt tới một hiệp định để đương đầu với vấn đề thay đổi khí hậu một cách hữu
hiệu. Vấn đề này càng quan trọng vì nó liên hệ tới số phận của một số nước, đặc
biệt là một số quốc gia hải đảo.
ĐTC nói thêm rằng: “Điều thích hợp là sự quan tâm và dấn thân cho
môi sinh như thế được phối hợp một cách có thứ tự trong toàn bộ những thách đố
lớn đang đề ra cho nhân loại. Nếu chúng ta muốn kiến tạo một nền hòa bình đích
thực, thì làm sao lại tách biệt hoặc đối nghịch sự bảo vệ môi sinh với sự bảo
vệ sự sống con người, kể cả sự sống của những thai nhi trước khi sinh ra? Chính
trong sự tôn trọng của con người đối với chính mình mà trách nhiệm của con
người đối với thiên nhiên được biểu lộ. Vì như thánh Tômasô Aquino đã dạy, con
người đại diện cho những gì cao quí nhất trong vụ trụ (Cf. Summa Theologiae, I,
q.29, a.3). Ngoài ra, tôi đã nhắc lại tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới mới đây
của tổ chức Lương nông quốc tế (FAO) về lương thực rằng “trái đất có đủ khả
năng nuôi sống tất cả mọi người dân” (Diễn Văn ngày 16-11-2009, n.2), miễn là
lòng ích kỷ không dẫn tới sự vơ vét của một số người đối với những tài nguyên
dành cho tất cả mọi người!
Quản lý đúng đắn các
tài nguyên thiên nhiên
“Tôi cũng muốn nhấn mạnh
rằng sự bảo vệ thiên nhiên bao hàm sự quản lý đúng đắn các tài nguyên thiên
nhiên của các quốc gia, trước tiên là những nước có nền kinh tế kém may mắn.
Tôi nghĩ đến Phi châu mà tôi đã vui mừng viếng thăm hồi tháng 3 năm ngoái trong
cuộc du hành sang Camerun và Angola, đại lục mà Thượng HĐGM khóa đặc biệt mới
đây đã bàn tới. Các nghị phụ đã lo lắng nói đến sự hao mòn và sự sa mạc hóa
những lãnh thổ canh tác rộng lớn vì sự khai thác quá nhiều và sự ô nhiễm môi
sinh (Đề nghị 22). Tại Phi châu cũng như ở nơi khác, cần phải đề ra những chọn
lựa chính trị và kinh tế “đảm bảo những hình thức sản xuất nông nghiệp và công
nghệ tôn trọng trật tự thiên nhiên và đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của mọi
người” (Sứ điệp Ngày Hòa bình thế giới 2010, n.10).
“Làm sao có thể quên rằng, một đàng cuộc chiến đấu để đạt tới các
nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những nguyên nhân gây ra xung đột,
như tại Phi châu, và đàng khác cũng là một nguồn gây ra rủi ro trường kỳ trong
những trường hợp khác? Vì thế, tôi mạnh mẽ lập lại rằng để vun trồng hòa bình,
cần phải bảo vệ thiên nhiên! Đàng khác, còn có những vùng rộng lớn như tại
Afganistan hay tại một số nước Mỹ châu la tinh, nơi mà đáng tiếc là nông nghiệp
còn gắn liền với việc sản xuất ma túy, và đó là một nguồn lớn lao mang lại công
ăn việc làm và phương tiện sinh sống cho dân chúng. Nếu muốn hòa bình, ta cần
phải bảo tồn thiên nhiên bằng cách biến cải các hoạt động ấy và một lần nữa tôi
muốn thỉnh cầu cộng đồng quốc tế đừng có thái độ cam chịu trước nạn buôn bán ma
túy và những vấn đề trầm trọng về mặt luân lý và xã hội mà nó gây ra”.
Chống gia tăng chi phí quân sự
Tiếp tục diễn văn trước ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, ĐTC nói đến
một trong những thách đố lớn đối với hòa bình đó là sự gia tăng các chi phí
quân sự cũng như sự duy trì và phát triển kho võ khí hạt nhân. Ngài nói:
“Những nguồn tài nguyên kinh tế khổng lồ bị hút vào vào những mục
tiêu như thế, trong khi lẽ ra những tài nguyên ấy phải được dùng để phát triển
các dân tộc, nhất là những người nghèo. Vì thế, tôi mạnh mẽ hy vọng rằng trong
Hội nghị cứu xét hiệp ước chống lan tràn võ khí hạt nhân sẽ nhóm vào tháng 5
tới đây tại New York, sẽ có những quyết định hữu hiệu được đề ra để giải trừ
dần dần, nhắm giải thoát trái đất khỏi các võ khí hạt nhân. Tổng quát hơn, tôi
lấy làm tiếc vì sự sản xuất và xuất khẩu các võ khí góp phần kéo dài vô tận các
cuộc xung đột và bạo lực, như tại miền Darfur, tại Somalia, hoặc Cộng hòa dân
chủ Congo. Ngoài sự bất lực của các phe liên hệ trực tiếp thoát ra khỏi cái
vòng bạo lực và đau thương do các cuộc xung đột ấy gây ra, còn có sự bất lực
của các nước khác và các tổ chức quốc tế trong việc mang lại hòa bình, không kể
thái độ dửng dưng hầu như cam chịu của dư luận quần chúng thế giới. Không cần
phải nhấn mạnh rằng những cuộc xung đột ấy làm thương tổn và làm suy thoái môi
sinh dường nào. Sau cùng, làm sao có thể không đề cập đến nạn khủng bố gây nguy
hiểm cho bao nhiêu sinh mạng vô tội và tạo nên sự lo lắng của bao nhiêu người?
Trong dịp long trọng này, tôi muốn lập lại lời kêu gọi đã đưa ra hôm 1-1 vừa
qua, trong buổi đọc kinh truyền tin, nhắm tới những người thuộc các nhóm võ
trang, dù thuộc thành phần nào đi nữa, xin họ hãy từ bỏ con đường bạo lực và mở
rộng tâm hồn cho niềm vui của hòa bình.
“Những bạo lực trầm trọng mà tôi vừa nhắc đến, cùng với thảm họa
nghèo đói, và thiên tai, sự tàn phá môi sinh, góp phần làm gia tăng số người
rời bỏ quê hương của họ. Đứng trước sự xuất hành như thế, tôi muốn khuyến khích
các chính quyền dân sự, có liên hệ dưới nhiều danh nghĩa khác nhau, hãy hoạt
động trong tinh thần công bằng, liên đới và sáng suốt. Đặc biệt ở đây tôi muốn
nhắc đến các tín hữu Kitô tại Trung Đông. Bị vây bủa bằng nhiều cách, kể cả vì
tự do thực hành tôn giáo, họ phải rời bỏ quê cha đất tổ, nơi mà Giáo Hội nguyên
thủy đã phát triển. Chính vì để nâng đỡ và giúp họ cảm thấy sự gần gũi của anh
chị em đồng đạo nên tôi đã triệu tập Thượng HĐGM đặc biệt về Trung Đông vào mùa
thu tới đây”.
Khía cạnh luân lý
ĐTC nói với các vị đại sứ rằng: “Tôi chỉ nhắc lại đây vài khía cạnh
liên quan tới việc bảo vệ môi sinh. Tuy nhiên, những căn cội của tình trạng mà
tất cả chúng ta đều thấy thuộc về lãnh vực luân lý và vấn đề này cần phải được
giải quyết trong khuôn khổ nỗ lực giáo dục bao quát, để cổ võ một sự thay đổi
não trạng thực sự và thiết lập những lối sống mới. Cộng đồng các tín hữu có thể
và muốn tham gia vào tiến trình đó. Nhưng để làm được như vậy, thì vai trò công
cộng của họ phải được công nhận. Đáng tiếc là tại một số quốc gia, nhất là tây
phương, trong giới chính trị và văn hóa, cũng như trong các cơ quan truyền
thông, người ta có tâm tình ít coi trọng và đôi khi còn tỏ ra thù nghịch, nếu
không muốn nói là khinh rẻ đối với tôn giáo, đặc biệt là Kitô giáo. Rõ ràng là
nếu chủ thuyết duy tương đối được coi là yếu tố thiết yếu cấu thành nền dân chủ
thì người ta có nguy cơ coi đặc tính đời như một sự loại trừ hay đúng hơn là sự
phủ nhận tầm quan trọng của sự kiện tôn giáo về mặt xã hội. Thái độ như thế tạo
ra sự đối đầu và chia rẽ, làm thương tổn hòa bình, gây xáo trộn cho môi sinh
nhân sự và khi loại bỏ trên nguyên tắc những thái độ khác với mình, thì nó trở
thành một ngõ cụt. Vì thế, cần cấp thiết xác định đặc tính đời tích cực, cởi
mở, dựa trên sự tự lập chính đáng của lãnh vực trần thế và lãnh vực thiêng
liêng, cổ võ sự cộng tác lành mạnh và tinh thần đồng trách nhiệm. Trong viễn
tượng ấy, tôi nghĩ đến Âu Châu, với Hiệp ước Lisboa bắt đầu có hiệu lực, mở ra
một giai đoạn mới trong tiến trình thống nhất, mà Tòa Thánh tiếp tục theo dõi
trong sự tôn trọng và quan tâm quí chuộng. Tôi hài lòng ghi nhận Hiệp ước dự
trù Liên hiệp Âu Châu tiếp tục duy trì sự đối thoại cởi mở trong sáng và đều
đặn với các Giáo Hội (art. 17), tôi cầu mong rằng trong việc xây dựng tương
lai, Âu Châu luôn biết kín múc nơi nguồn mạch căn tính Kitô của mình.
ĐTC không quên tố giác những đạo luật hoặc những dự án, nhân danh
cuộc chiến chống kỳ thị, muốn xóa bỏ nền tảng sinh lý về sự khác biệt phái
tính, như tại một số nước Âu Châu và Mỹ châu. Thánh Colomban đã nói “Nếu bạn
loại bỏ tự do, bạn sẽ loại bỏ phẩm giá” (Epist., N. 4 ad Attela, in S.
Colombani Opera, Dublin, 1957, p.34). Tuy nhiên, tự do không thể là tuyệt đối,
vì con người không phải là Thiên Chúa, nhưng là hình ảnh Thiên Chúa, là thụ tạo
của Ngài. Đối với con người, con đường phải theo không thể được xác định do ý
chí độc đoán, nhưng phải đáp ứng cơ cấu đã được Đấng Tạo Hóa mong muốn”.
ĐTC cũng kêu gọi tình liên tới quốc tế đối với các nạn nhân bị
thiên tai trong năm ngoái, gây chết chóc, đau thương và tàn phá như tại Phi
luật tân, Việt Nam, Lào, Campuchia, và Đài Loan, các nạn nhân bị động đất ở
miền Abruzzo Italia. Đứng trước những biến cố ấy không bao giờ được thiếu sự
trợ giúp quảng đại, vì chính sự sống của các thụ tạo của Thiên Chúa bị thương
tổn”.
Tuy nhiên, ngoài tình liên đới, sự bảo tồn thiên nhân còn cần sự
hòa hợp và ổn định của các quốc gia. Khi xảy ra những tranh chấp và đố kỷ giữa
các nước, để bảo vệ hòa bình, họ phải kiên trì theo đuổi con đường đối thoại
xây dựng. Trong bối cảnh này, ĐTC bày tỏ vui mừng vì việc giải quyết tranh chấp
giữa Colombia và Ecuador, giữa Croát và Sloveni, hiệp định giữa Arméni và Thổ
Nhĩ Kỳ tái lập quan hệ ngoại giao. Riêng về Israel và Palestine ngài nói:
“Một lần nữa tôi lên
tiếng để mọi người nhìn nhận quyền hiện hữu của Quốc gia Israel và quyền được
hưởng hòa bình và an ninh trong lãnh thổ được quốc tế công nhận. Cũng được nhìn
nhận như thế quyền của dân tộc Palestine có một tổ quốc có chủ quyền và độc
lập, sống trong phẩm giá và được tự do di chuyển. Ngoài ra, tôi muốn kêu gọi sự
hỗ trợ của tất cả mọi người để căn tính và tính chất thánh thiêng của thành
Jerusalem được bảo vệ, cũng như gia sản văn hòa và tôn giáo vốn có giá trị phổ
quát của thành này. Chỉ như thế thành thánh duy nhất, và bị chao đảo này mới có
thể là dấu chỉ và là điều tiên báo hòa bình mà Thiên Chúa mong muốn cho toàn
thể nhân loại”.
G. Trần Đức Anh OP