Giáo Hội đưa lưng
cho người ta đánh,đưa má cho người ta giật râu, trơ mặt mặc cho người ta xỉ
vả,mà không một lời biện hộ, bời vì những gì xảy ra trong nhiều thập niên trước
nay bị ê chề phơi bày trước bàn dân thiên hạ, làm trò cười và những chỉ trich
vô cùng ác tâm,đặc biệt từ những kẻ thù nghịch Giáo Hội. Càng đau hơn nữa khi
có không ít linh muỵc, tu sĩ, ‘té nước theo mưa”,thay vì tha thiết cầu
nguyện,sám hối, đền tội và liên lĩ chuỗi hạt Mai Khôi , để cầu cho những linh
mục lầm lỡ, thì lại đưa vấn đề độc thân ra thảo luận với suy nghĩ rằng luật độc
thân linh mục là tác nhân gây ra những tội phạm ấu dâm. Không cần lập lại, ai
cũng thấy rõ ràng, rằng bao giáo dân do xấu hổ nhục nhã trước những chuyện đồi
bại vô luân và đáng ghê tởm nầy, đã bỏ đạo và xa rời Hội Thánh; bao công sức
của vô vàn thừa sai, vô vàn Đấng tử vì đạo, chỉ vì những hành vi dâm dật,tội ác
của các linh mục tội lỗi nầy, đã như đem đổ sông đổ biển. Ngoài ra các linh
mục,tu sĩ nầy còn hủy hoại cuộc đời và tương lai của các nạn nhân. Con số 3.000
hồ sơ tố giác - rất nhiều trong đó đã bị xử phạt và kề cả bị toà án dân sự kết
tội – tuy chưa phải là hết, cũng đủ khiến chúng ta rùng mình kinh hãi. BTGH xin
giới thiệu bài phỏng vấn ĐGM chưởng lý Charles J. Scicluna, qua những câu hỏi
rất thẳng thắn của Gianni Cardinale, để thấy lập trường của Giáo Hội về việc xử
lý kiên quyềt và rất mạnh tay vấn đề nầy.
“THÀ BUỘC CỐI ĐÁ VÀO CỔ VÀ VỨT NÓ XUỐNG BIỂN
CÒN HƠN LÀ LÀM GƯƠNG XẤU CHO CHỈ MỘT CHÁU THÔI
TRONG CÁC CHÁU NHỎ NẦY”
Tố cáo, kiện tụng, kết án 10 năm tù vì tội ấu dâm
trong hàng giáo sĩ. Phỏng vấn ĐGM Charles J. Scicluna, chưởng lý Thánh Bộ Tín
Lý Đức Tin.Trích từ báo “Avvenire” số ra ngày 13.03.2010
Gianni
Cardinale
Là chưởng lý, ĐGM Charles J. Scicluna là công bộ
của toà án thuộc Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, được giao nhiệm vụ điều tra về những
tội nặng nhất [delicta graviora => nhiều nơi dịch chưa đúng là ‘tội nặng
hơn”. Khi so sánh hơn – comparaison de supériorité – trong tiếng la-tinh không
có ‘đồi tượng’ so sánh, thì có nghĩa ‘superlatif” - nhất,rất. ND], những tội ác
mà Giáo Hội coi là nặng nề nhất, những tội phạm đến Phép Thánh Thể hoặc bí mật
toà giải tội, hoặc hiếp dâm các ttrẻ vị thành niên do các giáo sĩ. Tự sắc 2001
“Sacramentorum sanctitatis tutela” (bảo vệ sự thánh thiện của các Bí Tích) đã
dành cho Thánh Bộ nầy thẩm quyền xét xử
ấy. Vì vật viên chưởng lý phải xử lý vần đề kinh khủng các linh mục bí tố cáo
có những hành vi phạm tội ấu dâm, vốn liên tục xuất hiện trên trang đầu các báo
chí. Đó là một người rất thận trịng tỉ mỉ và nỗi tiếng khôngbao giờ để bị ai
tác động,ảnh hưởng..
HỎI : Thưa
Đức Cha Scicluna, Ngài nỗi tiếng là cứng rắn và tuy vậy Giáo Hội đang bị tố cáo
một cách có hệ thống là dễ dãi đối với các linh mục phạm tội ấu dâm.
ĐÁP : Trong quá khứ, do một cách hiểu xấu về sự
bảo vệ danh tiếng của cơ chế nầy, các giám mục có thể tỏ ra khoan dung trước
những vụ việc đáng buồn nầy. Trong thực tiễn đã là như thế, vì giữa các nguyên
tắc,việc lến án những tội ác nầy đã luôn kiên quyết và không lập lờ. Về những
gì thuộc thế kỷ trước, chỉ cần kể ra huấn thị “Crimen sollicitationis” năm 1992
[văn kiện Crimen Sollicitationis được
soạn thảo bằng tiếng Latinh vào năm 1ô2, áp đặt lời thề giữ bí mật đối với nạn
nhân trẻ em, linh mục bị buộc tội và mọi nhân chứng của vụ việc.ND]
[Trần Chung Ngọc,tác giả nỗi tiếng với tư tưởng và các
bài viết mù quáng và điên cuồng chống Công giáo, trong số ra ngày 11.07.2009,
với bài viết “Viên thuốc độc bọc đường :”hợp tác lành mạnh”, đã chỉ trích và
lăng mạ nặng nề Đức Biển-Đức XVI, nhấn mạnh về huấn thị ‘Crimen
sollicitatioins” mà ông cho là do Đức Biển-Đức bí mật gửi cho tất cả mọi giám
mục để bịt miệng và ngăn chận việc điều tra, tố cáo, xử lý các vụ phạm tội âu
dâm do hàng giáo sĩ. Ông còn ngụy tạo những câu mà ông nói là của Đức Biển-Đức
XV,ví dụ như câu :”Buddhism is a sort of spiritual
eroticism”.(Phật giáo là một
thứ khiêu dâm tinh thần).Ông không nhớ rằng Đức Thánh Cha Biển-Đức năm nay 82
tuổi và như thế, cách đây 48 năm – 1962 - Người mới 35 tuổi (sinh 16.04.1927).
Người được bổ nhiệm làm TGM năm 1963 và hồng y năm 1977. Tổng trưởng Thánh Bộ
Tín Lý Đức Tin năm 1981. Bức thư năm 1962 là do ĐHY Alfredo Ottaviani, thư ký
Thánh Bồ gửi. TCN chẳng hiểu biết gì ngoài sự chống đối ác tâm và mù quáng.
Văn kiện De
Delictis gravioribus cập nhật Crimen
Sollicitationis trong dòng Bộ Giáo Luật 1983 vốn thay thế Bộ giáo luật có
hiệu lực từ năm 1917]
H. Chứ không phải là 1962 sao?
Đ. Nếu phiên bản đầu tiên
những biện pháp nầy có niên đại thời Đức Piô XI, thì Thánh Bộ nầy đã làm một
phiên bản mới dưới thời Đức Gioan XXIII, dành cho các Nghị Phụ Công Đồng. Nhưng
2.000 bản in không đủ và việc phân phát được hoãn vô thời hạn. Dù sao đi nữa,
đó là nhiững tiêu chí phải theo trong trường hợp phát hiện khi xưng thú những
tội ác nặng hơn và thuộc loại tình dục,như là hãm hiềp trẻ vị thành niên.
H. Những tiêu chí nầy khuyên giữ bí mật.
Đ. Việc dịch ra tiếng Anh
văn bản nầy quá dở đã khiến người ta nghĩ rằng Toà Thánh áp đặt bí mật để cha
dấu các sự việc,nhưng sự mthật không phải như thế. Bí mật của huấn thị nầy dùng
để bảo vệ danh tiếng những người bao hàm trong đó, các nạn nhân cũng như các
linh mục bị tố cáo, vốn cả họ cũng có quyền được giả định là vô tội. Giáo Hội
không thích công lý có tình phô diễn. Những tiêu chí liên quan đến các vụ lạm
dụng tình dục chưa bao giờ nghe nói là cấm không được tố cáo với toà án dân sự.
H. Như vậy, văn kiện nầy
thường được trích dẫn để lên án Đức đương kim giáo hoàng, khi Người làm tổng
tưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, đã phải chịu trách về một chủ trương che đậy các
sự việc từ phía Toà Thánh.
Đ. Lới kết án nầy là vô căn
cứ và còn là vu oan giá hoạ. Xin lấy một vài sự việc. Giữa những năm 1975 –
1985, không có trường hợp giáo sị phạm tội ấu dâm nào được báo về Thánh Bộ nầy
cả. Sau khi công bố Bộ Giáo Luật 1983, đã có một thời kỳ bất định về những
“delicta graviora” (những tội phạm nặng nề nhất) đúng ra là thuộc thẩm quyền
chúng tôi. Chỉ với tự sắc năm 2001 thì tội ấu dân mớlại trở thành thẩm quyêt
độc quyền của chúng tôi và từ đó,ĐHY Ratzinger đã cương quyết quản lý những vụ
việc nầy . Ngoài ra Nghười còn cho thấy lòng dũng cảm trong việc xử lý những
trường hợp vô cùng tế nhị. Lên án Đức đương kim giáo hoàng đã che dấu vấn đề
nầy là một sự phỉ báng thuần túy.
H. Điều gì xảy ra,khi một linh mỵc bị kết án một “delictum gravius”?
Đ. Nếu lời tố váo là đúng
thật, thì giám mục của LM ấy buộc phải điều tra cả về đối tượng lẫn giá trị
pháp lý của vụ việc. Nếu cuộc điều tra sơ bộ xác nhận lời tố cáo, thì GM khịng
còn quyền hành động nữa,mà phải chuyển giao hồ sơ nầy cho Phòng kỹ luật của
Thánh Bộ chúng tôi. Các quan chức khác thuộc Thánh Bộ nầy cộng tác tùy nhu cầu,
đặc biệt là về vấn đề ngôn ngữ.
H. Phòng ấy gồm có những ai?.
Đ. Là một trong những cấp
cao trong Thánh Bộ nầy, tôi là thành viên văn phòng nầy,cùng với một chủ nhiệm
văn phòng (Cha Pedro Miguel Funes Diaz), bảy giáo sĩ khác và một chuyên viên
hình sự giáo dân đặc trách các vấn đề nầy.
H. Văn phòng nầy đã bị tố cáo là hoạt động ít oi và chậm chạp
Đ. Khẳng định như vậy là bất công. Năm
2003 và 2004, đã có một loạt dồn dập những trường hợp trình lên Thánh Bộ xem
xét, đa số từ Hoa Kỳ. Từ đó, hiện tượng nầy giảm dần chúng tôi thử xử lý các hồ
sơ ngay khi có vụ việc xảy ra.
H. Cho tới nay Ngài đã giải quyết được bao nhiêu?
Đ. Từ 2001 đến 2010, khoảng 3.000 đơn tố cáo liên quan đến các linh mục
triều hoặc các tu sĩ, về những tội ác phạm trogn 5o năm gần đây nhất.
H. Như vậy là có 3.000 trường hợp linh
mục phạm tội ấu dâm?
Đ. Không thể nói như vậy
được, vì nói chung, trong 60% các trường hợp, có những hành vi ‘bệnh thích
thiếu niên” (éphebophilie), nghĩa là bị hấp dẫn mặt thể hình đối với các thiêu
niên cùng giới tính. Trong những trường hợp khác, khoảng 30%, là bị thu hút
tình dục khác giới và vớu 10% còn lại thì thật sự bị thu hút về thể lý đối với
những bé trai chưa dậy thì. Trong chín năm, có khoảbg 300 linh mục bị tố cáo
phạm tội ấu dâm. Tất nhiên lá quá thể,nhưng phải nhận định rằng hiện tượng nầy
không lan rộng như người ta muốn làm cho ta tin.
H. Có bao nhiêu vụ xử và kết án trên
3.000 bị cáo?
Đ. Trước hết, trong 20%
trường hợp, việc xử án – hình sự hoặc hành chính – đã diễn ra dưới sự giám sát
của chúng tôi trong giáo phận có thẩm quyền. Rất hiếm khi có một vụ xử ở Vatican,
điều nầy cũng cho pjhép đẩy nhanh thủ tục pháp lý. Trong 60% trường hợp, chủ
yếu do tuổi tác của các bị cáo, người ta không đưa ra xử, nhưng các biện pháp
kỹ luật được dành cho họ,như là cấm dâng Thánh Lễ có công chúng và cấm giải tội
hoặc buộc phải sống một đời ở ẩn và ăn năn sám hối. Nếy trong phạm trù nầy đã
có những trường hợp được đặc biệt đưa lên các phương tiện truyền thông, thì
tuyệt đối không phải là về xá tội. Nều đã không có kết án công khai, thì việc
phải im lặng và buộc cầu nguyện có trọn vẹn ý nghĩa của nó.
H. Còn 20% còn lại thì sao?
Đ. Ta sẽ nói rằng với một
nửa số đó, tức là những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, căn cứ trên những
chứng cứ không thể nghi ngờ được, thì Đức giáo hoàng đã đau đớn buộc phải cho
hồi tục. Đây là một biện pháp cùng cực,nhưng không thể nào tránh được. Nửa còn
lại, đó là những linh muc xin được cất những bổn phận linh mục của họ. Người ta
thấy trong số nầy những linh mục bị tìm thấy có tài liệu khiêu dâm trẻ em, bị
toà án dân sự kết án vì tội nầy.
H. Vậy từ đâu ra 3.000 trường hợp mà ngài
đã nêu lên?
Đ. Chủ yếu kà từ Hoa Kỳ, nơi
trong 2003 -2004 đã cung cấp khoảng 80% các trường hợp. Năm 2009, tỷ lệ rơi
xuống còn 25% trong 223 hồ sơ mới đến từ khắp thế giới. Năm 2007 – 2009, bình
quân mỗi năm được báo tình Thánh Bộ chúng tôi là 250. Một số quốc gia chỉ báo
một hoặc hai trường hợp, dù con số các nước có dính dáng đến một hiện tượng khá
giới hạn,ngày càng tăng. Hãy nhớ là có 400.000 linh mục triều và dòng trên thế
giới,một con số không liên quan gì với nhận thức là những trường hợp bị phơi bày
trong báo chí gây nên.
H. Ở Ý thì sao?
Đ. Cho tới nay vấn đề nầy
không có vẻ gì khoác chiều kích gây ấn tượng, kể cả nếu tôi lo lắng về một văn
hoá im lặng nhất định,hãy còn qúa phổ biến. Ngoài ra,HĐGM Ý bảo đảm một dịch vù
pháp lý kỹ thuật tuyệt vời cho các giáo phận khi cần xử lý những vụ việc nầy. Người
ta phải chào mừng sự dấn thân ngày càng tăng của các giám mục làm sáng tỏ ngay
những trường hợp mà người ta báo với các ngài.
H. Ngài nói rằng các vụ kiện đang xảy ra
chỉ tượng trưng 20% trong 3.000 trường hợp được xem xét trogn chín năm gần đây.
Có phải tất cả kết thúc bằng việc xử phạt các bị cáo?
Đ. Nếu nhiều vụ kiện kết
thúc bằng một xử phạt, thì trong một số trường hợp người linh mục đã được thanh
minh trắng án hoặc những lời tố cáo không có đủ bằng chứng. Trong mỗi trường
hợp, nhười ta lượng định tình chất phạm tội của bị cáo, song cũng cả khả năng
chi toàn thừa tác vụ của linh mục đó.
H. Người ta thường tố cáo phẩm trật Hội
Thánh là đã không chuyển cho luật pháp dân sự những trường hợp giáo sĩ phạm tội
ấu dâm được báo cho họ.
Đ. Trong những nước có văn
hoá luật pháp theo Anh, nhưng cũng cả ở Pháp, các giám mục thường biết được
những tội ác do các linh mục của các vị phạm ở ngoài toà giải tội, buộc các
ngài phải nại tới thẩm quyền tư pháp. Đó là một tình hình nghiêm trọng, vì các
giám mục nầy như một người cha bị buộc phải tố cáo con mình. Trong những trường
hợp nầy, chúng tôi khuyên nên tôn trọng luật pháp dân sự.
H. Và nếu giám mục không có sự ép buộc nầy thì
sao?
Đ. Trong những tình huống ấy,Thánh Bộ không bắt
buộc các giám mục tố cáo các linh mục của họ,nhưng Thánh Bộ khuyến khích mời
gọi các nạn nhân tố cáo các lý hình của mình. Chúng tôi khuyến khích các giám
mục cung cấp cho các nạn nhân nầy mọi sự hỗ trợ cần thiết, không chỉ về mặt
tinh thần. Trong trường hợp vừa mới đây của một linh mục bị một toà án dân sự
kết tội, chính Thánh Bộ đã gợi ý cho những người tố giác đòi hỏi một thủ tục
theo giáo luật để bào động toà án dân sự. Làm như thế là vì lợi ích của các nạn
nhân và để tránh những hành vi phạm tội mới.
H. Quy định nầy có được dự trù đối
với những “delicta graviora” chăng?
Đ. Ông vừa đụng đến một điểm tế nhị. Truớc năm
1898, nguyên tắc của quy định hình phạt còn xa lạ với luật Giáo Hội. Chỉ với Tự
Sắc 2001 mà người ta đưa vào mộg quy định 10 năm cho các tội nặng. Với những
tội phạm về tình dục, thời gian 10 năm bắt đầu từ sinh nhật thứ 18 của nạn
nhân.
H. Như vậy có đủ chăng?
Đ. Thực tiễn cho thấy rằng quy định mười năm nầy
không thích hợp với loại vụ việc nầy. Sẽ tốt hơn nều quay lại với hệ thống
trước đây,ấn định tính bất kả xâm phạm của những ‘delicta graviora’ nầy. Ngày
07.11.2002,Đức Gioan-Phaolô II đã chuẩn nhận cho Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin được
phèp xem xét từng trường hợp một,theo đề nghị của giám mục liên quan.
Nguồn : CHIESA 13.03.2010
BTGH chuyển ngữ