WHĐ
(17.09.2010) – Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI sẽ khiến người Anh phải ngạc nhiên
khi chính Ngài trình bày cho họ về mối quan hệ giữa đức tin và lí trí.
Ông
Francis Campbell, đại sứ Vương quốc Anh tại Tòa Thánh, đã nói như trên.
Ông
Francis Campbell là người giữ vai trò then chốt trong việc chuẩn bị chuyến công du của ĐTC được thực
hiện tại Vương quốc Anh.
Ông Francis Campbell
sinh năm 1970 tại Bắc
Ông đại
sứ đã trả lời phỏng vấn của phóng viên Jesús Colina thuộc hãng tin Zenit, chỉ vài ngày trước chuyến công
du của ĐTC Bênêđictô XVI.
ZENIT: Vì sao Đức Giáo
Hoàng quyết định đến thăm Vương quốc Anh?
Francis Campbell:
Theo tôi, có hai lý do chính: một, vì lí do tôn giáo; hai, vì lí do quốc gia
tức hoạt động đối ngoại của một nhà nước.
Lí do tôn giáo của
chuyến viếng thăm này được đặt lên hàng ưu tiên. Trong dịp này, ĐGH sẽ tôn
phong chân phước cho Đức cố Hồng Y John Henry Newman, một khuôn mặt lớn của Giáo
hội tại Anh cũng như thế giới. Đóng góp của ĐHY Newman cho nền giáo dục Kitô
giáo là rất lớn.
Về phía Nhà nước, Vương
quốc Anh đã có những mối quan hệ quốc tế chặt chẽ với Tòa Thánh, hướng vào một
loạt các vấn đề, từ sự phát triển quốc tế đển sự biến đổi khí hậu.
Xem xét tình hình “giao
thông” chính trị trong những năm gần đây, có thể thấy Vương quốc Anh rất coi
trọng quan hệ với Tòa Thánh. Trong sáu năm qua chúng tôi đã có năm chuyến viếng
thăm của thủ tướng. Tôi nghĩ, có lẽ chỉ
Đó là do mối quan hệ
của hai quốc gia tập trung vào nhiều vấn đề cơ bản có tầm vóc quan trọng.
Có hai cách nhìn Tòa
Thánh. Một số chỉ đơn giản coi
Từ đó, có thể đề cập đến
nhiều lĩnh vực của thế giới như phát triển quốc tế, giải trừ quân bị, thay đổi
khí hậu, giải quyết và ngăn ngừa những xung đột.
ZENIT: Các phương tiện
truyền thông ở Anh đã dành hẳn một không gian lớn cho những lời chỉ trích Đức
Giáo hoàng và một số nơi ở Vương quốc Anh in đậm dấu ấn lịch sử phức tạp của
tinh thần bài Công giáo. Điều này có làm ông lo lắng không?
Francis Campbell:
Không. Tôi muốn phân biệt rõ: Có những người chỉ trích tôn giáo, trong đó có
Công giáo, xuất phát từ quan điểm bất đồng trên bình diện lí trí thuần túy.
Tôn giáo phải luôn mở
rộng cho sự phê bình của lí trí. Nhiều người có thể tiếp cận sự phê bình này từ
những quan điểm khác nhau. Người thì muốn thay đổi việc giảng dạy tôn giáo cá
biệt mà họ vốn không chấp nhận. Người thì không tán thành niềm tin vào Thiên
Chúa nói chung.
Vương quốc Anh có
truyền thống lâu đời về chủ nghĩa nhân đạo. Sự bất đồng đối với tôn giáo không
giới hạn trong phạm vi Vương quốc Anh. Phần lớn những người chỉ trích tôn giáo
thuộc số những người bất đồng. Nhưng tôi muốn phân biệt những người chỉ trích
tôn giáo với số ít người tỏ ra thiếu khoan dung, từ chối xử sự bình đẳng với
tha nhân – cụ thể là với các tín đồ.
Chúng tôi có truyền
thống phản biện. Đó chính là truyền thống dân chủ của những người có thể bày tỏ
sự phản đối và quan điểm của mình - nhưng chúng tôi cũng có truyền thống tôn
trọng, lắng nghe người khác.
Theo tôi, một trong các
mối nguy chính là các nhà báo ngoài nước Anh. Họ cho rằng cứ làm ồn ào lên thì
người ta phải nghe theo thôi. Thật sai lầm nếu chỉ dựa vào những thông tin ồn
ào truyền đến công chúng.
Đôi khi cũng có người
nói nước Anh là một quốc gia thế tục. Tôi không nghĩ như vậy. Tôi cho rằng nước
Anh là một quốc gia đa nguyên. Theo cuộc điều tra dân số gần đây nhất, trên 70%
người được hỏi đã xác định mình là Kitô hữu.
Nếu nói chúng tôi là
một quốc gia thế tục, thì cần phải nhìn vào vai trò của nữ hoàng, vì nữ hoàng
là vị lãnh đạo tối cao Giáo Hội Anh.
Kitô giáo thấm sâu vào
cơ cấu nhà nước và Giáo Hội Anh giáo tại đây (nước Anh) là Giáo Hội chính thức
của nhà nước. Còn tại
Nêu một ví dụ cụ thể.
Gần một phần tư trẻ em Anh đang theo học tại các trường tôn giáo, đó là những
trường công lập, được nhà nước tài trợ. Học sinh được học hỏi những tập tục tôn
giáo của mình; 10% trường học ở Anh là trường Công giáo. Như vậy trường học tại
nước Anh có thể được xếp vào hệ thống trường học tôn trọng tín ngưỡng tốt nhất
thế giới.
Nếu một người theo
Thiên Chúa giáo, Anh giáo hay Công giáo, hoặc một đạo nào khác muốn con cái
được giáo dục trong đức tin của đạo mình, thì đều có thể dạy con cái theo
truyền thống tập tục của đạo mình đồng thời cho con học đạo ngay trong trường
nhà nước.
Những ví dụ trên cho
thấy Vương quốc Anh là một xã hội đa nguyên. Tín đồ các tôn giáo có vai trò
tích cực trong xã hội. Chính quyền và xã hội trân trọng giá trị của tôn giáo.
ZENIT: Ông có thể cho
biết mối quan hệ cá nhân của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI với nước Anh?
Francis Campbell:
Câu hỏi này đã từng được báo chí Anh đặt ra cho tôi. Theo tôi, nhìn từ quan
điểm văn hóa, Đức Bênêđictô XVI có lẽ là vị giáo hoàng hiểu biết nhiều nhất về
nước Anh.
Tại sao? Bởi vì các vị
tiền nhiệm của ngài đều xuất thân từ xã hội toàn tòng Công giáo, còn Đức giáo
hoàng Bênêđictô XVI đến từ một xã hội người Công giáo cùng chung sống với các
tín đồ Luther. Ngoài ra, phần lớn cuộc đời ngài giảng dạy tại trường đại học có
phân khoa thần học dạy cả thần học Luther và thần học Công giáo.
Tôi nghĩ rằng đây là
một vị giáo hoàng đến thăm nước Anh với sự hiểu biết vững vàng về Tin lành thệ
phản. Tại
Tôi xin nói chính xác
về chiều kích thứ hai như sau. Các bạn thường nghe Đức giáo hoàng nói về thiểu
số sáng tạo. Các bạn có biết nguồn gốc từ đâu không? Nếu các bạn đọc sách ngài
viết về châu Âu và những điều ngài viết về châu Âu, quả thật sẽ nhận ra ngài
đang quan tâm đến tương lai của phương Tây.
Ngài điểm qua cuộc
tranh luận hấp dẫn, trong giai đoạn giữa hai cuộc đại chiến thế giới, giữa
Oswald Spengler và Arnold Toynbee. Toynbee là một trong những khuôn mặt lớn
trong đời sống nước Anh thế kỷ 20. Toynbee viết nhiều tác phẩm về lịch sử nền
văn minh và Đức Bênêđictô XVI đã đứng về phía Toynbee. Nội dung cuộc tranh luận
giữa Spengler và Toynbee như sau: Spengler nói, “Cũng như mọi nền văn minh
khác, phương Tây sẽ đi hết con đường phát triển của mình, thịnh rồi suy”.
Còn Toynbee thì nói: “Không,
phương Tây thì không như vậy, vì phương Tây là của Kitô giáo. Phương Tây có
Kitô giáo và Kitô giáo hoạt động như một sự đổi mới, như một nguồn lực không
ngừng đổi mới. Kitô giáo là thiểu số sáng tạo ngay tại tâm điểm của một nền văn
minh”. Đức Bênêđictô XVI cũng đã lập luận và khẳng định như vậy.
Vì vậy ngài là một độc
giả am tường về cuộc tranh luận có ý nghĩa rất quyết định mà một trong những
nhà tư tưởng kiệt xuất của chúng tôi thế kỷ XX đã dự phần vào. Điều này sẽ giúp
các bạn nhận biết, ai là người đọc ra được ý nghĩa về kinh nghiệm của nền văn
hóa Anh một cách am tường đến thế.
Điểm thứ ba, và có lẽ
là điều quan trọng nhất: Một trong những ưu tiên lớn trong sứ vụ giáo hoàng của
Đức Bênêđictô XVI và nền thần học của ngài là mối tương quan giữa đức tin và lý
trí, và thêm vào đó, là vị trí của tôn giáo trong không gian công cộng.
Tại Pháp và Hoa Kỳ, Đức
giáo hoàng đã đề cập vấn đề này, và ngài nói về sự phân cách Giáo Hội và Nhà
nước, tại sao lại như vậy, tại sao có sự khác nhau ở những nơi khác nhau, tại
sao Giáo hội và tôn giáo cần phải có một tiếng nói, không phải là tiếng nói đòi
đặc quyền nhưng lên tiếng yêu cầu không được loại trừ. Và đây, ngài đang đi đến
nước Anh.
Và nếu các bạn nhìn vào
ba trong số những nhân vật lớn của Công giáo Anh: Thomas Beckett, Thomas More
và John Henry Newman, đây là những nhân vật của lý trí và đức tin. Có sự khác
biệt với một số khuôn mặt Công giáo trong đại lục địa như Gioan Thánh Giá hoặc
Têrêsa Avila, Têrêsa Lisieux, và nhiều nhà thần bí khác nữa. Về nhiều phương
diện, các vị là những người đang giãi bày lương tâm của mình.
Theo thuật ngữ tôn giáo,
đây là ngôi nhà trí tuệ của Đức Bênêđictô XVI, bởi sự khai phóng tại Hoa Kỳ dựa
trên việc tách Giáo Hội khỏi Nhà nước xuất phát từ Anh và Scotland. Đây không
phải là mô hình khai phóng của Pháp.
Vì thế, từ ba lý do
trên, tôi cho rằng Đức giáo hoàng là một người rất quen thuộc với các nền tảng
văn hóa và những nét văn hóa tinh tế ở Vương quốc Anh.
ZENIT: Đâu là nét mới thực sự trong
chuyến viếng thăm của Đức Bênêđictô XVI?
Francis Campbell:
Có vẻ như một số người nghĩ rằng, chuyến viếng thăm nước Anh của Đức Gioan
Phaolô II dễ dàng hơn so với Đức Bênêđictô XVI.
Nên biết, năm 1982, Đức Gioan Phaolô II
đi công du mà như đi trên dây. Đó là một trong những thách
thức lớn nhất trong các chuyến viếng thăm ngoại giao, vì ngài đến với một đất
nước lúc đó đang có chiến tranh với một quốc gia đa số là người Công giáo (Xung
đột Anh – Argentina về quần đảo Malvinas năm 1982 - Chú thích của người dịch).
Sự kiện này đặt cho Tòa Thánh những vấn đề lớn vì Tòa Thánh vốn đứng ở vị trí
trung lập. Đến thăm một quốc gia đang có chiến tranh quả là một thách thức thật
sự.
Thách thức thứ hai đặt
ra cho Đức Gioan Phaolô II là cuộc xung đột tại Bắc
Chuyến thăm của Đức
Bênêđictô XVI diễn ra trong một bối cảnh khác. Ngài không phải đi trên dây căng
ngoại giao, nhưng đi đến với một xã hội khác biệt và hai dân tộc khác nhau. Đức
Gioan Phaolô II kêu gọi và truyền đạt thông qua hành động; còn Đức Bênêđictô
XVI kêu gọi qua ngôn từ.
Trên nhiều khía cạnh – tôi sẽ còn trở
lại điểm này – có lẽ Đức Bênêđictô XVI là người gần gũi
hơn với những kinh nghiệm của Anh, kinh nghiệm kết hợp đức tin và lý trí, kinh
nghiệm dấn thân về mặt trí thức mà chân phước Newman là một nhân vật tiêu biểu.
Cũng vậy, bộ mặt của
Giáo hội Công giáo ở Anh đã thay đổi kể từ chuyến thăm của Đức Gioan Phaolô II
28 năm qua. Nước Anh hiện có hơn một triệu người Công giáo.
Giáo Hội đa dạng hơn về
chủng tộc. Những người nhập cư đến từ châu Á, Ấn Độ, từ Châu Phi hạ Sahara,
châu Mỹ La tinh, châu Âu lục địa, bao gồm cả Đông Âu. Giáo hội đã đổi khác so
với 28 năm trước. Tôi nghĩ điều đó có tác động tốt.
Người ta nói 28 năm
trước không có phản kháng. Vâng, có những cuộc biểu tình - có lẽ là một kiểu
phản kháng, đã diễn ra. Nhưng lần này có thêm nhiều cuộc biểu tình đang diễn ra
do một số nhóm thế tục tổ chức nhắm vào một số giáo huấn cụ thể của Giáo Hội.
Một chiều kích khác là
hiện nay chúng ta đang sống trong một nền văn hóa của các phương tiện truyền
thông phát đi liên tục suốt 24 tiếng đồng hồ; 28 năm trước không như thế. Và
chuyến viếng thăm của Đức Bênêđictô XVI sẽ rất khác.
Chuyến Đức giáo hoàng
thăm Hoa Kỳ cũng đã rất khác rồi. Tại Hoa Kỳ, có người hỏi: “ Ngài sẽ ứng xử
như thế nào đây?” . Thế rồi chuyến công du này thực sự đã thành công rực rỡ.
ZENIT: Đức giáo hoàng
sẽ khiến người Anh phải ngạc nhiên?
Francis Campbell:
Tôi nghĩ rằng người Anh sẽ bất ngờ vì chính mắt họ được nhìn thấy Đức giáo
hoàng, sẽ nghe trọn vẹn lời ngài nói mà không bị cắt xén.
Một số cáo buộc Đức
giáo hoàng cho rằng không phải Đức giáo hoàng đã nói. Cũng có những huyễn hoặc
được dựng lên xung quanh giáo huấn của ngài, cho rằng ngài đả phá bộ luật về sự
bình đẳng của chúng tôi vừa được Quốc hội thông qua. Ngài không làm như vậy
đâu. Trong huấn từ dành cho các giám mục Anh quốc, ngài đã đề cập, bày tỏ sự
hối tiếc về một số việc xảy ra trong quá khứ. Ngài đã trả lời về những điều
được các giám mục đặt ra. Ngài không hề đề cập đến việc thông qua bộ luật hiện
hành. Ngài không can thiệp vào tiến trình làm việc của Quốc hội.
Tương tự, một số người
đã dùng thủ đoạn đối với một số bài phát biểu trước đây của ngài, nói rằng ngài
có đề cập chuyện X, Y, Z nào đó, trong khi ngài không hề có ý như vậy.
Và tôi nghĩ, mọi người
sẽ gặp được một khuôn mặt đôn hậu, thông minh, đang đến trong một chuyến viếng
thăm lịch sử, mang nhiều ý nghĩa điển hình về sự hòa giải.
Đối với cá nhân tôi,
thời điểm sâu sắc nhất là vào lúc 5g chiều thứ sáu khi ngài phát biểu tại
Westminster Hall, ngay tại nơi Thomas More chịu tử hình.
Điều đó cho các bạn
thấy con đường dài chúng tôi đã đi để trở thành một quốc gia, bởi tôi không
nghĩ rằng điều này có thể diễn ra 28 năm trước đây. Tôi nghĩ sẽ vẫn còn khó
khăn. Và tôi cho rằng, khi nghe tiếng ngài, người Anh sẽ gặp được một con người
đang nói với họ chớ nên tự mãn về tương lai của mình. Ngài không thoái lui đâu.
Ngài là người rất dấn thân.
Điều này có nguồn gốc
từ thời thơ ấu của ngài. Đây là vị giáo hoàng ngay từ thời thơ ấu đã được tận
mắt thấy những hiểm họa của chế độ độc tài toàn trị, và đối với ngài, tôn giáo
và Công giáo, Kitô giáo là một chiếc phanh có thể ngăn chặn chủ nghĩa toàn trị.
Trên nhiều khía cạnh,
cuộc đời của ngài là một minh chứng thực tế về mối quan hệ giữa đức tin và lí
trí, vì lí trí không được kiểm soát sẽ trở thành tinh thần toàn trị chủ nghĩa.
Tương tự, đức tin không được kiểm soát bởi lí trí cuối cùng cũng trở nên cực
đoan và phi lí. Và đó là sự tương tác của cả hai. Tôi cho rằng ngài sẽ nối kết
cả hai lại với nhau và sẽ dấn thân, sẽ đưa mọi người cùng tham gia với ngài.
Ngài sẽ lên tiếng. Mọi người sẽ lắng nghe và lĩnh hội lời ngài. Tôi nghĩ rằng
ngài sẽ tìm ra cách liên kết chặt chẽ [giữa đức tin và lí trí, ND].
ZENIT: Việc phong chân
phước cho Đức Hồng y Newman có thể là dấu chỉ cho sự hiệp nhất giữa Công giáo
và Anh giáo không?
Francis Campbell:
Câu hỏi của ông rất thú vị: “ Có thể Đức giáo hoàng là một khuôn mặt của sự
hiệp nhất?” Tôi nghĩ rằng ông đang đặt một câu hỏi rất quan trọng.
Từ khi còn ở trong Anh
giáo, Newman đã thực hiện một khối lượng công việc đáng kể, và ngài là người
của cả hai, Anh giáo và Công giáo. Ngài thành lập Phong trào
Newman đã dành một phần
đáng kể cuộc đời mình trong Giáo hội Anh giáo. Ngài không phải là một thế lực
gây chia rẽ.
Giáo huấn của ngài về
lương tâm có thể áp dụng cho tất cả các Kitô hữu, cho mọi tín đồ các tôn giáo
và mọi người thành tâm thiện chí. Vì vậy, ngài là một nhà tư tưởng lỗi lạc.
Trước hết và trên hết ngài là một nhà tư tưởng Kitô giáo trước khi chúng ta bắt
đầu phân chia ngài thành nhiều mảnh.
Tôi nghĩ, Đức Bênêđictô
XVI có mối quan tâm đối với vị chân phước vốn là một nhà tư tưởng hậu-Khai-sáng
và là người đã khắc phục sự rạn nứt giữa đức tin và lí trí do các nhà Khai sáng
Pháp gây ra.
Vì vậy, trong chiều
hướng này, ngài là một khuôn mặt không chỉ cho Giáo hội Công giáo mà còn cho
phần còn lại của Kitô giáo và thực sự còn cho cả những con người của lòng tin.
ZENIT: Đại sứ sẽ nói gì
với Đức giáo hoàng khi ngài đến đất nước của ông?
Francis Campbell:
Có lẽ tôi sẽ nói: “ Benvenuto” (Chào mừng ngài đến thăm).
Có lẽ tôi cũng tự hỏi: “
Tôi nên nói chuyện với ngài bằng tiếng Ý hay tiếng Anh?” . Có lẽ nên nói với
ngài bằng tiếng Anh thì tốt hơn, vì ngài sẽ dùng tiếng Anh trong suốt bốn ngày
tới.
Tôi rất vui mừng về
việc ngài sẽ đến. Tôi thực sự rất vui mừng vì ngài viếng thăm nước Anh.
Chuyến viếng thăm này
quan trọng về nhiều khía cạnh. Nhưng tôi nghĩ có một lý do chính. Đây là mối
quan hệ ngoại giao lâu đời nhất của chúng tôi. Quốc vương đã cử sứ giả vào năm
1479. Lần đầu tiên quốc vương gửi một sứ giả ra nước ngoài, và là vị sứ giả đến
Rôma. Và trong nhiều thế kỷ, vẫn giữ mối quan hệ này, kể cả sau cuộc Cải cách,
vẫn tồn tại giữa những nghi ngại và tranh chấp.
Nữ hoàng cũng đã nhiều
lần đến Rôma - gần đây nhất vào năm 2000. Lần đầu tiên là vào năm 1951 khi còn
là Công chúa
Vinh dự cao nhất Nữ
hoàng dành cho Đức giáo hoàng là chuyến viếng thăm cấp Nhà nước dành cho một
người bạn lâu năm, cho nền hữu nghị ngoại giao lâu đời nhất thế giới, mà có
người bảo “ lâu quá sức” .
Tôi rất mừng vì Đức
giáo hoàng đã nhận lời viếng thăm, vì nền ngoại giao bao hàm tình hữu hảo và
những mối liên hệ giữa vương triều và sứ vụ giáo hoàng từng không được đánh giá
cao. Hoàng gia Stuart được an táng trong hầm mộ Đền thờ Thánh Phêrô. Những mối
liên hệ giữa Vương triều và giáo hoàng đã được tái lập.
Khi Nữ hoàng được tin
Đức giáo hoàng nhận lời mời viếng thăm Vương quốc Anh, bà đã chính thức viết
thư mời và Đức giáo hoàng đã ưu ái đáp nhận. Và thứ năm này ngài sẽ đến
Đức giáo hoàng năm nay
83 tuổi, còn Nữ hoàng 84. Cả hai vị đều sống một đời từng trải và có nhiều kinh
nghiệm giống nhau.
Tôi nghĩ cuộc hội kiến
sẽ là sự kiện độc nhất vô nhị.
Nguồn: ZENIT
(14.09.2010)
Đức Thành dịch