Đức Thánh Cha chủ sự
lễ phong chân phước cho ĐHY John Henry Newman
Radiovaticana 19/09/2010 –
Đây là lễ phong chân phước đầu tiên ngài cử hành kể từ khi được bầu
làm Giáo Hoàng cách đây hơn 5 năm. Cho đến nay, ngài chỉ cử hành các buổi lễ
phong Hiển Thánh.
ĐTC đã từ Luân đôn đáp trực thăng đến Birmingham, thành phố lớn thứ
2 của Anh quốc với 1 triệu dân cư và các Luân đôn 150 cây số về hướng bắc, nổi
tiếng là thành phố “xanh” nhất Âu Châu với 490 công viên. Đây cũng là một thành
phố đa chủng tộc và văn hóa, với 1 phần 3 dân số đến từ các nước trong Khối
Thịnh Vượng chung, và tại đây có cộng đồng Công Giáo Việt Nam đầu tiên được
thành lập. Tổng giáo phận
Liền đó ĐTC đã tiến về Công viên Cofton ở Rednal, cách Birmingham
14 cây số về hướng tây và gần nhà nghỉ mát của dòng Oratoire, cũng gọi là dòng
Giảng Thuyết, nơi an táng ĐHY Newman. ĐTC đã đi xe bọc kính tiến qua các lối đi
trong công viên để chào thăm các tín hữu tụ tập tại đây để tham dự thánh lễ
phong chân phước cho ĐHY Newman do ĐTC cử hành lúc quá 10 giờ sáng dưới bầu
trời mây phủ.
Đồng tế với ĐTC có hàng trăm GM ở hai bên bàn thờ trên lễ đài có
mái vòm trắng che chở, không kể hàng trăm linh mục khác ở bên trái của lễ đài.
Mở đầu nghi thức phong chân phước, Đức TGM sở tại Bernard Longley
đã thỉnh cầu ĐTC phong chân phước cho ĐHY John Henry Newman, và tiếp đó, tiểu
sử vắn tắt của Vị Tôi Tớ Chúa đã được xướng lên.
Vài nét tiểu sử ĐHY Newman
ĐHY sinh tại Luân đôn năm 1801 và qua đời năm 1890 thọ 89 tuổi. Sau
20 năm làm mục sư Anh giáo, Người trở lại Công Giáo.
John Henry Newman là trưởng nam trong gia đình có 6 anh em, thân
phụ là chủ ngân hàng và mẹ gốc người Pháp di cư. Năm 16 tuổi, cậu bắt đầu học
thần học tại Đại học Trinity ở
Mục Sư Newman đã khởi xướng Phong trào Oxford nhắm đào sâu việc
nghiên cứu thần học, đặc biệt trong lãnh vực giáo phụ, tức là nghiên cứu về nền
thần học trong thời kỳ Giáo Hội chưa bị chia rẽ, nhưng còn hiệp nhất giữa Đông
và Tây Phương. Chính việc nghiên cứu ấy đã làm cho mục sư Newman đến gần Công
Giáo và gia nhập Giáo Hội này vào năm 1845, khi đã 45 tuổi. Biến cố này đã gây
kinh ngạc trong dư luận Anh giáo bấy giờ.
Năm 1847, Newman gia nhập dòng Oratoire, dòng Giảng Thuyết do thánh
Philiphê Neri thành lập và thụ phong linh mục tại Roma ngày 30 tháng 5 cùng năm
đó. Được sự khích lệ của ĐGH Piô 9, cha Newman thành lập tu viện đầu tiên của
dòng Oratoire ở Anh quốc. Năm 1854 cha được bổ nhiệm làm Viện trưởng Đại học
Công Giáo tân lập ở
ĐGH Lêô 13 phong cha Newman làm Hồng Y vào năm 1879 khi cha sắp
tròn 80 tuổi. Việc bổ nhiệm này được coi như một sự nhìn nhận công trình, các
tác phẩm và vai trò cao quí của cha. Khi ĐHY Newman qua đời năm 1890, Giáo Hội
Công Giáo tại Anh quốc ở trong giai đoạn tái triển nở sau 3 thế kỷ bị bách hại
và bị gạt ra ngoài lề xã hội.
ĐHY Newman đã ảnh hưởng lớn trên nhiều thế hệ các tín hữu Công giáo
Anh quốc, trong đó có rất nhiều người trở lại. Ngài cũng ảnh hưởng trên đại
truyền thống văn hóa Công Giáo tại các nước Anglosaxon.
ĐTC Biển Đức 16 đã lấy quyền Tông Đồ qui định rằng từ nay các tín
hữu có thể tôn kính ĐHY John Henry Newman như chân phước, theo các qui tắc của
Giáo Hội, lễ kính vào ngày 9 tháng 10 hàng năm.
Màn che bức hình vị tân chân phước trên lễ đài được kéo xuống,
trước tiếng vỗ tay reo hò vui mừng của mọi người.
Đức TGM Longley của giáo phận
Bài giảng của ĐTC
Trong bài giảng tiếp đó, ĐTC đặc biệt nhấn mạnh và giải thích khẩu
hiệu của ĐHY Newman, đồng thời áp dụng vào đời sống chúng ta ngày nay, theo
tinh thần bài Tin Mừng của ngày chúa nhật trong ngày lễ:
“Khẩu hiệu của ĐHY Newman, Cor ad cor loquitur, (lòng nói với
lòng), giúp chúng ta đi sâu vào quan điểm của Người về đời sống Kitô như một
lời mời gọi nên thánh, được cảm nghiệm như một ước muốn nồng nhiệt của tâm hồn
con người, mong đi vào cuộc hiệp thông thân mật với Trái Tim Chúa. ĐHY nhắc nhớ
chúng ta rằng sự trung thành cầu nguyện dần dần biến đổi chúng ta trong hình
ảnh của Chúa. Như Người đã viết trong một bài giảng rõ ràng rằng: “Tập quán cầu
nguyện, thực hành việc qui hướng về Thiên Chúa và thế giới vô hình trong mọi
thời, mọi nơi, mọi lúc cấp thiết, tôi muốn nói việc cầu nguyện có một công hiệu
tự nhiên là tinh thần hóa và nâng cao linh hồn. Một người không còn như trước
nữa; dần dần người ấy nội tâm hóa một hệ thống mới các ý tưởng và được các
nguyên tắc mới mẻ thấm nhiễm” (Parochial and Plain sermons, IV, 230-231). Tin
Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng không ai có thể làm tôi hai chủ (Xc Lc
16,13) và giáo huấn của Chân phước John Henry về việc cầu nguyện giải thích
rằng tín hữu Kitô được chỉ định phục vụ Vị Thầy chân thực duy nhất, Ngài là
Đấng duy nhất có quyền được chúng ta tôn sùng vô điều kiện (Xc Mt 23,10).
“ĐHY Newman giúp chúng ta hiểu rõ ý nghĩa điều đó trong đời sống
thường nhật của chúng ta: Người nói với chúng ta rằng Thầy Chí Thánh của chúng
ta đã chỉ định cho mỗi người chúng ta một công tác chuyên biệt, một “việc phục
vụ được xác định rõ ràng”, được ủy thác riêng cho mỗi người. ĐHY viết: “Tôi có
sứ mạng của tôi và tôi là một mắt xích, một sợi giây nối kết giữa con người với
nhau. Chúa không tạo dựng nên tôi mà không có chủ đích. Tôi làm điều thiện, tôi
thi hành công việc của Chúa; tôi sẽ là một thiên thần hòa bình, một nhà rao
giảng chân lý trong thân phận của tôi.. nếu tôi làm điều ấy, tức là tôi vâng
phục các mệnh lệnh của Chúa và tôi phụng sự Chúa trong ơn gọi của tôi”
(Meditations and devotions, 301-2).
ĐTC nói thêm rằng: “Việc phục vụ đặc thù mà Chân phước John Henry
Newman được kêu gọi thi hành bao gồm việc sử dụng trí khôn tinh tế và ngòi bút
phong phú của Người cho những điều cấp thiết nhất “trong số những vấn đề trong
ngày”. Trực giác của Người về quan hệ giữa đức tin và lý trí, về khoảng không
gian sinh tử của tôn giáo mạc khải trong xã hội văn minh, và về sự cần thiết
phải có một phương pháp giáo dục có nền tảng rộng rãi và nhìn xa trông rộng,
không những là điều rất quan trọng đối với Anh quốc thời Nữ Hoàng Victoria,
nhưng vẫn còn tiếp tục gợi hứng và soi sáng cho nhiều người trên thế giới ngày
nay. Tôi muốn ca ngợi quan niệm của ĐHY về giáo dục, đã đóng góp rất nhiều cho
việc hình thành luân lý đạo đức vốn là sức mạnh nền tảng của các học đường và
các đại học Công Giáo ngày nay. ĐHY là người quyết liệt chống lại mọi chủ
trương hẹp hòi hoặc duy lợi ích, Người tìm cách đạt tới một bối cảnh giáo dục
trong đó việc huấn luyện trí thức, kỷ luật luân lý và dấn thân đạo đức đi liền
với nhau.
ĐHY Newman cũng kêu gọi đào tạo một hàng ngũ giáo dân thông minh và
có trình độ giáo dục cao. Người viết: “Tôi muốn một hàng ngũ giáo dân không
kiêu căng, không hấp tấp lên tiếng, không bút chiến, nhưng là những người biết
rõ tôn giáo của mình, đi sâu vào tôn giáo, biết rõ mình đứng lên ở đâu, tin
điều gì và không tin điều gì, biết tín ngưỡng rõ ràng đến độ có thể trình bày
được, biết rõ lịch sử để có thể bảo vệ tín ngưỡng” (The Present Position of
Catholics in England, IX, 390). Ngày nay trong lúc tác giả những lời này được
tôn vinh trên bàn thờ, tôi cầu nguyện để nhờ lời chuyển cầu và tấm gương của
Người, bao nhiêu người dấn thân trong công tác giáo dục và huấn giáo được soi
sáng để nỗ lực hơn nữa nhờ quan niệm của ĐHY được trình bày rõ ràng trước chúng
ta.”
Trong phần kết của bài giảng, ĐTC trình bày một suy tư ngắn về đời sống
linh mục và mục tử các linh hồn của ĐHY. Sự nồng nhiệt và tình người trong sự
quí chuộng sứ vụ mục tử của Ngài được trình bày qua một trong những bài giảng
nổi danh:
“Anh chị em thân mến, giả sử các thiên thần là linh mục của anh chị
em, thì các vị sẽ không thể tham phần vào những đau khổ của anh chị em, không
thể cảm thương, đồng cảm với anh chị em, cũng không thể cảm thấy sự dịu dàng
đối với anh chị em và tìm được lý do để biện minh cho anh chị em như chúng ta
có thể; các vị không thể là mẫu gương và là hướng đạo cho anh chị em, và dẫn
đưa anh chị em từ con người cũ đến đời sống mới, như những người đến từ cùng
môi trường với anh chị em có thể (“Men, not Angels: the Priests of the Gospel”,
Discourses to mixed congragations, 3). ĐHY Newman đã sống quan niệm rất nhân
bản như thế về sứ vụ linh mục trong việc nồng nhiệt săn sóc dành cho dân chúng
tại Birmingham trong những năm sống tại nhà dòng Oratoire mà ngài thành lập,
viếng thăm các bệnh nhân và người nghèo, an ủi những người bị bỏ rơi, chăm sóc
những người ở trong nhà tù. Không lạ gì sau khi ĐHY qua đời, hàng ngàn người đã
xếp hàng trên đường phố tại nơi mà thi hài ĐHY được đưa tới chỗ an nghĩ cách
cây nửa dặm. 120 năm sau, đám đông đông đảo lại tụ họp lại vui mừng vì sự nhìn
nhận long trọng của Giáo Hội đối với sự thánh thiện đặc biệt của người cha rất
quí mến của linh hồn.” Thánh lễ được tiếp tục với phần lời nguyện giáo dân bằng
nhiều ngôn ngữ khác nhau, trong đó cũng có một ý nguyện bằng tiếng Việt do một
phụ nữ mặc áo dài màu đỏ sậm xướng lên, cầu cho các nhà thần học.
Kinh Truyền Tin
Cuối thánh lễ, ĐTC đã chủ sự kinh Truyền tin. Trong bài huấn dụ
ngắn, ngài gửi lời chào thăm các tín hữu tham dự lễ Phong chân phước cho Mẹ
Maria dela Puríssima de la Cruz ở thành phố Seviglia, Tây Ban Nha và cầu mong
Chân Phước sẽ soi sáng cho nhiều thiếu nữ noi gương Mẹ tận tụy yêu mến Chúa và
tha nhân.
ĐTC cũng nhắc đến lòng kính mến của Chân Phước Newman đối với Đức
Mẹ. Khi đến sống tại
Sau thánh lễ, ĐTC đã viếng thăm căn phòng nơi ĐHY Newman cư ngụ
trong nhà dòng Oratoire, rồi đến Học viện St. Mary ở Oscott, nay là Đại chủng
viện giáo phận
G. Trần Đức Anh OP