Kitô hữu phải là chứng nhân của lời
cầu nguyện mở cửa Nước Trời
Radiovaticana 30/11/2011 17.56.03 – Các kitô
hữu phải là các chứng nhân của lời cầu nguyện để mở ra các cửa sổ về trời, đặc
biệt trong một thế giới khép kín đối với Thiên Chúa như thế giới chúng ta đang
sống hiện nay.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như
trên trước hơn 6.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến
chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 30-11-2011. Mở đầu bài huấn
dụ Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến, trong các bài giáo lý cuối
cùng chúng ta đã suy tư về vài thí dụ của lời cầu nguyện trong Thánh Kinh Cựu
Ước, hôm nay tôi muốn bắt đầu hướng nhìn về Đức Giêsu, về lời cầu nguyện của
Người như một con kênh bí mật chảy qua suốt cuộc sống, các tương quan, các cử
chỉ và lời nói của Người, và nó hướng dẫn Người một cách từ từ nhưng mạnh mẽ
tới chỗ tận hiến hoàn toàn theo chương trình của Thiên Chúa Cha. Đức Giêsu là
Thầy dậy cả trong việc cầu nguyện của chúng ta. Còn hơn thế nữa, Người là sự đỡ
nâng tích cực và huynh đệ mọi hành vi của chúng ta hướng tới Thiên Chúa Cha,
như khẳng định trong Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo: “lời cầu nguyện được mạc
khải tràn đầy và hiện thực nơi Chúa Kitô” (541-547).
Có một lúc đặc biệt ý nghĩa trên con đường cuộc
sống của Đức Giêsu: đó là lời cầu nguyện theo sau phép rửa tại sông Giordan.
Thánh sử Luca ghi nhận rằng sau khi cùng toàn dân lãnh nhận phép rửa từ tay
Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã bước vào một lời cầu nguyện rất riêng tư và kéo dài
(Lc 3,21-22). Chính việc “ở trong lời cầu nguyện”, trong cuộc đối thoại với
Thiên Chúa Cha soi sáng hành động, mà Người đã làm cùng với biết bao nhiêu
người trong dân là chạy đến sông Giorđan để lãnh nhận phép rửa thống hối. Khi
cầu nguyện, Chúa Giêsu trao ban cho cử chỉ lãnh phép rửa của Người một nét
tuyệt đối và cá biệt.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Khi
mạnh mẽ kêu gọi mọi con cái tổ phụ Abraham hoán cải, quay về với sự thiện, và
làm các việc xứng đáng với sự thay đổi ấy, Gioan Tẩy Giả đã đem lại một cái gì
mới mẻ: việc chấp nhận phép rửa phải ghi dấu một khúc rẽ định đoạt, bỏ lại đàng
sau cung cách hành xử gắn liền với tội lỗi, và bắt đầu một cuộc sống mới. Đức
Giêsu cũng tiếp nhận lời kêu mời ấy và bước vào trong đám đông các người tội
lỗi đợi chờ bên sông Giordan. Cũng như các kitô hữu tiên khởi, chúng ta tự hỏi
tại sao là Đấng đã không phạm tội mà Chúa Giêsu lại chấp nhận phép rửa thống
hối và hoán cải đó? Thánh sử Mátthêu cũng ghi nhận sự kinh ngạc của ông Gioan
Tẩy Giả, khi ghi lại lời ông nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa,
thế mà Ngài lại đến với tôi!” Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì
chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3,14-15). Trong thế
giới kinh thánh từ “công chính” có nghĩa là hoàn toàn chấp nhận ý muốn của
Thiên Chúa. Đức Giêsu cho thấy sự gần gũi của Người với phần dân chúng thừa
nhận rằng sự kiện đơn thuần là con cháu của tổ phụ Abraham không đủ, mà muốn
thực thi ý muốn của Thiên Chúa, dấn thân để cung cách sống của mình trung thành
đáp trả lại giao ước, mà Thiên Chúa cống hiến cho Abraham. Khi bước xuống sông
Giordan, Chúa Giêsu vô tội, cho thấy sự liên đới của Người với những kẻ thừa
nhận tội lỗi của họ, lựa chọn sám hối, và thay đổi cuộc sống. Người làm cho
chúng ta hiểu rằng là thành phần dân Chúa có nghĩa là bước vào trong một quan
niệm mới về cuộc sống: cuộc sống theo Thiên Chúa.
Trong cử chỉ đó Chúa Giêsu đã sống trước thập
giá, Người bắt đầu hoạt động của mình bằng cách nhận lấy chỗ của người tội lỗi,
mang trên vai gánh nặng tội lỗi của toàn nhân loại, bằng cách chu toàn ý muốn
của Thiên Chúa Cha. Khi cầm trí cầu nguyện, Chúa Giêsu cho thấy mối dây thân
tình với Thiên Chúa Cha ở trên Trời, sống kinh nghiệm tình phụ tử, tiếp nhận vẻ
đẹp đòi hỏi tình yêu của Người và trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa Cha,
Người có được sự xác nhận sứ mệnh của mình. Các lời vang lên từ Trời (Lc 3,22)
hướng tới mầu nhiệm vượt qua, thập gía và sự sống lại. Tiếng nói của Thiên Chúa
định nghĩa Người là “Con yêu dấu Ta”, nhắc lại Igiaac, người con rất yêu dấu,
mà cha là Abraham sẵn sàng sát tế theo lệnh của Thiên Chúa (St 22,1-14).
Đức Giêsu không chỉ là Con vua Đavít thuộc dòng
dõi vương giả cứu thế, hay Người Tôi Tớ mà Thiên Chúa hài lòng, mà cũng còn là
Con một yêu dấu, giống như Igiaác, mà Thiên Chúa Cha ban cho ơn cứu độ của nhân
loại. Trong lúc, qua lời cầu nguyện, Chúa Giêsu sống sâu thẳm chức là con của
Người và kinh nghiệm tình cha của Thiên Chúa, thì Chúa Thánh Thần ngự xuống (x.
Lc 3,22a), Đấng hướng dẫn Đức Giêsu trong sứ mệnh của Người, Đấng Người sẽ đổ
xuống, sau khi bị nâng lên cao trên thập giá (x. Ga 1,32-34; 7,37-39), để Chúa
Thánh Thần soi sáng công trình của Giáo Hội.
Trong lời cầu nguyên Chúa Giêsu sống sự tiếp
xúc không ngừng với Thiên Chúa Cha để thực hiện cho tới tột cùng chương trình
tình yệu đối với loài người.
Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: bối
cảnh của lời cầu nguyện ngoại thường này là toàn cuộc sống của Chúa Giêsu trong
gia đình gắn liền một cách sâu đậm với truyền thống tôn giáo của dân
Các trình thuật Phúc Âm cho thấy các khung cảnh
cầu nguyện của Chúa Giêsu giao thoa giữa truyền thống của dân do thái và sự mới
mẻ của tương quan thân tình duy nhất với Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu thường lên
nơi vắng vẻ (Mc 1,35; Lc 5,16), hay lên núi để cầu nguyện (Lc 6,12; 9,28), vào
ban đêm thanh vắng (Mc 1,35; 6,46-47; Lc 6,12). Áp dụng vào lời cầu nguyện của
kitô hữu Đức Thánh Cha nói:
Cả trong lời cầu nguyện của chúng ta chúng ta
cũng phải học ngày càng bước vào trong lịch sử cứu độ, mà Chúa Giêsu là tột
đỉnh, để canh tân trước Thiên Chúa quyết định riêng tư của chúng ta, rộng mở
cho ý muốn của Người, xin Người ban sức mạnh cho chúng ta phù hợp ý muốn của
chúng ta với ý muốn của Người trong suốt cuộc đời, và vâng phục chương trình
tình yêu của Người đối với chúng ta.
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đụng chạm tới mọi
giai đoạn thừa tác và suốt các ngày sống của Người. Các mệt nhọc không ngăn
chặn được nó. Trái lại các Phúc Âm cho thấy Chúa Giêsu thường xuyên cầu nguyện
ban đêm. Chẳng hạn sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng,
Người truyền cho các môn đệ lên thuyền qua bờ bên kia. Sau khi giải tán dân
chúng, Người lên núi cầu nguyện (Mc 6,45-47). Khi phải quyết định những gì khẩn
cấp và phức tạp, Chúa Giêsu cầu nguyện sâu đậm tha thiết và lâu giờ hơn. Chẳng
hạn như trước khi chọn 12 Tông Đồ, Người đã cầu nguyện suốt đêm (Lc 6,12-13).
Trong Tông huấn Verbum Domini tôi đã đề cập tới
tầm quan trọng của việc đọc và cầu nguyện với Thánh Kinh, trong đó có hình thức
đặc biệt là Lectio divina: đọc Thánh Kinh, tìm hiểu phân tích, cầu nguyện và
ứng dụng vào cuộc sống thường ngày. Đức Thánh Cha quảng diễn điểm này như sau:
Lắng nghe, suy niệm, thinh lặng trước mặt Chúa
đang nói với chúng ta là cả một nghệ thuật, phải học bằng cách thực hành kiên
trì. Dĩ nhiên, cầu nguyện là một ơn, nhưng nó đòi hỏi phải được lắng nghe. Nó
là việc của Thiên Chúa, nhưng đòi hỏi nơi chúng ta sự dấn thân và sự liên tục,
là hai điều kiện rất quan trọng... Chúng ta hãy giáo dục mình sống tương quan
sâu xa với Thiên Chúa, biết cầu nguyện liên lỉ và tràn đầy tin tưởng, một lời
cầu nguyện có khả năng soi sáng con đường đời sống chúng ta như Chúa Giêsu dậy.
Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng
Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Croat, Slovac và Ý. Bằng tiếng
Ý ngài đã chào Liên hiệp các tiệm làm bánh mì và bánh ngọt toàn nước Italia, và
cám ơn họ đã tặng bánh Giáng Sinh Panettone cho các tổ chức bác ái của ngài.
Đức Thánh
Cha cũng chào các thiện nguyện viên Hội Hồng
Thập Tự vùng
Chào các bạn trẻ người đau yếu và các cặp vợ
chồng mới cưới Đức Thánh Cha khích lệ họ noi gương Mệ Maria sống thân tình với
Chúa trong Mùa Vọng này. Sau cùng ngài cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa
thánh cho mọi người.
Linh Tiến Khải