Tường thuật
ngày thứ 3 chuyến viếng thăm CHLB Đức (3/5)
Radiovaticana 24/09/2011 18.00.42 – Thứ bẩy 24-9-2011 là
ngày thứ ba trong chuyến viếng thăm Cộng hòa Liên Bang Đức bốn ngày của Đức
Thánh Cha. Đức Thánh Cha đã có 5 sinh hoạt chính: lúc 9 giờ sáng ngài chủ sự
thánh lễ kính thánh nữ Elidabét Thueringen trong nhà thờ chính tòa
Lúc 8 giờ 15 sáng thứ bẩy Đức Thánh Cha đã đi xe bọc kính
từ Đại chủng viện đến quảng trường nhà thờ chính tòa
Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha mời gọi mọi người cảm tạ
Chúa, hiên ngang sống đức tin và noi gương các thánh Kilian, Bonifazio, Adelar,
Eoban và Elisabét Thueringen đã từng sống và hoạt động tại đây, để đi đến với
tha nhân và mời họ cùng khám phá ra sự phong phú tràn đầy của Tin Mừng.
Một trong những lý do để cảm tạ Thiên Chúa đó là các thay
đổi chính trị xã hội. Trong năm thánh nữ Elidabét 1981, tức cách đây 30 năm khi
Erfurt còn là vùng đất của Đông Đức, có ai ngờ được rằng chỉ ít năm sau bức
tường ngăn cách hai miền Tây và Đông Đức sụp đổ? Rồi lùi lại 70 năm nữa, tức
vào năm 1941 dưới thời Đức quốc xã, có ai có thể thấy trước là bốn năm sau đó
thì “Vương quốc ngàn năm” chìm nghỉm trong tro tàn đổ nát? Người dân vùng
Thueringen này đã phải gánh chịu hai chế độ độc tài “nâu” của Đức Quốc Xã và “đỏ”
của Cộng Sản, và chúng đã gây ra hậu qủa giống như một trận mưa át xít. Có biết
bao nhiêu hậu qủa còn phải được tiêu hóa, nhất là trên bình diện trí thức và
tôn giáo. Đa số dân chúng bang này đã xa rời niềm tin nơi Chúa Kitô và sự hiệp
thông của Giáo Hội. Nhưng các biến cố trong hai mươi năm qua cũng cho thấy các
kinh nghiệm tích cực, chứng minh cho thấy Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta và
dẫn đưa chúng ta bước đi trên các con đường mới.
Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nhận định như sau:
Chúng ta tất cả xác tín rằng sự tự do mới đã giúp trao ban
cho cuộc sống con người một phẩm giá lớn hơn và mở ra nhiều khả thể mới. Cả đối
với Giáo Hội, với lòng biết ơn, chúng ta cũng có thể nêu bật nhiều dễ dãi: các
khả thể mới đối với các sinh hoạt xứ đạo, việc tái thiết và mở rộng các nhà thờ
và các trung tâm giáo xứ, các sáng kiến mục vụ hay văn hóa giáo phận. Nhưng các
khả thể ấy có giúp gia tăng đức tin hay không? Có phải tìm gốc rễ đức tin và cuộc
sống kitô ở đâu khác chứ không phải nơi sự tự do xã hội hay không?... Nhiều tín
hữu đã chấp nhận các thiệt thòi, miễn là có thể sống đức tin của họ. Đặc biệt
trong vùng Eichsfeld nhiều tín hữu công giáo đã kháng cự lại ý thức hệ cộng
sản. Sự hiện diện của Thiên Chúa được biểu lộ trong cuộc đời của các thánh.
Chứng tá của các vị trao ban can đảm cho cuộc thức tỉnh mới. Đó là các thánh
bổn mạng của giáo phận
Vâng, các thánh chỉ cho chúng ta thấy rằng có thể và thật
là tốt đẹp sống tương quan với Thiên Chúa một cách triệt để, dành chỗ nhất cho
Thiên Chúa chứ không phải ở xa giữa các thực tại khác. Các thánh minh nhiên
rằng chính Thiên Chúa hướng tới chúng ta trước, đã và đang tự tỏ hiện cho chúng
ta trong Đức Giêsu. Chúa Kitô đến gặp chúng ta, nói với chúng ta và mời gọi
chúng ta đi theo Ngài.
Đức tin luôn luôn có chiều kích tập thể. Tôi có thể tin là
nhờ Chúa thương nhìn đến tôi và nhóm lên ngọn lửa đức tin nơi tôi. Nhưng một
cách cụ thể, tôi phải cám ơn các anh chị em khác đã tin trước tôi và cùng tin
với tôi. Chính việc “tin với” ấy làm thành Giáo Hội, và Giáo Hội không đừng lại
trước các hiên giới. Nếu chúng ta rộng mở cho toàn đức tin trong toàn lịch sử
và trong các chứng tá của toàn Giáo Hội, thì khi đó đức tin công giáo có một
tương lai và là sức mạnh cho cả nước Đức nữa.
Thánh lễ đã kết thúc sau hai giờ đồng hồ. Tiếp đến Đức
Thánh Cha đã đi xe ra phi trường để lấy máy bay đi Freiburg, cách
Từ phi trường Đức Thánh Cha đã đi xe vào thành phố cách đó
50 cây số. Thành phố
Tổng giáo phân Freiburg được thành lập năm 1821 có hơn 4,7
triệu dân, 42% theo công giáo, với 1.075 giáo xứ, 949 linh mục triều, 215 linh
mục dòng, 299 tu huynh, 1.709 nữ tu, 226 Phó tế vĩnh viễn và 70 đại chủng sinh.
Giáo Hội điều khiển 1.012 cơ cấu giáo dục và 620 trung tâm từ thiện bác ái.
Sau khi tới thành phố Đức Thánh Cha đã đổi sang xe bọc kính
để đến quảng trường Muenster và viếng thăm nhà thờ chính tòa Đức Bà. Nhà thờ
chính tòa được xây theo kiểu gô tích giữa thế kỷ XII và XVI, có tháp chuông cao
116 mét, biểu tượng cho thành phố và bao gồm 19 qủa chuông lớn nhỏ khác nhau
trong đó có một qủa cổ xưa nhất tại Đức gọi là “Chuông Hosanna” đúc năm 1258.
Bên trong nhà thờ có các kính mầu thuộc các thế kỷ XIII-XVI và nhiều tác phẩm
nghệ thuật, trong đó có bàn thờ chính của điêu khắc gia Hans Baldung Grien.
Đức Thánh Cha đã được Kinh sĩ đoàn nhà thờ tiếp đón. Bên
trong có 800 người gồm các nam nữ tu sĩ và một nhóm người tàn tật. Sau khi
viếng Mình Thánh Chúa Đức Thánh Cha đã đọc kinh truyền tin và ban phép lành tòa
thánh cho mọi người. Ngài đã ký vào sổ vàng của bang và thành phố, trước khi có
lễ nghi chào đón chính thức tại quảng trường.
Ngỏ lời với mọi người Đức Thánh Cha đã bầy tỏ niềm vui được
viếng thăm giáo phận Freiburg trong tư cách là Người Kế Vị Thánh Phêrô, để cầu
nguyện với tín hữu, loan báo lời Chúa và cử hành thánh lễ. Đức Thánh Cha xin mọi
người cầu nguyện cho các ngày viếng thăm đem lại nhiều hoa trái, để Thiên Chúa
củng cố đức tin, niềm hy vọng và gia tăng lòng mến của mọi người.
Lễ nghi chào đón kết thúc lúc 2 giờ rưỡi chiều, sau đó Đức
Thánh Cha lên xe về đại chủng viện Borromeo, cách đó 300 mét để dùng bữa trưa
và nghỉ ngơi chốc lát.
Lúc 16.50 Đức Thánh Cha đã gặp gỡ nguyên thủ tướng Helmut
Kohl và phu nhân. Ông Kohl sinh năm 1930 gia nhập đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo
năm 1947. Ông đã từng là bộ trưởng chủ tịch bang Rheinland-Pfalz giữa các năm
1969-1976, và được bầu làm Thủ tướng Liên Bang Đức giữa các năm 1982-1989, rồi
là Thủ tướng của nước Đức thống nhất cho tới năm 1998.
Vào lúc 17.15 Đức Thánh Cha đã gặp gỡ 15 đại diện các Giáo
Hội chính thống cùng với các Hồng Y và Giám Mục tùy tùng cũng như hai Giám Mục
chuyên viên đại kết của Hội Đồng Giám Mục Đức.
Các tín hữu chính thống tại Đức bắt nguồn từ ba đợt di cư:
đợt đầu tiên từ Nga hồi năm 1917; đợt thứ hai từ Hy Lạp và Serbia trong thập
niên phát triển kinh tế 1960; và đợt thứ ba từ các nước Đông Âu sau khi chế độ
cộng sản sụp đổ và chiến tranh cựu Yugoslavia. Theo nhu cầu các nhân viên mục
vụ được gửi sang giúp các tín hữu, và các giáo phận được chính thức thành lập
sau đó. Theo thống kê hồi tháng 4 năm nay các Giáo Hội chính thống tại Đức có
467 cộng đoàn với 17 Giám Mục, trong đó có 12 vị thường trú, 267 linh mục và 40
phó tế. Số tín hữu được khoảng 1,3 triệu, trong đó có 400 ngàn thuộc Tòa Thượng
Phụ chính thống Costantinopoli, 300 ngàn thuộc Tòa thượng phụ chính thống
Rumani, 200 ngàn thuộc Tòa Thượng phụ chính thống Serbi, 250 ngàn thuộc Tòa
thượng phụ chính thống Matscơva, 60 ngàn thuộc Tòa thượng phụ chính thống
Bulgari, 13 ngàn thuộc Tòa thượng phụ chính thống Antiokia, và 10 ngàn thuộc
Tòa thượng phụ chính thống Georgia.
Liên quan tới các tín hữu chính thống đông phương, có 80
ngàn thuộc Giáo Hội chính thống Siro Antiokia, 40 ngàn thụộc Giáo Hội chính
thống tông truyền Armeni, 20 ngàn thuộc Giáo Hội chính thống Etiopi, 6.000
thuộc Giáo Hội chính thống Copte Alessandria và 1.000 thuộc Giáo Hội chính
thống Eritrea.
Đáp lời chào của Đức Tổng Giám Mục Augostinos, Đức Thánh
Cha bầy tỏ nỗi vui sướng được gặp các vị đại diện các Giáo Hội chính thống và
đông phương. Ngài chia vui với các vị về sự phát triển và củng cố cơ cấu của
các Giáo Hội trong đại lục Âu châu nói chung và trong Cộng hòa Liên bang Đức
nói riêng. Ngài nói:
Trong bối cảnh này tôi sẵn sàng lập lại điều tôi đã nói ở
nơi khác rằng: giữa các Giáo Hôi và cộng đoàn kitô, trên bình diện thần học
Giáo Hội Chính Thống gần gũi với chúng tôi nhất; các tín hữu công giáo và chính
thống đều có cùng một cơ cấu của Giáo Hội ban đầu. Như thế, chúng ta có thể hy
vọng rằng không còn xa lắm ngày chúng ta có thể cùng nhau cử hành bí tích Thánh
Thể.
Đức Thánh Cha nhắc lại rằng ngay từ khi còn là giáo sư thần
học tại
Đức Thánh Cha cũng bầy tỏ lòng biết ơn đối với công việc
của Ủy ban quốc tế đối thoại thần học giữa Giáo Hội công giáo và các Giáo Hội
chính thống đông phương. Trong khuynh hướng của thời đại hiện nay muốn giải
phóng cuộc sống chung khỏi Thiên Chúa, các Giáo Hội Kitô tại Đức càng cần phải
cùng nhau dấn thân bước đi trên con đường thăng tiến sự hiểu biết và hiệp thông
giữa các dân tộc, bảo vệ phẩm giá và sự sống con người từ khi thụ thai cho tới
khi chết tự nhiên, mạnh mẽ chống lại mọi lèo lái sự sống con người, và thăng
tiến giá trị của hôn nhân và gia đình khỏi mọi giải thích sai lạc.
Sau khi gặp gỡ đại diện các Giáo Hội chính thống Đức Thánh
Cha đã nói chuyện với các đại chủng sinh trong nhà nguyện đại chủng viện.
Vào lúc 18,15 phút Đức Thánh Cha đã tiếp kiến hội đồng Ủy
ban trung ương tín hữu công giáo Đức. Ủy ban này đã được thành lập năm 1952 và
kế thừa Ủy ban trung ương tổ chức Đại hội công giáo Đức thành lập năm 1848,
nhằm mục đích bảo vệ Giáo hội công giáo khỏi sự kiểm soát của nhà nước. Ngày
nay Ủy ban gồm đại diện của các Hội đồmg giáo phận, các tổ chức công giáo, các
hiệp hội tông đồ giáo dân và các nhân vật của Giáo Hội và xã hội.
Ngỏ lời với mọi người Đức Thánh Cha đề cập tới chương trình
trợ giúp phát triển, trong đó giới chức hữu trách chính trị, kinh tế và giáo
hội sang sống một thời gian với dân nghèo bên Phi châu, Á châu hay châu Mỹ
Latinh, chia sẻ cuộc sống thường ngày của họ, nhìn cuộc đời với đôi mắt của họ
để học hiểu phải liên đới với họ như thế nào. Áp dụng nó ngay trên đất Đức này
chúng ta sẽ thấy có nhiều nghèo nàn trong tương quan giữa con người với nhau và
nghèo nàn trong lãnh vực tôn giáo.
Chúng ta đang sống trong một thời đại trong đó chủ thuyết
tương đối thấm nhập mọi lãnh vực cuộc sống. Đôi khi nó trở thành hiếu chiến và
chống lại những người cho rằng họ biết tìm sự thật hay ý nghĩa cuộc sống ở đâu.
Chúng ta nhận thấy chủ nghĩa tương đối đó ngày càng ảnh hưởng trên các tương
quan giữa con người với nhau và trên xã hội. Nó cũng được diễn tả ra trong sự
không bền chí và liên tục của biết bao nhiêu người và trong một cá nhân chủ
gnhĩa thái qúa.
Có người không còn có khả năng khước từ một điều gì đó hay
hy sinh cho người khác. Cả việc dấn thân cho công ích, trong các lãnh vực xã
hội và văn hóa cũng như cho những người cần giúp được giúp đỡ cũng suy giảm. Có
người khác thì không thể trung thành sống với một người bạn đường một cách vô
điều kiện. Người ta hầu như không tìm ra can đảm hứa trung thành với nhau và
tùy thuộc nhau suốt đời nữa, hay quyết định sống chung thủy, chân thực và cùng
nhau thành tâm tìm giải pháp cho các vấn đề.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói trong thế giới tây
âu giầu có này cũng có sự thiếu thốn: biết bao nhiêu người thiếu kinh nghiệm về
lòng lành của Chúa. Tại sao họ lại không tìm thấy điểm tiếp cận nào với các
Giáo Hội và các cơ cấu truyền thống? Tìm trả lời cho câu hỏi này là nhiệm vụ
của Hội Đồng Tòa Thánh Tái Truyền Giảng Tin Mừng cho Âu châu, nhưng nó cũng
liên quan tới mọi ngưới chúng ta. Tại Đức Giáo Hội đươc tổ chức rất tuyệt hảo.
Nhưng đàng sau các cơ cấu ấy có sức mạnh tinh thần và niềm tin nơi Thiên Chúa
hằng sống hay không? Phải thành thật nhìn nhận rằng có nhiều cơ cấu hơn là Thần
Khí. Cuộc khủng hoảng đích thật của thế giới tây âu là một cuộc khủng hoảng đức
tin. Nếu chúng ta không đi tới chỗ canh tân đích thực trong lòng tin, thì mọi
cải cách cơ cấu đều không hữu hiệu. Do đó phải tìm ra các con đường mới của
việc loan báo Tin Mừng. Một trong những con đường đó là các cộng đoàn nhỏ,
trong đó có thể sống tình bạn, cùng nhau thờ lậy Chúa; trong đó tín hữu có thể
chia sẻ kinh nghiệm đức tin trong nơi làm việc và trong gia đình, giữa những
người thân quen và làm cho Giáo Hội tới gần xã hội hơn. Điều quan trọng là sự
gắn bó với nhựa sống là bí tích Thánh Thể, vì không có Chúa Kitô chúng ta không
thể làm được gì.
Linh Tiến Khải