MỘT CHƯƠNG KHÁC TRONG DI SẢN CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊĐICTÔ XVI
Lm. Robert Dodaro OSA
Viện trưởng Viện
Augustinianum
Giáo sư môn Giáo phụ
tại Đại Học Latêranô
L'Osservatore Romano (ngày 21 Tháng Mười
Một 2012)
Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Cha Robert Dodaro cung cấp cho chúng ta một cái nhìn tổng
quát về cuốn thứ ba và là cuốn cuối cùng trong bộ tác phẩm của Đức Giáo Hoàng
Bênêđictô XVI viết về cuộc đời Chúa Giêsu.
Tại sao Đức Thánh Cha viết cuốn sách này?
Trong lời tựa, Đức Thánh Cha viết rằng ngài đã hứa viết
cuốn sách này như một “tiền sảnh” cho hai cuốn trước đây nói về hình ảnh và sứ
điệp của Đức Giêsu Nazarét. Ngài không cho rằng đây là cuốn sách thứ ba và hy
vọng rằng cuốn sách nhỏ này sẽ có thể giúp nhiều người trên con đường đi về và
đi với Đức Giêsu.
Sứ điệp chính của cuốn sách là gì?
Có lẽ sứ điệp này được tóm kết cách xác thực nhất bằng
chính lời của Đức Thánh Cha: “Từ khi chào đời, [Đức Giêsu] đã vượt qua những gì
mà thế gian cho là quan trọng và quyền lực. Song con trẻ không thần không thế
này lại chứng tỏ là người có quyền lực thật sự, người mà mọi sự cuối cùng đều
phải dựa vào. Như thế, để trở nên một kitô hữu thì phải loại bỏ những gì mà mọi
người tưởng nghĩ và ao ước, những tiêu chuẩn thịnh hành, để bước vào miền ánh sáng
chân lý của hiện hữu chúng ta và được ánh sáng này giúp đỡ để tìm ra con đường
đúng” (tr. 66-67)
Cuốn sách này nhằm đến những ai?
Đức Thánh Cha viết cuốn sách này cho mọi người: người tin
hay không tin, Công giáo hay không Công giáo. Ngài nhận thấy rằng những người
thiếu nền tảng thần học và chú giải Kitô giáo có thể thấy khó hiểu ở một vài
điểm tranh luận có tính thuật ngữ. Tuy nhiên, ngài không viết sách này cho các
chuyên viên hay học giả và hy vọng rằng mọi tín hữu sẽ đọc và tìm thấy ở đấy
nguồn trợ lực cho đức tin của mình.
Đức Thánh Cha dùng phương pháp gì để viết?
Ngài bắt đầu bằng những lời của chính các tác giả Tin Mừng
và rồi áp dụng các nghiên cứu Kinh Thánh hiện đại để tìm ra ý nghĩa lịch sử của
các trình thuật Tin Mừng. Tuy nhiên ngài cũng lưu ý rằng các tác giả Tin Mừng
“gần gũi với các nguồn và sự kiện hơn dù rằng chúng ta có hiểu biết uyên bác
hơn về lịch sử” (tr. 63). Đồng thời ngài cũng suy tư về các trình thuật Kinh
Thánh dưới ánh sáng chú giải của các thầy dạy Kitô giáo sơ thời, các Giáo phụ.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha xem xét các trình thuật về sự hạ sinh nói gì với chúng
ta về đời sống Kitô hữu ngày nay.
Đức Thánh Cha có sử dụng học thuật Kinh Thánh
hiện đại trong cuốn sách không?
Có. Trong cuốn sách, ngài tham chiếu các chú giải về Tân Ước
và Cựu Ước của vài học giả Kinh Thánh hiện đại và ngay cả những vị mới gần đây.
Tuy nhiên, cũng nên lưu ý rằng các học giả này không hẳn luôn đồng thuận với
nhau về ý nghĩa lịch sử của một vài đoạn Kinh Thánh. Ngài cũng tham khảo các
quan điểm của những giáo phụ Kitô giáo sơ thời cũng như các nhà thần học trung
cổ khi trình bày quan điểm của Giáo Hội và của riêng mình về những đoạn Kinh
Thánh khác nhau. Cuối cùng, Đức Thánh Cha bày tỏ quan điểm của riêng mình về ý
nghĩa của nhiều đoạn Kinh Thánh.
Đức Thánh Cha chỉ trích dẫn các nhà thần học và
học giả Kinh Thánh Công giáo?
Không. Trong số những anh em Tin Lành, ngài trích dẫn Karl
Barth, Klaus Berger, Otto Kaiser, Hans-Joachim Kraus, Peter Stuhlmacher.
Đức Thánh Cha luôn đồng ý với các học giả hiện
đại?
Không hẳn với hầu hết các học giả. Trước tiên, giữa họ đã
không có sự đồng thuận với nhau. Một ví dụ cho tư duy độc lập của Đức Thánh Cha
là ngài khẳng định rằng không có lý do thuyết phục nào để nghi ngờ rằng Chúa
Giêsu được sinh ra tại Bêlem dù nhiều học giả cho rằng Ngài được sinh ra tại
Nazarét (tr. 65-66). Để bảo vệ quan điểm của mình, Đức Thánh Cha nói rằng mặc
dù các tường thuật lịch sử về cuộc hạ sinh của Chúa Giêsu trong Tin Mừng
Matthêu và Luca khác nhau đáng kể, song cả hai đều đồng ý rằng Ngài được sinh
ra tại Bêlem. Và họ là những nguồn duy nhất mà chúng ta có được về vấn đề
này.
Đức Thánh Cha có nói điều gì mới trong cuốn
sách?
Nếu “mới” có nghĩa là những khám phá uyên bác hay giáo huấn
mới lạ về sự hạ sinh của Đức Kitô trái ngược hay thậm chí khác đi chút ít với
cách hiểu truyền thống của Giáo Hội thì không có. Tuy nhiên, dưới hình thức súc
tích và mới lạ, Đức Thánh Cha trình bày cách hiểu của riêng mình về sự hạ sinh
của Đức Kitô và ý nghĩa của nó đối với nhân loại.
Đức Thánh Cha có nói điều gì độc đáo trong cuốn
sách hay chỉ lập lại các quan điểm phổ biến của các học giả khác?
Ngài không có ý định đóng góp một ý kiến độc đáo, có tính
hàn lâm vào nền học thuật đã có sẵn về các trình thuật Kinh Thánh có liên quan
đến sự sinh hạ của Đức Kitô. Đồng thời, cuốn sách không phải chỉ là bản tóm đơn
thuần những quan điểm của các học giả về vấn đề này. Đức Thánh Cha thường tham
chiếu nhận định của các học giả khác nhau, nói lên những gì ngài đồng ý và
không đồng ý với họ, chủ yếu chỉ để trình bày quan điểm của mình về những bản
văn Kinh Thánh khác nhau nói về cuộc sinh hạ của Đức Kitô.
Đức Thánh Cha nói gì về sự thụ thai trinh khiết
của Đức Giêsu?
Ngài nói điều đó là đúng và có tính lịch sử. Ngài nói các
trình thuật về sự thụ thai và sinh hạ của Đức Giêsu trong Tin Mừng Matthêô và
Luca không xuất phát từ huyền thoại nhưng từ “truyền thống gia đình … ghi chép
những biến cố đã xảy ra” (tr. 53). Ngài đồng ý với Joachim Gnilka [Das Matthäusevangelium, Herders theologischer Kommentar Neuen Testament,
vol. I/1, Freiburg –
“Theo lẽ tự nhiên, chúng ta không thể gán cho Thiên Chúa
điều gì vô nghĩa hay phi lý, hoặc điều gì trái nghịch với sự sáng tạo của Ngài.
Nhưng ở đây không phải là điều phi lý hay mâu thuẫn mà chính xác hơn là điều
tích cực – với quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa, bao trùm toàn bộ hữu thể.
Theo nghĩa này, cuộc sinh hạ trinh khiết và sự phục sinh từ nấm mộ là những
viên đá góc của đức tin. Nếu Thiên Chúa không có quyền năng gì trên sự việc thì
Ngài chẳng phải là Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã có quyền năng này và, qua sự thụ
thai và phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Ngài đã khởi đầu cho cuộc tạo dựng mới.
Như vậy là Đấng Sáng Tạo nên Ngài cũng là Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Vì thế, sự
thụ thai và sinh hạ của Đức Giêsu do Đức Trinh Nữ Maria là yếu tố nền tảng của
đức tin và là dấu hiệu hy vọng của chúng ta” (tr. 57).
Các học giả Kinh Thánh hiện đại nói gì về sự
trinh thai của Đức Giêsu?
Các học giả hiện đại không đồng thuận với nhau về ý nghĩa
của các trình thuật về sự trinh thai của Đức Giêsu trong Tin Mừng Matthêô và
Luca. Ví dụ như cha Raymond E. Brown và các tác giả khác (eds.) trong cuốn Mary in the New Testament: A Collaborative
Assessment by Protestant and Roman Catholic Scholars, Philadelphia,
1978, tr. 85-97, kết luận rằng sử tính của sự trinh thai không thể được chứng
minh hay phủ nhận nhờ các bằng chứng trong Mt 1, 18-25. Các học giả cũng bất
đồng về việc Tin Mừng Luca có xác quyết hay không sự trinh thai của Đức Giêsu.
Chẳng hạn như tác giả Joseph A. Fitzmyer, trong bài "The Virginal
Conception of Jesus in the New Testament", tạp chí Theological Studies 34 (1973) 227-249,
cũng như Brown và các đồng tác giả trong cuốn Mary in the New Testament, op. cit., tr. 119-125. Tuy
nhiên, John McKenzie ("Die Mutter Jesu im NT", trong Was geht uns Maria an? Beiträge zur
Auseinandersetzung in Theologie, Kirche und Frömmigkeit, ed. E.
Moltmann-Wendel và các tác giả khác, Gütersloh 1988, 23-40, at 24-28) đã bỏ qua
các trình thuật Kinh Thánh về sự trinh thai của Đức Giêsu vì hoàn toàn thiếu
nền tảng lịch sử.
Có điều gì khác thường trong các trình thuật về
thời thơ ấu mà Đức Thánh Cha nhìn nhận là có nền tảng lịch sử?
Đức Thánh Cha nhìn nhận tính lịch sử của trình thuật chung
trong Tin Mừng Luca về mạc khải cho Đức Maria (biến cố “truyền tin”) liên quan
đến sự thụ thai và hạ sinh của Đức Giêsu. Đồng ý với học giả Kinh Thánh người
Đức Joachim Gnilka, Đức Thánh Cha đặt trọng tâm vào những lời lẽ trong Lc 2, 51
nói rằng: “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” để
nói đến vai trò của Đức Maria như là nguồn gốc chủ yếu của trình thuật trong
Tin Mừng Luca về các biến cố này. Đức Thánh Cha cũng hiểu rằng không phải tất
cả các học giả Kinh Thánh sẽ đồng ý với ngài về điều này: “Hẳn nhiên, các nhà
chú giải ‘phê bình’ sẽ có khuynh hướng từ chối những liên kết như thế vì cho
rằng nó ngây ngô. Thế nhưng tại sao lại không có một truyền thống thuộc loại
này, được giữ gìn trong vòng thân mật và đồng thời được hình thành theo hướng
thần học? Tại sao Thánh Luca lại phải bịa ra lời khẳng định rằng Đức Maria giữ
những lời lẽ và các biến cố trong lòng nếu chẳng có nền tẳng cụ thể nào để nói
như vậy? Tại sao Luca nói rằng Mẹ “cứ suy đi nghĩ lại” về những lời nào đó (Lc
2, 19 ; cf. 1, 29) mà nó chẳng được nói ra? (tr. 16).
Đức Thánh Cha cũng nhìn nhận tính lịch sử của các tường
thuật trong hai chương đầu của Tin Mừng Matthêô liên quan đến vai trò của Thánh
Giuse khi chấp nhận sự can thiệp kỳ lạ trong việc Đức Maria mang thai Đức Giêsu
cũng như các biến cố liên quan đến sự thờ lạy của các Đạo sĩ.
“Hai chương trong Tin Mừng Matthêô dành cho các trình thuật
về thời thơ ấu không phải là một suy niệm được trình bày dưới dạng câu chuyện,
nhưng trái lại: Thánh Matthêô thuật lại một câu chuyện có thật, đã được tinh
luyện qua suy tư và chú giải thần học, và như vậy giúp chúng ta hiểu rõ hơn về
mầu nhiệm Đức Giêsu” (tr. 119).
Đức Thánh Cha cũng công nhận tính lịch sử của trình
thuật về các Đạo Sĩ du hành tới Bêlem và thờ lạy Đức Kitô mới sinh ra tại đấy.
Đức Thánh Cha nói gì về dân Do Thái trong cuốn
sách này?
Ngài không nói gì về dân tộc Do Thái trong cuốn sách. Tuy
nhiên, Đức Thánh Cha khẳng định rõ ràng rằng Chúa Giêsu được Đức Maria và Thánh
Giuse nuôi dạy để trở nên một người Do Thái đạo đức, và cả hai vị đều là những
người giữ luật Do Thái rất thành tâm. Lại nữa, Đức Thánh Cha cũng đặt biệt nhấn
mạnh đến lời của Chúa Giêsu được ghi trong Mt 5, 17 rằng Ngài đến không phải để
hủy bỏ lề luật nhưng làm cho nó trở nên trọn vẹn. Đức Thánh Cha phản đối cách
giải thích về đời sống và sứ vụ của Chúa Giêsu cho rằng Ngài là một “nhà cách
mạng” hay “người chủ trương tự do” đối với lòng đạo đức của người Do Thái. Đức
Thánh Cha nói rằng Chúa Giêsu tấn công sự đạo đức giả chứ không phải lòng đạo
đức của dân tộc Do Thái” (tr. 120)
Tác giả của cuốn sách này là Đức Giáo Hoàng,
liệu người Công giáo có buộc phải chấp nhận các quan điểm của nó?
Người Công giáo chỉ buộc chấp nhận những gì liên quan đến
Kinh Thánh và Chúa Giêsu Kitô mà Giáo Hội Công Giáo dạy cách rõ ràng trong sách
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo. Đức Giáo Hoàng không thêm bớt hay thay đổi bất kỳ
giáo huấn nào trong cuốn sách này.
Tác giả bài viết: Lm. Phaolô Nguyễn Minh
Chính (gpquinhon.org)
Nguồn tin: L'Osservatore Romano