Chúa
Kitô phục sinh giúp can đảm và dấn thân sống các thực tại
thường ngày
vi.radiovaticana.va2013-04-03
17:53:17 – Sự Phục Sinh của Chúa Kitô soi sáng cuộc đời, giúp
chúng ta tin tưởng sống các thực tại thường ngày và can đảm dấn thân đương đầu
với chúng.
Đức
Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 70.000 tín hữu và du khách hành
hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 3-4-2013 tại quảng
trường thánh Phêrô. Trong số hàng trăm phái đoàn tham dự có nhóm 13 tân Phó Tế
của dòng Tên và thân nhân, trong đó có hai thầy Việt Nam là thầy Cao Gia An và
thầy Nguyễn Mai Kha, đã được Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi Chủ tịch Hội Đồng Tòa
Thánh văn hóa truyền chức chiều thứ ba mùng 2-4-2013 tại nhà thờ Chúa Giêsu ở
Roma. Ngoài ra còn có một nhóm tín hữu Việt
Trong
khi chờ đợi Đức Thánh Cha các bạn trẻ đã thay phiên nhau ca hát. Xe díp chở Đức
Thánh Cha đã đi một vòng giữa các lối đi quanh quảng trường để ngài chào tín
hữu.
Mở đầu
bài huấn dụ Đức Thánh Cha Phanxicô nói ngài tiếp tục trình bầy các bài giáo lý
về Năm Đức Tin. Trong Kinh Tin Kính chúng ta lập lại kiểu nói: “Ngày thứ ba
Người đã sống lại theo lời Thánh Kinh”. Đó là biến cố chúng ta đang cử hành: Sự
Sống Lại của Chúa Giêsu là trung tâm sứ điệp Kitô ngay từ đầu đã vang lên và
được thông truyền để đến được với chúng ta.
Thánh
Phaolô viết cho các tín hữu Côrintô như sau: “Trước hết tôi đã truyền lại cho
anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng
ta, đúng như lời Thánh Kinh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã chỗi
dậy, như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai”
(1 Cr 15,3-5). Lời tuyên xưng đức tin ngắn gọn này loan báo Mầu Nhiệm Phục
Sinh, với các lần hiện ra đầu tiên của Chúa Phục Sinh với thánh Phêrô và với
Nhóm Mười Hai: Cái Chết và sự Sống Lại của Chúa Giêsu là trung tâm niềm hy vọng
của chúng ta. Không có niềm tin này nơi cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu
niềm hy vọng của chúng ta sẽ yếu ớt, và cũng sẽ không phải là niềm hy vọng nữa,
và chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là trung tâm niềm hy vọng của
chúng ta. Thánh Tông Đồ khẳng định: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng
tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em”
(c. 17). Đức Thánh Cha ghi nhận tình trạng đức tin hiện nay như sau:
Rất
tiếc là thường khi người ta đã tìm làm lu mờ đi niềm tin nơi sự Phục Sinh của
Chúa Giêsu, và các nghi ngờ cũng len lỏi vào giữa cả các tín hữu nữa. Một chút
niềm tin đó là “tin vào nước hoa hồng”, như người ta thường nói: nó không phải
là niềm tin mạnh mẽ. Và điều này xảy ra vì sự hời hợt bề ngoài, đôi khi vì sự
thờ ơ, người ta lo lắng cho hàng ngàn chuyện được coi là quan trọng hơn đức
tin, hay vì một quan điểm chỉ ở chiều ngang của cuộc sống. Nhưng chính sự Phục
Sinh mở ra niềm hy vọng lớn hơn cho chúng ta, bởi vì nó mở ra cho cuộc sống
chúng ta và cuộc sống của thế giới tương lai vĩnh cửu của Thiên Chúa, niềm hạnh
phúc tràn đầy, sự chắc chắn rằng sự dữ, tội lỗi, cái chết có thể được vượt
thắng. Và điều này đưa chúng ta tới chỗ tin tưởng sống các thực tại thường ngày
hơn, đương đầu với chúng với lòng can đảm và dấn thân. Sự Phục Sinh của Chúa
Kitô soi sáng các thực tại thường ngày ấy với một ánh sáng mới mẻ. Sự Phục Sinh
của Chúa Kitô là sức mạnh của chúng ta!
Nhưng
sự thật đức tin về sự Phục Sinh của Chúa Kitô đã được thông truyền cho chúng ta
như thế nào? Có hai loại chứng tá trong Thánh Kinh Tân Ước: vài chứng tá là
trong hình thức của lời tuyên xưng đức tin, nghĩa là các công thức tổng hợp chỉ
cho thấy trung tâm của đức tin; các công thức khác trái lại trong hình thức
trình thuật biến cố Phục Sinh và các sự kiện gắn liền với nó. Hình thức thứ
nhất là hình thức tuyên xưng đức tin, chẳng hạn như lời tuyên xưng mà chúng ta
vừa mới nghe, hay hình thức của Thư gửi tín hữu Roma, trong đó thánh Phaolô
viết: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên
Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10,9).
Ngay từ những bước đầu tiên của Giáo Hội niềm tin nơi Mầu Nhiệm cái Chết và sự
Phục sinh của Đức Giêsu đã vững vàng và rõ ràng. Tuy nhiên, hôm nay tôi muốn
dừng lại trên các chứng tá trong hình thái thứ hai là hình thái trình thuật mà
chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng. Trước hết chúng ta ghi nhận rằng các chứng
nhân đầu tiên của biến cố này là các phụ nữ. Vào tảng sáng, họ ra mồ để ướp xác
Chúa Giêsu, và họ tìm thấy dấu chỉ đầu tiên: đó là ngôi mộ trống (X. Mt Mc
16,1). Tiếp theo đó là cuộc gặp gỡ với một sứ giả của Thiên Chúa báo cho biết
rằng Đức Giêsu thành Nagiarét, Đấng bị đóng đanh, không ở đây, Người đã sống
lại (cc. 5-6). Rồi Đức Thánh Cha đã đề cao các phụ nữ như sau:
Các
phụ nữ đã được thúc đẩy bởi tình yêu thương và họ biết tiếp nhận lời báo đó với
đức tin: họ tin và ngay tức khắc họ thông truyền nó, chứ không giữ nó cho riêng
mình. Niềm vui được biết rằng Chúa Giêsu sống, niềm hy vọng tràn ngập con tim
không thể kìm hãn được. Điều này cũng phải xảy ra trong cuộc sống chúng ta.
Chúng ta cảm thấy niềm vui là Kitô hữu! Chúng ta tin nơi một Đấng Phục Sinh đã
chiến thắng sự dữ và cái chết! Chúng ta có can đảm “đi ra” để đem niềm vui và
ánh sáng này vào mọi nơi của cuộc sống thường ngày! Sự Phục Sinh của Chúa Kitô
là sự chắc chắn lớn nhất của chúng ta; và nó là kho tàng qúy báu nhất! Làm sao
lại không chia sẻ với các người khác kho tàng đó, sự chắc chắn đó? Nó không
phải chỉ để cho chúng ta mà thôi, mà là để thông truyền nó, trao ban nó cho
người khác, chia sẻ với người khác. Đó chính là chứng tá của chúng ta.
Có một
yếu tố khác nữa. Trong các lời tuyên xưng đức tin của Tân Ước chỉ có các người
nam, các Tông Đồ, chứ không phải các phụ nữ được nhớ tới như các chứng nhân của
sự Phục Sinh. Điều này bởi vì theo Luật do thái thời đó, các phụ nữ và trẻ em
không thể làm chứng tá một cách đáng tin cậy. Trái lại trong các Phúc Âm phụ nữ
có một vai trò hàng đầu nền tảng. Ở đây chúng ta có thể tiếp nhận một yếu tố
thuận lợi cho tính cách lịch sử của sự Phục Sinh: nếu nó đã là một sự kiện được
bịa ra, trong bối cảnh của thời đó, thì nó sẽ không được gắn liền với chứng tá
của các phụ nữ. Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:
Trái
lại, các thánh sử kể lại một cách đơn sơ điều đã xảy ra: các phụ nữ là các
chứng nhân đầu tiên. Điều này nói muốn rằng Thiên Chúa không lựa chọn theo các
tiêu chuẩn của con người: các chứng nhân đầu tiên của biến cố Chúa Giêsu sinh
ra là các mục đồng, những người đơn sơ khiêm hạ; các chứng nhân đầu tiên của sự
Phục Sinh là các phụ nữ. Và điều này thật là đẹp. Và đây một chút là sứ mệnh
của phụ nữ: của các bà mẹ, của đàn bà! Làm chứng cho con cái cháu chắt biết
rằng Chúa Giêsu sống, là Đấng đang sống, đã phục sinh.
Hỡi các bà mẹ và chị em phụ nữ, hãy tiến lên với chứng tá đó!
Đối
với Thiên Chúa chỉ có con tim là đáng kể, khi chúng ta rộng mở cho Người, nếu
chúng ta giống như trẻ em, chúng tin tưởng. Nhưng điều này cũng khiến cho chúng
ta suy nghĩ về sự kiện trong Giáo Hội và trên con đường lòng tin, nữ giới đã và
đang có một vai trò đặc biệt như thế nào trong việc rộng mở các cánh cửa cho
Chúa, trong việc theo Người và thông truyền Gương mặt của Người, bởi vì cái
nhìn của đức tin luôn luôn cần đến cái nhìn đơn sơ và sâu xa của tình yêu. Các
Tông Đồ và các môn đệ vất vả hơn để tin. Các phụ nữ thì không. Thánh Phêrô chạy
tới mồ, nhưng dừng lại ở ngôi mộ trống; còn Tôma phải sờ tay vào các vết thương
của thân thể Chúa Giêsu. Cả trong con đường lòng tin của chúng ta thật là quan
trọng biết và cảm thấy rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, không sợ hãi yêu
thương Chúa: đức tin được tuyên xưng với môi miệng và con tim, với các lời nói
và với tình yêu.
Sau
các cuộc hiện ra với các phụ nữ Chúa Giêsu hiện diện một cách mới mẻ: đó là
Đấng chịu đóng đanh, nhưng thân xác Người vinh hiện; Người không trở lại với
cuộc sống trần gian nữa, nhưng trong một điều kiện mới mẻ. Ban đầu họ không
nhận ra Người, và chỉ qua các lời và các cử chỉ của Người mắt họ mới mở ra:
cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh biến đổi, trao ban một sức mạnh mới cho đức tin,
một nền tảng không thể sụp đổ. Đối với chúng ta cũng thế, có biết bao nhiêu dấu
chỉ qua đó Chúa Phục sinh tỏ hiện ra: Thánh Kinh, bí tích Thánh Thể và các Bí
tích, lòng bác ái, các cử chỉ của tình yêu đem đến một tia sáng của Chúa Phục
Sinh. Chúng ta hãy để cho mình được chiếu sáng bởi sự Phục Sinh của Chúa Kitô,
chúng ta hãy để cho mình được biến đổi bởi sức mạnh của Người, để qua chúng ta
trong thế giới các dấu chỉ của chết chóc nhường chỗ cho các dấu chỉ của sự
sống. Tôi thấy có biết bao nhiêu bạn trẻ tại quảng trường. Họ đây: với họ tôi
xin nói: Các con hãy mang theo sự chắc chắn này: đó là Chúa sống và bước đi bên
cạnh chúng ta trong đời. Đó là sứ mệnh của chúng ta! Hãy đưa niềm hy vọng đó
tiến lên. Hãy cắm neo vào niềm hy vọng ấy: cái neo này ở trên trời: hãy cầm
chắc lấy dây neo, hãy cắm neo và đưa niềm hy vọng tiến lên. Các con là chứng
nhân của Chúa Giêsu, hãy làm chứng rằng Người sống và điều này sẽ trao ban hy
vọng cho chúng ta, sẽ trao ban hy vọng cho thế giới hơi già nua này vì chiến
tranh, vì sự dữ vì tội lỗi. Các bạn trẻ ơi hãy tiến lên!
Đức
Thánh Cha đã chào các nhóm tín hữu bằng tiếng Ý. Ngài đặc biệt cám ơn các bạn
trẻ Libăng đã soạn các bài suy niệm cho buổi đi đàng Thánh Giá tối thứ sáu Tuần
Thánh và cám ơn các ca đoàn tiếng Anh đã hát mừng ngài. Sau cùng Đức Thánh Cha
đã cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Linh
Tiến Khải