(xuanbichvietnam.net) Tháng Chín 25th, 2013.
Một vài ngày sau bức thư của Đức Phanxicô gởi cho nhà sáng lập nhật
báo La Repubblica, thì hôm thứ Ba 24.9.2013, nhật báo này đã phổ biến một lá
thư khác, lần này là của Đức Bênêđictô XVI. Đây là bức thư trả lời cho một cuốn
sách của Piergiorgio Odifreddi, nhà khoa học người Ý, công khai vô thần và bài
giáo sĩ. Trong bức thư dài của mình, Đức Bênêđictô XVI đã bắt đầu cuộc đối
thoại với Piergiorgio Odifreddi. Ngài phản bác lối giải thích của ông ta về vấn
đề ấu dâm nơi hàng giáo sĩ và về hình ảnh của Chúa Giêsu lịch sử.
Đức Thánh Cha đã khai triển một câu trả lời trong bốn điểm, phản
ứng lại tác phẩm của nhà toán học này. Cuốn sách của ông ta đặc biệt phê bình
các tác phẩm của Đức Bênêđictô XVI về Chúa Giêsu thành
Đức Bênêđictô XVI cám ơn nhà toán học này vì “cuộc đối thoại nghiêm
chỉnh” về những vấn đề này, nhưng ngày tố giác lối ứng xử đối với các vấn
đề liên quan đến linh mục và luân lý Công giáo. Liên quan đến vấn đề ấu dâm nơi
hàng giáo sĩ, Đức Bênêđictô XVI, người đi hàng đầu trong việc chống lại gương
mù gương xấu này, đã mạnh mẽ nhắc lại : “Tôi đã chưa bao giờ tìm cách che
giấu sự việc”. “Người ta không được trình bày cách phóng đại cách xử sự sai
lệch này như thể đó là một vết nhơ bẩn của riêng Công giáo”. Và ngài nhấn
mạnh : “Người ta không thể làm cho câm lặng sự dữ từ bên trong Giáo Hội,
nhưng người ta cũng không thể làm cho câm lặng phần to lớn sự tốt lành và trong
sáng mà đức tin Kitô giáo đã để lại trong suốt dòng thế kỷ”.
“Những gì ông nói về hình ảnh Chúa Giêsu không xứng đáng với cương
vị khoa học gia của ông”, Đức Bênêđictô XVI nói tiếp, bằng cách dựa vào nhiều
tác giả bàn về những phê bình của ông ta và đồng thời khuyên ông ta đọc các tác
giả đó. Câu trả lời của Đức Thánh Cha, chứng tỏ sự uyên bác và lập luận vững
chắc, đã mạnh mẽ bác bỏ một số khẳng định của nhà toán học này về “Chúa Giêsu
thành Nazareth” và lối giải thích chú giải-lịch sử của ngài.
“Thưa ông giáo sư, lời phê bình của tôi phần nào cứng rắn. Nhưng sự
thẳng thắn là thành phần của đối thoại : chỉ bằng cách này mà tri thức có
thể lớn lên. Ông đã rất thẳng thắn với tôi, và do đó ông sẽ chấp nhận rằng tôi
thẳng thắn với ông”.
Dưới đây là một vài đoạn trong bức thư của Đức Bênêđictô XVI :
“Thưa
ông giáo sư Odifreddi, (…) tôi xin cám ơn ông vì đã tìm cách, cho đến những chi
tiết, đối chất với cuốn sách của tôi và do đó với đức tin của tôi ; đó là
phần lớn những gì tôi đã mô tả trong diễn từ của tôi ở Giáo triều Rôma nhân dịp
Giáng Sinh 2009. Tôi cũng phải cám ơn ông vì sự trung thực mà ông đã bàn đến
bản văn của tôi, bằng việc chân thành tìm cách trả lại công bằng cho nó.
Nhận xét của tôi liên quan đến cuốn sách của ông là trong tổng thể
mâu thuẫn của nó. Tôi đã đọc một số phần của nó cách thích thú và ích lợi.
Ngược lại, nơi một số phần khác, tôi đã kinh ngạc về một sự gây hấn nào đó và
sự xấc xược của lối lập luận. (…)
Nhiều lần ông đã lưu ý với tôi rằng thần học là khoa học-viễn
tưởng. Về vấn đề này, tôi ngạc nhiên khi thấy ông coi cuốn sách của tôi đáng
một cuộc thảo luận chi tiết như thế. Cho phép tôi đề nghị bốn điểm liên quan
đến một vấn đề như thế :
1. Thật đúng khi khẳng định rằng “khoa học”, theo nghĩa chặt nhất
của từ, đó chỉ là toán học, nhưng ông đã cho tôi biết rằng thật thích hợp để
phân biệt thêm giữa số học và hình học. Trong tất cả các môn đặc thù này, các
phương pháp khoa học đều có hình thức riêng của nó theo tính đặc thù của đối
tượng của chúng. Điều chính yếu là áp dụng một phương pháp có thể chứng thực,
loại trừ tính tùy tiện và bảo đảm tính hợp lý trong các hình thái khác nhau của
mỗi môn.
2. Ít ra ông cần nhìn nhận rằng, trong khung cảnh lịch sử và của tư
tưởng triết học, thần học đã sản sinh những kết quả bền vững.
3. Một chức năng quan trọng của thần học là chức năng duy trì
tôn giáo gắn liền với lý trí và lý trí với tôn giáo. Hai chức năng này có tầm
quan trong thiết yếu đối với nhân loại. Trong cuộc đối thoại của tôi với
Habermac, tôi đã chứng minh rằng có những bệnh lý của tôn giáo và – không kém
nguy hiểm – những bệnh lý của lý trí. Cả hai đều cần đến nhau và liên kết chúng
chặt chẽ với nhau là một bổn phận quan trọng của thần học.
4. Mặt khác, khoa học - viễn tưởng / hư cấu tồn tại trong khuôn khổ
của những khoa học khác nhau. Những gì ông đã trình bày về các lý thuyết
liên quan đến khởi đầu và cùng đích của thế giới nơi Heisenberg, Schrödinger, …,
tôi muốn chỉ điều đó như là khoa học-viễn tưởng theo nghĩa đúng đắn của từ
ngữ : nó hệ tại những cái nhìn và những viễn tưởng để đạt tới một sự hiểu
biết đích thực nhưng đó chỉ là những xuất hiện mà chúng ta tìm cách đến gần
thực tại. Vả lại, văn phong lớn của khoa học viễn tưởng cũng có trong lý
thuyết tiến hoa. Gien ích kỷ của Richard Dawkins là một ví dụ cổ điển khoa học
viễn tưởng. Người vĩ đại Jacques Monod đã viết những câu mà ông ta đã chắc chắn
đưa vào trong công trình của ông ta như là thuần túy thuộc về khoa học viễn
tưởng. Tôi trích dẫn : “Sự xuất hiện của động vật tứ chi có xương sống…có
nguồn gốc của nó từ sự kiện một chú cá nguyên thủy ‘đã chọn’ đi thám hiểm mặt
đất, mà thế nhưng trên đó nó không thể di chuyển nếu không bằng cách nhảy cách
vụng về và từ đó tạo nên, như là hệ quả của một sự thay đổi ứng xử, áp lực chọn
lọc nhờ đó các chi vững mạnh của động vật tứ chi có xương sống hẳn đã được phát
triển. Trong số các con cháu của chú cá thám hiểm can đảm này, Magellan của
cuộc tiến hóa, một số con có thể chạy với tốc độ cao hơn 70 km giờ…” (trích dẫn theo bản
tiếng Ý “Il caso e la necessità”, Milan 2001, tr.117 và tt).
Đối với tất cả các chủ đề được thảo luận cho đến đây, đó là một
cuộc đối thoại nghiêm chỉnh mà – như tôi đã nhiều lần lặp đi lặp lại – tôi biết
ơn. Tuy nhiên liên quan đến chương về linh mục và luân lý công giáo và cách
khác nữa các chương về Chúa Giêsu thì vấn đề không như thế. Đối với những gì
ông tuyên bố về cuộc lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên nơi các linh mục, tôi
chỉ có thể – như ông biết – ghi nhận điều đó với một sự rụng rời sâu xa. Tôi đã
chưa bao giờ tìm cách che giấu những sự việc này. Việc sức mạnh của sự dữ thấm
nhập cho đến tận trong thế giới đức tin, đối với chúng tôi, là một điều đau khổ
mà, một mặt, chúng tôi phải chịu đựng, đang khi mà, mặt khác, chúng tôi phải
cùng lúc làm tất cả hết sức có thể để những trường hợp tương tự khác không còn
nảy sinh nữa. Đó cũng không phải là một sự an ủi khi biết rằng, theo những
nghiên cứu của các nhà xã hội học, phần trăm các linh mục bị buộc tội
không cao hơn phần trăm hiện nay đối với các loại nghề nghiệp tương tự khác. Dù
sao đi nữa, không được trình bày cách phóng đại sự sai lệch này như thể đó là
một vết nhơ riêng của đạo Công giáo.
Nếu không được phép câm lặng đối với sự dữ trong Giáo Hội, thì cũng
không được câm lặng trước phần to lớn sự tốt lành và trong sáng mà đức tin đã
sản sinh – từ thánh Biển Đức và em gái Scolastica của ngài, từ thánh Phanxicô
và thánh Clara ở Assidi cho đến thánh Têrêxa và thánh Gioan Thánh Giá, những vị
đại thánh của đức ái như Vinh Sơn và Camillo de Lellis cho đến Mẹ Têrêxa
Calcutta và những nhân vật cao quý của thế kỷ 19. Cũng đúng rằng ngày nay đức
tin thúc đẩy nhiều người đến tình yêu vô vị lợi, phục vụ người khác, đến sự
chân thành và công bằng. (…)
Những gì ông nói về con người Chúa Giêsu không xứng đáng với cương
vị khoa học gia của ông.
Liên quan đến Chúa Giêsu, nếu ông đặt câu hỏi như thể, rốt cục,
chúng ta không biết gì và, với tư cách là nhà khoa học, không gì có thể chấp
nhận được, thì như thế tôi chỉ có thể, cách cương quyết, mời ông tỏ ra có khả
năng hơn chút nữa về quan điểm lịch sử. Về điều này, tôi đặc biệt khuyên ông
đọc bốn bộ mà Martin Hengel (Phân khoa thần học Tübingen của Tin Lành) đã phổ
biến cùng với Maria Schwemer : đó là một ví dụ tuyệt vời của sự chính xác
lịch sử và những thông tin lịch sử rộng rãi. Đứng trước điều đó, những gì ông
nói liên quan đến Chúa Giêsu là một sự xấc xược mà ông không nên lặp đi lặp
lại. Đó là một sự kiện không thể chối cãi rằng trong khoa chú giải, nhiều thứ
đã được viết do thiếu nghiêm chỉnh. Cuộc hội thảo ở Hoa Kỳ về Chúa Giêsu mà ông
đã trích dẫn ở các trang 105 trở đi một lần nữa chỉ xác nhận những gì Albert
Schweitzer đã viết về « la Leben-Jesu-Forschung » (Nghiên cứu
về đời sống của Chúa Giêsu) và cái gọi là « Chúa Giêsu lịch sử »
nhiều nhất là bức gương của các ý tưởng của các tác giả. Tuy nhiên, những hình
thức làm việc lịch sử được viết tồi như thế không làm tổn hại chút nào tầm quan
trọng của việc nghiên cứu lịch sử nghiêm chỉnh, vốn đã mang lại cho chúng tôi
những hiểu biết đích thực liên quan đến lời rao giảng và con người của Chúa
Giêsu.
(…) Vả lại, tôi phải mạnh mẽ đẩy lùi lời khẳng định của ông (trang
126) theo đó tôi đã trình bày lối chú giải phê bình lịch sử như là một dụng cụ
của kẻ phản kitô. Bàn về trình thuật những cám dỗ của Chúa Giêsu, tôi đã chỉ
lấy lại luận đề của Soloviev theo đó lối chú giải phê bình lịch sử cũng có thể
được sử dụng nơi kẻ phản kitô – đó là một sự kiện không thể chối cãi được. Tuy
nhiên, đồng thời – và cách riêng trong tiền đề của cuốn sách đầu tiên của tôi
về Chúa Giêsu thành Nazareth – tôi đã làm sáng tỏ cách rõ ràng rằng lối chú
giải phê bình lịch sử là cần thiết cho một đức tin vốn không đề nghị những
huyền thoại với những hình ảnh lịch sử nhưng đòi hỏi một phương pháp lịch sử
đích thực : như thế cũng cần phải trình bày thực tại lịch sử của những lời
khẳng định của ông một cách lịch sử. Về điều đó cũng không đúng đối với ông khi
nói rằng tôi đã chỉ quan tâm đến những nền tảng không thay đổi : trái lại,
mọi nỗ lực của tôi có mục tiêu cho thấy rằng Chúa Giêsu được mô tả trong Tin
Mừng cũng là Chúa Giêsu lịch sự thực sự ; rằng đó là một lịch sử thực sự
đã xảy đến. (…)
Với chương 19 trong sách của ông, chúng ta trở lại những khía cạnh
tích cực của cuộc đối thoại của ông với tư tưởng của tôi. (…) Cho dù lối giải
thích của ông về Ga 1,1 là rất xa với những gì tác giả Tin Mừng muốn nói, thế
nhưng có một sự đồng nhất quan trọng. Nhưng nếu ông muốn thay thế Thiên Chúa
bằng “Thiên Nhiên”, thì câu hỏi còn lại là biết thiên nhiên này là ai hay đó là
gì. Ông không xác định nó chỗ nào cả và do đó nó xuất hiện như một vị thần phi
lý vốn không giải thích được gì.
Đặc biệt tôi muốn lưu ý ông rằng trong tôn giáo toán học của ông,
ba chủ đề căn bản của cuộc sống con người không được xét đến : tự do, tình
yêu và sự dữ. Tôi ngạc nhiên rằng bằng một cử chỉ đơn giản ông đã thanh toán sự
tự do mà hiện nay đã và vẫn còn đang là giá trị căn bản của thời hiện đại.
Trong sách của ông, tình yêu không hề xuất hiện và không có thông tin nào liên
quan đến sự dữ. Cho dù khoa sinh học thần kinh nói hay không nói gì về tự do,
trong bi kịch hiện nay của lịch sử chúng ta, thì nó vẫn hiện diện như là một
thực tại quyết định và phải được xét đến. Nhưng tôn giáo toán học của ông không
mang lại thông tin nào về sự dữ. Một tôn giáo bỏ qua những đòi hỏi căn bản này
thì vẫn vô nghĩa.
Thưa Giáo sư, phê bình của tôi đối với cuốn sách của ông có phần
nào cứng rắn. Nhưng sự thẳng thắn là thành phần của cuộc đối thoại ; sự
hiểu biết chỉ có thể lớn lên theo cách này. Ông đã rất thẳng thắn và tôi hy
vọng rằng ông sẽ chấp nhận lời phê bình của tôi trong tinh thần đó. Dù sao tôi
đánh giá tích cực sự kiện rằng qua sự đối chất của ông với cuốn Dẫn vào Kitô
giáo của tôi, ông đã tìm kiếm một cuộc đối thoại cởi mở với đức tin của Giáo
Hội Công Giáo và, cho dù có những tương phản, thì trong phạm vi trung tâm, vẫn
có nhiều điểm đồng nhất.
Cầu chúc thân ái và chúc công việc của ông tiến triển tốt đẹp”
Tý Linh theo Radio Vatican