Tiếng nói của giáo hội về đồng
tính luyến ái
6/28/2015
11:57:19 AM – ...Hội Thánh bị xuyên tạc là kỳ thị người đồng tính.
Trong khi đó, Hội Thánh vẫn là tổ chức lớn nhất, quy mô nhất và quy
củ nhất để chăm sóc và yêu thương những người LGBT.
A. TIẾNG NÓI CỦA GIÁO HỘI VỀ ĐỒNG
TÍNH LUYẾN ÁI
Hội Thánh Công Giáo luôn khẳng định
mình là Mẹ và Thầy trong các vấn đề luân lý và nhân vị. Điều này
cũng dễ hiểu, bởi không có tổ chức, định chế nào có thể có một
truyền thống lâu đời và vững mạnh hơn tổ chức của Hội Thánh. Hơn
nữa, Hội Thánh không nói tiếng nói của riêng mình nhằm có lợi cho
tổ chức của mình theo từng thời gian, hoặc để đáp lại một áp lực
từ một thế lực hoặc ưu đãi cho một nhóm người nào. Tiếng nói của
Hội Thánh là tiếng nói nhất quán vì đến từ Chúa và nhằm bảo vệ
lâu đài luân lý của nhân loại. Các phương tiện truyền thông xã hội hôm
nay tự nhận cho mình sứ mệnh thay đổi thế giới khi làm ngược lại
tất cả những gì Hội Thánh loan báo và cổ võ. Họ rất tức bực khi
không thể lay chuyển thành trì này; khi Hội Thánh không hòa giọng với
họ trong “bài ca tiến bộ” của nhân loại.
1. Về giới tính: Trung thành với mạc khải Thánh Kinh từ sách Sáng Thế 1,26
“Từ ban đầu Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ”, Giáo Hội
luôn cho rằng giới tính con người chỉ là hoặc nam hoặc nữ. Các biểu
hiện khác về giới tính khác với hai giới tính này là một rối
loạn, chứ không phải là một sự tự nhiên. Vậy nên, Giáo Hội không cho
phép giải phẫu chuyển giới, nhưng cho phép giải phẩu để khắc phục
tối đa các khiếm khuyết về giới của mình. Có nghĩa là có thể giải
phẫu để có thể trở nên chính mình hơn về mặt giới tính.
Trong khi đó chủ thuyết về giới tính
cho rằng: phái tính (sex) nam hay nữ chỉ là một dữ kiện về pháp lý
để con người ghi vào trong hồ sơ Khai Sinh, nó không phải là dữ kiện
sinh học. Đối với họ, nam hay nữ chỉ có tính xã hội, nó được lịch
sử đặt ra để giai cấp đàn ông thống trị phụ nữ nên bây giờ cần gạt
bỏ.
Họ loại bỏ vấn đề khác biệt giới
tính thế nào? Thưa “Thuyết về giới phủ nhận sự khác biệt giới tính “tự
nhiên” giữa nam và nữ. Họ phủ nhận sự khác biệt sinh học đó và cho rằng sự
khác biệt nam nữ chỉ là kết quả của văn hoá, nó là một cấu trúc xã hội; nam và
nữ chẳng qua chỉ là những vai trò xã hội-văn hoá khác nhau mà xã hội tuỳ tiện đề
ra, và do đó có thể phá đổ. Thiên nhiên hay tự nhiên chẳng liên quan gì tới đây
cả. Do đó, người ta cũng bảo rằng không hề có xu hướng tự nhiên đẩy người nam
và người nữ đến với nhau. Xu hướng này cũng chỉ lệ thuộc vào những điều kiện xã
hội”.
Nhóm này chủ trương rằng quyết định
giới tính của mình hoàn toàn tự do thuộc về chọn lựa của cá nhân.
Mình nhận biết căn tính giới tính của mình qua xu hướng tính dục của
bản thân–ví dụ đồng tính, khác tính hay lưỡng tính–. Không có quy chiếu khách
quan nào làm chuẩn mực cả. Không ai có quyền nói người nào đó là nam
hay nữ hay giới gì cả. Điều đó tùy vào quyết định của chủ thể;
Đối với họ, hôn nhân là sự kết hợp của hai người theo sở thích tính
dục riêng, chứ không phải kết hợp của một nam một nữ để yêu thương
và duy trì nòi giống. Các chuẩn mực luân lý, quy tắc đạo đức xã
hội đều là dư thừa đối với người theo “thuyết về giới tính”.
Tựu trung, lý thuyết này cho rằng khác
biệt nam hay nữ chỉ là do văn hóa xã hội. Đây là mô hình kiểu mẫu
của cái gọi là tiến bộ, là văn minh hiện đại: Không có chân lý khách
quan, không có tiêu chuẩn luân lý, không có điểm quy chiếu như Thiên
Chúa hay thiên nhiên, tự nhiên nữa, mà là và phải là theo chủ quan
của cái “Tôi”.
2. Về đa thê: Đạo luật đa
thê của Kenya vừa qua là một bước thụt lùi trong sự phát triển của
xã hội. Nó hạ thấp phẩm giá của người nữ, xem họ chỉ là công cụ
khoái lạc của người nam. Người chồng muốn lấy mấy vợ thì lấy mà
cũng chẳng hỏi ý kiến người vợ cả. Dắt người vợ mới về nhà cũng
giống như dắt con trâu con bò vậy thôi. Oái ăm thay, các phong trào nữ
quyền trên thế giới hoặc phải lên tiếng ủng hộ hoặc chỉ biết ngậm
tăm trước đạo luật này. Theo CNN, có nhóm nữ quyền đã lên tiếng cho đây
là một thắng lợi của mình, cho dù chính các nữ nghị sĩ Kenya thì
tức tối bỏ phòng họp của quốc hội. Ở đây ta thấy sự trục trặc ý
thức hệ của nhóm Nữ Quyền hay còn gọi là Bình Quyền khi luôn khẳng
định rằng: “mọi chế độ hôn nhân đều phải được đối xử công bình, và
trong xã hội đa nguyên phải có nhiều hình thái hôn nhân khác nhau”.
Các hình thức khác nhau đó có thể là tục đa thê và hôn nhân đồng
giới. Có thể nói, đạo luật đa thê chính là con đẻ và là quái thai
của lý thuyết này. Để cảnh báo, một cây bút cho tờ Washington Post
bình luận: “hoặc chúng ta (nước Mỹ) cũng phải ra sắc lệnh về đa thê,
hoặc chúng ta phải xem lại các giới hạn của chúng ta trong các vấn
đề đấu tranh cho bình quyền”.
Có ý kiến cho rằng, chẳng phải chính
Thánh Kinh chấp nhận đa thê đó sao?
Đây là cách đọc và hiểu Thánh Kinh của
một số người mà nổi bật trong đó là ông Joseph Smith người sáng lập
đạo Mormon, hay còn gọi là “Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau”. Ông ta
luôn khư khư cuốn Thánh Kinh bên mình và đồng thời có đến 34 vợ, thậm
chí có tài liệu cho rằng 76 vợ (!). Trong số đó có tới 11 bà chỉ
từ 14 – 20 tuổi; có những bà là chị em ruột, là hai mẹ con; có bà
là cháu ruột, là em dâu của giáo chủ này. Vâng cũng chỉ vì theo ông,
sách Sáng Thế đã đề cập đến Abraham, Giacop, vv... có nhiều vợ (x. St
4,19; 16,1-4; 29,18-30,24). Ông không biết hay vô ý bỏ quên chi tiết “tự
ban đầu Thiên Chúa sáng tạo một người nam và một người nữ”, và Chúa
Giêsu đã đến để kiện toàn lề luật (Ga 18,28), về vấn đề hôn nhân một
vợ một chồng mà Ngài đã nói rõ trong Phúc Âm Mt 19, 4-5.
Về hôn nhân giữa những người đồng tính.
Giáo Hội luôn nhất quán: hôn nhân là sự kết hợp của một nam và một
nữ, với mục đích là thiện hảo cho đôi vợ chồng và truyền sinh. Hai
mục đích này luôn song hành, nên Giáo Hội không thể nhìn nhận Hôn Nhân
Đồng Giới. Hơn nữa, bởi nhận thức rằng, những người LGBT tự bản
chất là những bất thường về tâm sinh thể lý, bất thường của tự
nhiên nên Giáo Hội không bao giờ phổ quát hóa các vấn đề cá biệt
bằng đạo luật. Sự khôn ngoan dạy ta không bao giờ nên phổ quát hóa
vấn đề cá biệt bằng một luật chung.
Chính vì thái độ trên mà Hội Thánh bị
xuyên tạc là kỳ thị người đồng tính. Trong khi đó, Hội Thánh vẫn là
tổ chức lớn nhất, quy mô nhất và quy củ nhất để chăm sóc và yêu
thương những người LGBT. Ngay cả trong Giáo Lý, Hội Thánh khẳng định
rằng “Ðừng quên một số người đã có khuynh hướng đồng tính luyến ái thâm căn. Ðối
với đa số trong họ, khuynh hướng lệch lạc ấy là một thử thách. Chúng ta phải
đón nhận họ với lòng tôn trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối xử bất công. Cả
những người này cũng được mời gọi thực hiện ý Chúa trong cuộc sống và, nếu là
Kitô hữu, họ nên kết hợp các khó khăn gặp phải do hoàn cảnh đặc biệt của mình với
hy tế thập giá của Chúa” (GLHTCG 2358). Như vậy là rõ ràng, dù rất yêu
thương người có khuynh hướng đồng tính luyến ái, Hội Thánh mời gọi
họ cũng như mời gọi tất cả mọi người khác, phải sống trong sạch.
B. KẾT LUẬN:
a. Vấn đề giới tính hiện nay hết sức
phức tạp vì tạo ra các ý niệm mới và được công nhận, được cổ võ.
Hệ lụy của các giá trị mới đến từ ý niệm đó là: Các định chế
khác nhau về hôn nhân gia đình, chẳng hạn đa thê, đa phu, hôn nhân đồng
giới vv... Người không rõ giới tính của mình, cũng như người có
khuynh hướng tính dục đồng giới là điều trái tự nhiên. Và họ cần
biết đó là điều bất thường. Sống căn tính giới tính của mình sẽ
làm cho chúng ta trở thành những con người nam nữ đích thực. Bình
đẳng nam nữ không có nghĩa là cào bằng ai cũng như ai, nhưng chính là
sống đúng với giới tính của mình, trở thành những người nam bản
lĩnh và những người nữ dễ thương.
b. Người đồng tính là người rất nhạy
cảm. Khi nói về vấn đề này hãy hết sức thận trọng và nói đúng
chỗ. Đức Phanxicô, trong cuộc trả lời phỏng vấn tạp chí của Dòng Tên, công bố
vào ngày 19 tháng 09 năm 2013: “Chúng ta không thể cứ nhấn mạnh đến những vấn đề
liên quan tới phá thai, hôn nhân đồng giới và việc sử dụng các biện pháp ngừa
thai. Không thể như thế được. Tôi đã không nói nhiều về những chuyện này, và
người ta đã trách cứ tôi về điều đó. Nhưng khi chúng ta nói về những vấn đề
này, chúng ta phải nói về chúng trong một bối cảnh chính xác”.
c. Người đồng tính luôn cảm thấy mình
bị lạc loài. Họ mặc cảm bị bỏ rơi và vì thế họ cần đến nhau. Họ
cần được tôn trọng và được yêu thương. Tuy vậy, quan tâm đến họ, chăm
sóc mục vụ cho họ không đồng nghĩa với việc chấp nhận những hành vi
luân lý tự bản chất là sai trái, là thác loạn. Hãy giúp họ nhận ra
vấn đề của họ để có thể xoa dịu các xung động nội tâm, để họ sống
hòa nhập và làm phong phú cộng đồng. “Những người đồng tính luyến ái được
kêu gọi sống đức khiết tịnh. Nhờ các nhân đức giúp tự chủ dạy cho biết sự tự do
nội tâm, và có khi nhờ sự nâng đỡ của tình bằng hữu vô vị lợi, nhờ việc cầu
nguyện, ân sủng, bí tích, chính họ có thể và phải dần dần và cương quyết tiến đến
sự trọn hảo Kitô giáo.” (GLHTCG số 2359).
Linh mục Phêrô Nguyễn Đức Thắng