Tiếp
Kiến Chung Của Đức Thánh Cha: Đừng Bao Giờ Quên Căn Cội Của Mình Và Hãy Nỗ Lực
Kiến Tạo Những Nhịp Cầu Hiệp Nhất
Photo:
Vatican Media
G. Trần Đức
Anh, O.P. | RVA 03/05/2023
Sáng
thứ Tư, ngày 03 tháng Năm vừa qua, hơn 20.000 ngàn tín hữu hành hương từ nhiều
nước đã đến tham dự cuộc gặp gỡ với Đức Thánh cha Phanxicô tại Quảng trường
thánh Phêrô.
Như
thói quen, lúc 8 giờ 50, Đức Thánh cha tiến ra nơi tiếp kiến trên chiếc xe mui
trần, có hơn 12 nhân viên an ninh Vatican và vệ binh Thụy Sĩ đi kèm để bảo vệ.
Ngài dừng lại cho năm em bé lên ngồi chung xe với ngài, và tiến qua các lối đi
để chào thăm các tín hữu. Có nhiều nhóm cầm cờ quốc gia của họ. Thỉnh thoảng xe
dừng lại và một nhân viên an ninh bế một em bé lên, trao cho Đức Thánh cha để
ngài chúc lành.
Lên tới
bục cao ở thềm Đền thờ, Đức Thánh cha mở đầu buổi tiếp kiến với phần lắng nghe
Lời Chúa: mọi người nghe một đoạn thư thứ I của thánh Phêrô tông đồ
(1,3.4a.6-7):
“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm
hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng
gia tài không thể hư hoại. Trong thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc
dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhắm
tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, - vàng là của phù
vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Kitô tỏ hiện, đức tin đã được
tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi”.
Bài giáo lý
Trong
bài huấn dụ tiếp đó, Đức Thánh cha tạm gác lại loạt bài giáo lý về “sự hăng say
loan báo Tin mừng”, để kể lại chuyến tông du thứ 41 ngài mới thực hiện tại
Hungary, từ ngày 28 đến ngày 30 tháng Tư vừa qua.
Đức
Thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Cách
đây ba ngày, tôi đã trở về sau cuộc viếng thăm tại Hungary. Tôi muốn cám ơn tất
cả những người đã chuẩn bị và đồng hành với cuộc viếng thăm này bằng kinh
nguyện, và tôi tái bày tỏ lòng biết ơn đối với chính quyền, Giáo hội địa phương
và nhân dân Hungari, một dân tộc can đảm và giàu trí nhớ. Trong thời gian lưu
lại Budapest, tôi đã có thể cảm nghiệm lòng quý mến của tất cả mọi người
Hungary. Hôm nay, tôi muốn nói với anh chị em về cuộc viếng thăm này qua hai
hình ảnh: những cội rễ và những cây cầu.
Hình ảnh cội rễ
Những
cội rễ. Tôi đã đến như người lữ hành nơi một dân tộc - như thánh Gioan Phaolô
II đã nói - đã được đánh dấu bằng “nhiều vị thánh và anh hùng, có những hàng
ngũ dân chúng khiêm tốn và cần cù quây quần chung quanh” (Diễn văn nhân dịp
buổi tiếp đón, Budapest 6-9-1996). Quả đúng như vậy: tôi đã thấy bao nhiêu
những người dân đơn sơ và chăm chỉ, hãnh hiện bảo tồn mối liên hệ với căn cội
của mình. Và trong số những cội rễ ấy, như những chứng từ đã nêu rõ trong những
cuộc gặp gỡ với Giáo hội địa phương và người trẻ, trước tiên có các thánh:
những vị thánh đã hiến mạng sống mình vì dân tộc, những thánh đã làm chứng về
Tin mừng tình thương, các thánh đã là ánh sáng trong những thời điểm tối tăm;
bao nhiêu vị thánh của quá khứ ngày nay đang nhắn nhủ hãy vượt thắng nguy cơ
chủ bại và sự lo sợ về ngày mai, nhắc nhớ rằng Chúa Kitô là tương lai của chúng
ta.
Nhưng
những cội rễ Kitô vững chắc của nhân dân Hungary đã bị thử thách. Niềm tin của
họ, như chúng ta đã nghe từ Lời Chúa, đã bị thử lửa. Thực vậy, trong cuộc bách
hại vô thần hồi thế kỷ XX, các tín hữu Kitô đã bị đánh tàn bạo, với các giám
mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân bị giết hoặc bị cầm tù. Nhưng trong khi người
ta toan tính đốn ngã cây đức tin, các cội rễ vẫn còn nguyên vẹn: Giáo hội hầm
trú vẫn kiên vững, với bao nhiêu giáo sĩ được chịu chức bí mật, làm chứng cho
Tin mừng, khi làm việc trong các công xưởng, trong khi các ông bà nội ngoại
loan báo Tin mừng trong âm thầm. Tại Hungary, cuộc đàn áp của cộng sản đã theo
sau cuộc đàn áp của Đức quốc xã, với cuộc lưu đày bao nhiêu người Do thái.
Nhưng trong cuộc diệt chủng tàn khốc ấy, bao nhiêu người đã nổi bật về sự kháng
chiến và khả năng bảo vệ các nạn nhân. Họ có thể làm như thế vì những căn cội
sống chung thật kiên vững. Vì thế, những mối liên hệ đức tin và dân tộc đã giúp
phục hồi tự do.
Và cả
ngày nay, như đã thấy trong các cuộc gặp gỡ với giới trẻ và giới văn hóa, tự do
cũng bị đe dọa. Đe dọa như thế nào? Thưa, đặc biệt là với những găng tay trắng,
do chủ nghĩa duy tiêu thụ làm mê hoặc, qua đó người ta hài lòng vì một chút an
sinh vật chất, mà quên đi quá khứ, trôi nổi lềnh bềnh trong một hiện tại theo
khuôn khổ cá nhân. Nhưng một khi điều duy nhất đáng kể là chỉ nghĩ đến mình và
làm điều mình thích, thì những căn cội sẽ bị chết nghẹt. Đó là một vấn đề liên
hệ tới toàn Âu châu, nơi mà sự tận tụy giúp người khác, cảm thức cộng đồng và
vẻ đẹp của sự cùng nhau mơ ước và kiến tạo gia đình đông con đang bị khủng
hoảng.
Vậy
chúng ta hãy suy tư về tầm quan trọng của việc gìn giữ căn cội, vì chỉ khi nào
có gốc rễ sâu, thì những cành mới tăng trưởng hướng lên cao và sinh nhiều hoa
trái. Chúng ta hãy tự hỏi: đâu là những gốc rễ quan trọng nhất của đời tôi? Tôi
có nhớ và chăm sóc nó không?
Hình ảnh những cây cầu
Sau
những căn cội, bây giờ đến hình ảnh thứ hai: là những cây cầu. Từ 150 năm khi
ba thành phố họp lại, Budapest vẫn nổi tiếng vì những cây cầu bắc ngang và liên
kết các phần của thành phố với nhau. Điều đặc biệt được nhắc đến trong các cuộc
gặp gỡ với chính quyền là tầm quan trọng của sự kiến tạo những cây cầu hòa bình
giữa các dân tộc khác nhau. Đặc biệt đó là ơn gọi của Âu châu, trong tư cách là
“cầu hòa bình”, đại lục này vốn được bao gồm những khác biệt và đón nhận những
ai đến gõ cửa nước mình. Theo nghĩa này, thật là đẹp khi chiếc cầu nhân đạo
được kiến tạo cho bao nhiêu người tị nạn từ Ucraina láng giềng, mà tôi đã được
gặp, và ngưỡng mộ cả hệ thống bác ái rộng lớn của Giáo hội Hungary.
Đất
nước Hungary này dấn thân nhiều trong việc kiến tạo “những cây cầu ngày mai”:
đất nước rất quan tâm săn sóc môi trường và một tương lai bền vững, và làm việc
để kiến tạo những cây cầu giữa các thế hệ, trong đó có những người già và người
trẻ, thách đố ngày nay không thể từ bỏ đối với mọi người. Ngoài ra có những cây
cầu mà Giáo hội, như thấy trong cuộc gặp gỡ, được kêu gọi hướng về con người
ngày nay, vì việc loan báo Chúa Kitô không thể chỉ là lập lại quá khứ, nhưng
luôn cần được canh tân, cập nhật, đến giúp những người nam nữ thời nay tái khám
phá Chúa Giêsu. Và sau cùng, tôi nhớ đến với lòng biết ơn vì thánh lễ trọng thể
hôm Chúa nhật, ngày 30 tháng Tư, với sự tham dự đông đảo của các tín hữu. Tôi
nghĩ đến vẻ đẹp của sự kiến tạo những cây cầu giữa các tín hữu; tại đó có sự
hiện diện của các Kitô hữu thuộc các nghi lễ và quốc gia khác nhau, các hệ phái
Kitô khác nhau, cùng nhau hoạt động cho đất nước Hungary tốt đẹp hơn. Kiến tạo
những cây cầu. Chúng ta hãy tự hỏi: trong gia đình tôi, giáo xứ và cộng đoàn
của tôi, đất nước, tôi có phải là người kiến tạo những nhịp cầu, sự hòa hợp và
hiệp nhất hay không?
Và Đức
Thánh cha kết luận rằng: Sau cùng, tôi muốn nhắc nhớ rằng vào đầu tháng Năm,
người Hungary rất sùng kính Mẹ Thiên Chúa. Quốc gia này đã được thánh hiến cho
Mẹ do Vua đầu tiên là thánh Stephano. Họ tôn kính và kêu cầu Đức Mẹ mà không
nêu danh của Mẹ, chỉ gọi Mẹ bằng tước hiệu Nữ Vương. Chúng ta hãy phó thác cho
Nữ Vương Hungary, đất nước yêu quý này, Nữ Vương hòa bình, Nữ Vương trời cao,
Đấng chúng ta chúc tụng trong Mùa Phục sinh này. Chúng ta hãy phó thác tâm hồn
cho Mẹ để chúng ta được ăn rễ sâu trong tình yêu Chúa.
Chào thăm và kêu gọi
Sau bài
huấn giáo của Đức Thánh cha, buổi tiếp kiến được nối tiếp với phần tóm tắt bài
giáo lý và những lời chào thăm của ngài.
Khi
chào bằng tiếng Pháp, Đức Thánh cha đặc biệt nhắc đến đoàn hành hương toàn quốc
Đức Mẹ Sức Khỏe, nhiều đoàn học sinh các trường, các giáo xứ đến từ Pháp, nhất
là các chủng sinh các chủng viện Xuân Bích. Ngài nhắn nhủ rằng: “Trong một thế
giới duy vật, chúng ta hãy cầu xin Chúa giữ gìn chúng ta được bám rễ sâu trong
Chúa Kitô, Đấng dạy chúng ta hãy không ngừng tận hiến cho anh chị em mình và
trở nên những cây cầu giữa con người, để xây dựng một thế giới huynh đệ hơn và
tôn trọng thiên nhiên”.
Khi
chào bằng tiếng Anh, Đức Thánh cha nhắc đến các nhóm đến từ Tchad, Nigeria,
Uganda, New Zealand, Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Canada và Mỹ.
Khi
chào bằng tiếng Ba Lan, Đức Thánh cha đặc biệt chào Ban giám đốc và các chủng
sinh thuộc Đại chủng viện Giáo phận Tarnow đến hành hương dưới sự hướng dẫn của
Đức giám mục bản quyền. Ngài nói thêm rằng: “Hôm nay là lễ Đức Mẹ Nữ Vương Ba
Lan. Tôi nhớ lại cuộc tông du của tôi và những cuộc gặp gỡ không thể quên được
với những người Hungary mà anh chị em có những quan hệ chặt chẽ đến độ họ là
những anh chị em họ. Thật là điều ý nghĩa vì cả hai nước đều tôn xưng Mẹ Maria
là Nữ Vương của mình. Anh chị em hãy khẩn cầu sự chuyển cầu của Đức Mẹ cho đất
nước anh chị em và toàn Âu châu, cầu xin ơn bền đỗ trong đức tin, hiệp nhất và
cộng tác hài hòa, nhưng nhất là xin ơn hòa bình, đặc biệt tại đất nước Ucraina
láng giềng của anh chị em.
Khi
chào bằng tiếng Ý, Đức Thánh cha đặc biệt nhắc đến các tham dự viên cuộc hội
thảo do Đại học Thánh Giá tổ chức, Huynh đoàn Chân phước Angolo da Furci và
nhiều giáo xứ, các tu sĩ nam nữ hiện diện.
Sau
cùng, Đức Thánh cha nói: “Như thường lệ, tôi nghĩ đến các bạn trẻ, bệnh nhân và
người cao tuổi cũng như các đôi tân hôn. Trong tháng Năm mới bắt đầu, tôi mời
gọi anh chị em hãy canh tân lòng sùng kính Đức Mẹ. Tôi khuyến khích anh chị em
hãy đào sâu sự hiểu biết về Mẹ Maria, đi vào cuộc sống thân mật con thảo với Mẹ,
đón nhận Mẹ như mẫu gương tinh thần và mẫu gương về lòng trung thành với Chúa
Kitô”.
“Tôi
cũng phó thác cho Đức Mẹ là Mẹ an ủi và là Nữ Vương Hòa bình, dân tộc Ucraina
đau thương. Tôi ban phép lành cho tất cả anh chị em”.
Buổi
tiếp kiến chung kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh cha.