B. ĐẠO CÔNG GIÁO ĐÒI LỘI NGƯỢC DÒNG
1. Thế gian sẽ ghen ghét bắt bớ
các con.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã an ủi các
môn đệ, chỉ vẽ tường tận kế hoạch cứu thế được nối dài qua tay các ngài, và
khích lệ tất cả mạnh dạn đi theo bước chân ngài đã đi. Trọng đại hơn cả là sau
đó, Chúa đã sai Thánh Thần xuống để soi sáng và tăng cường sức mạnh cho từng người.
Chương trình rao giảng Tin Mừng từ đó lan
rộng tới mọi hang cùng ngõ hẻm của thế gian. Bảy Nhiệm Tích được trao gửi như
bảy máng thông ơn giúp người đời lãnh nhận phúc lộc từ trời, cũng như để họ
đứng vững trước sự tấn công của địch thù quỷ ma.
Chúa Thánh Thần thường xuyên đóng vai trò hướng
dẫn tâm trí các tìn hữu để có một cái nhìn chính xác về tương quan của họ với
Thiên Chúa, về ý nghĩa Ơn Cứu Chuộc trong đời họ, về tầm hiểu biết sâu xa đối
với Đức Kitô là Thầy và họ là môn đệ. Sự hiểu biết này đòi hỏi liên tục noi gương
Ngài, Đấng đã tới để xả thân phục vụ chứ không mong được kẻ khác phục vụ mình,
nhất là lại còn hiến mạng sống mình đền tội thế nhân.
Điều nghịch lý và gây tình trạng khó hiểu ở
đây là ta càng theo chân Chúa để tìm cách cứu vớt trần gian thì ta càng gặp sự
chống đối và ác cảm. Chúa đã đến với dân riêng, với thân nhân, với bằng hữu của
chính Ngài, nhưng họ đã phủ nhận và xua đuổi Chúa. Để rồi hôm nay, hiểu lời
Chúa tiên báo rằng môn đệ sẽ không trọng hơn Thầy, ta sẽ sẵn sàng để đi vào
cùng con đường đầy chông gai thù hận Chúa đã đi xưa.
Ta rao giảng lòng khiêm tốn nhường nhịn ư ?
Người đời sẽ chê bai ta là khờ khạo không thực tế. Nếu ta sống và kêu gọi sống
cuộc đời quên mình, vác thánh giá mà bước vào con đường khổ nạn mong tiếp tay
với Chúa trong kế hoạch Cứu Chuộc, trần gian sẽ đối kháng, bởi họ luôn tìm lối
sống an nhàn dễ dãi và chỉ mong xây đắp cuộc hạnh phúc vật chất ngay tại thế
giới này. Đôi lúc hăng say mà quảng bá lời Phúc Âm “Nếu con bị vả nơi má này,
hãy đưa cả má kia cho người ta vả nữa”, ta sẽ bị lên án là mắc bệnh thần kinh !
Đấy, sự khác biệt giữa chủ trương của thế
nhân và đường lối của Chúa Kitô là như thế. Tránh sao khỏi chuyện xung khắc va
chạm ! Một khi ta muốn trung thành với Vị Thầy Chí Thánh, ta phải chấp nhận cái
kết quả đối kháng phiền toái trên đây.
Ngày Chúa Giêsu đặt chân lên đỉnh đồi để
giảng vế Tám Mối Phúc Thật, Chúa cũng đã hoàn toàn ý thức về những khó khăn
liên hệ tới giáo thuyết của Ngài. Người đời luôn lao đầu đi kiếm tìm của cải
bạc vàng mà Chúa lại kêu gọi tinh thần nghèo khó thanh bần. Trần gian đêm ngày
tranh chấp đòi cho được quyền lợi tối đa mà Chúa cứ đòi họ phải nhường nhịn an
hòa. Nhân loại lúc nào cũng ngại khổ, sợ khó, mà Chúa chỉ hứa chúc phúc cho
những ai biết hy sinh vì Nước Trời… Nhất nhất Hội Thánh đều vẽ ra một cảnh trái
cựa tương phản đến tận gốc rễ.
Phải rồi, Chúa đã cắt nghĩa thật rõ cho các
môn đệ : Trần gian sẽ ghét bỏ các con vì các con không thuộc và chẳng muốn
thuộc về họ. Đặc biệt hơn nữa là họ không chấp nhận Thầy và đường lối của Thầy.
Thành ra Chúa đã phải nói thẳng ra một sự thật đau lòng, gây bàng hoàng lo sợ
cho những kẻ yếu bóng vía : “Thầy sẽ sai các con ra đi, như chiên bước vào giữa
bầy sói dữ. Họ sẽ trục xuất các con ra khỏi hội đường. Họ sẽ hành hạ và giết
chết các con, đang khi tưởng mình phục vụ Thiên Chúa. Các con sẽ phải than vãn
khóc lóc, giữa lúc trần gian hoan hỷ vui mừng…”
Lịch sử Giáo Hội Công Giáo đã minh chứng lời
loan báo của Chúa được thực hiện từng chữ từng câu. Các tông đồ của Chúa đã lần
lượt bị người đời bắt bớ hành hạ rồi đem hành hình. Riêng Gioan tuy không chịu
tử vì đạo, nhưng cuối đời đã ôm ấp muôn vàn hy sinh cay đắng. Cách riêng với
Phaolô, người được Chúa tuyển chọn làm Tông Đồ Dân Ngoại, đã triền miên đón
nhận khổ đau vì Danh Chúa cho tới ngày gục chết dưới lưỡi gươm oan nghiệt tại
giáo đô La Mã.
Nối tiếp bước đường của các ngài, hàng ngàn
hàng vạn Kitô hữu đã can đảm đi theo tiếng Chúa gọi và chấp nhận bao trận cuồng
phong bão tố của ghét ghen, kỳ thị, bắt bớ, tra tấn và hành hình. Ngay trong
thời kỳ sơ khai của Giáo Hội, các tín hữu trong đế quốc Rôma đã phải chịu nhục
nhằn ròng rã ba thế kỷ, với bao nhiêu trăm ngàn sinh mạng phải hy sinh ngã gục.
Để rồi ta có những Cêcilia, Agatha, Lucia, Lôrensô, Ignatiô, Antiochia,
Polycarpô… như những bông hoa đầu mùa thượng tiến lên Tòa Chúa, tiếp sau của lễ
toàn thiêu của các thánh Tông Đồ.
Việc thế gian ghen ghét bắt bớ con cái Chúa
còn thường xuyên tiếp diễn với thời gian, qua nhiều hình thức khác nhau, lúc
thăng lúc trầm, khi âm thầm lúc ồn ào hung dữ. Tới khi Đạo Thánh được truyền
qua miền Viễn Đông để hạt giống Phúc Âm được gieo vãi trên đất nước Việt Nam,
câu chuyện bách hại tôn giáo lại được thực hiện tương tự như thời đầu của Hội
Thánh : Cũng gần ba trăm năm tang tóc u buồn, với hơn một trăm ngàn nạn nhân bỏ
mình vì Đức Tin cao cả.
Với sự kiện bao nhiêu sinh linh đổ máu đào ra
vì Danh Chúa, Công Đồng Vatican II, nơi bản Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh, đã
tuyên bố : “Ngay từ đầu, một số tín hữu đã được kêu gọi làm chứng cho tình yêu
tột đỉnh trước mặt mọi người, cách riêng những kẻ bách hại mình. Do đó, qua
việc đổ máu mình ra, người đồ đệ trở nên giống Thầy của mình, Đấng đã tình
nguyện chấp nhận cái chết để cứu chuộc thế gian, được Giáo Hội coi như một hồng
ân tuyệt vời và một bằng chứng cao cả của tình yêu. Và tuy rằng hồng ân ấy được
ban cho một số ít người, nhưng tất cả phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước
mặt mọi người, và đi theo Ngài qua con đường thánh giá giữa những cơn bách hại
hàng ngày xảy ra cho Giáo Hội”.
Thế nghĩa là cho đến tận thế, Giáo Hội Công
Giáo vẫn ý thức và trung thành với lập trường cố hữu ban đầu. Như người Mẹ nhân
lành, Giáo Hội đêm ngày nhắn nhủ đàn con phải hiểu và chấp nhận lời dặn dò của
Đấng Sáng Lập Đạo Mới.
Cái khổ đau, cái nhục nhằn, cái chống đối ta
chịu vì Chúa ở đây thực sự đã được Ngài ấn định cho tất cả những ai muốn chấp
nhận Ơn Cứu Chuộc và quyết tâm đi theo bước Ngài đi. Do đó thánh Phaolô mới
tuyên bố với tín hữu Côrinthô trong lá thơ thứ hai gửi họ rằng ngài chỉ là kẻ
thừa hành của Chúa trong việc nhẫn nại chịu đựng mọi thử thách, thiếu thốn và cơ
cực : đòn vọt, giam cầm, loạn lạc, nhọc nhằn, khinh chê và xua đuổi.
Hiểu được thế, ta sẽ không quá sợ hãi bỡ ngỡ.
Niềm tin yêu sẽ là động lực thúc đẩy mọi cố gắng trong đời phục vụ theo chân
Chúa của ta.
2. Ôm ấp Thánh Giá Chúa gửi.
Câu chuyện Giáo Hội khích lệ ta lội ngược
dòng vì Danh Chúa bắt nguồn từ lời mời gọi của chính Chúa Giêsu : “Ai muốn theo
Ta, hãy cố hy sinh bản thân mà vác Thánh Giá hằng ngày để can đảm theo vết bước
của Ta”.
Đây là điều kiện căn bản thường nhật cho mọi
Kitô hữu, dẫu không phải đối diện với chuyện cấm cách bách hại để tới chỗ phải
đổ máu đào ra vì Chúa như các Vị Tử Đạo. Ở đây, can đảm ôm ấp Thánh Giá phải là
một thói quen, một thái độ, một nhân đức bao trùm và thấm nhập vào mọi tâm tư
và sinh hoạt của từng người.
Thật ra Chúa không nghiêm khắc đòi hỏi ta
phải đêm ngày đi kiếm tìm để cung cấp cho mình càng nhiều Thánh Giá càng tốt.
Điều chính yêu ở đây là mỗi khi gặp phải điều buồn bực trái ý, ta hãy vì Chúa
mà đón nhận, ít ra là để đền tội lỗi riêng mình cũng như để góp phần nhỏ với
Chúa trong kế hoạch dùng khổ đau và sự chết của Ngài mà cứu chuộc trần gian.
Như thế, thái độ can đảm và quảng đại đón
nhận này sẽ trở thành chuyện cơm bữa hằng ngày của người Kitô hữu, khởi sự với
những điều trái ý nhỏ mọn nhất cho tới những tai ương hoạn nạn to lớn nhất
trong đời. Làm như thế, theo các nhà tu đức học, ta còn có cơ hội tạo công
nghiệp để đáng Chúa thưởng, tùy theo mức độ lòng mến Chúa của từng tâm hồn khi
đón nhận khổ đau. Mẫu gương đặc biệt của Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng sống có ít
năm ngắn ngủi trong tu viện, xem chừng chẳng có tai ương đáng kể nào để phải
khốn đốn, mà Chị Thánh đã lập được công nghiệp vĩ đại về đường thiêng liêng nhờ
ôm ấp và thánh hóa những điều trái ý và khó chịu bé nhỏ hằng ngày.
Dĩ nhiên, trước mắt người đời, cái thái độ
“mềm yếu nhu mì” nói trên cơ hồ khó được chấp nhận. Họ luôn đòi vùng lên để
chạy trốn điều khó chịu hầu đạt cho bằng được ý riêng của mình, và như thế mới
là anh hùng hảo hán. Họ nhìn vào cách sống của các Kitô hữu chân chính với con
mắt khinh bỉ và thương hại, nghĩ rằng theo Chúa kiểu đó chẳng khác chi chọn lối
sống điên khùng, bởi đã bị “Ngài Giêsu” tẩy não ! Chả làm sao họ hiểu được rằng
hạt lúa thối đi sẽ là hạt lúa hứa hẹn những bông lúa mới tốt tươi, cũng như sẵn
sàng chấp nhận cái chết với Chúa là bắt đầu sống lại với Ngài.
Chúa xuống trần gian không nhằm tiêu diệt khổ
đau. Ngài cũng không mong cắt nghĩa tại sao có đau khổ hay biện minh cho nó. Trước
sau, Chúa chỉ làm gương nhận lãnh nỗi đớn đau tột đỉnh cùng với cuộc Tử Nạn
trên Thánh Giá, để rồi biến cải, rồi chuyển hóa nỗi đau thương đó thành nguồn
hoan lạc Phục Sinh và giá cứu độ cho cả nhân loại.
Kể từ dịp đó, Chúa liên lỉ mời gọi ta theo
vết bước Ngài đã đi để tiếp tay với Ngài. Bóng Thánh Giá trên đồi Canvê xưa một
lần đã bị nhạo cười là bóng hình, là tượng trưng cho sự rồ dại lớn lao nhất,
bây giờ vẫn còn tiếp tục bị khinh bỉ chê bai. Theo Chúa, ta không thể muốn tìm
tránh cái tình trạng hẩm hiu bất hạnh này trước mặt trần thế.
Ngặt một nổi, như Kinh Thánh thường bảo ta,
Chúa lại thích gửi khổ đau thánh giá cho những thành phần được Chúa tin cậy mến
thương. Thành ngữ “người lành chịu khổ” đã từng là đề mục bàn cãi sâu rộng nơi
sách Cựu Ước : Một Abel chăn chiên hiền lành, một Giuse ngoan ngoãn bị bán qua
Ai Cập, một Gióp đạo đức bị đủ mọi thứ tai ương… Tất cả đã hùng hồn chứng minh
nẻo đi nhiệm lạ của Thiên Chúa, để rồi câu chuyện được đưa tới chỗ cao điểm khi
chính Con Một của Ngài đã nhập thể đóng vai Con Chiên Thánh vô tội bị điệu đi
xén lông và tế lễ.
Ta theo Chúa, ta muốn góp phần hy sinh, muốn
hăm hở vác thánh giá theo Ngài, nhưng ta không được quyền chọn lựa loại thánh
giá vừa ý ta. Trái lại, phải sẵn sàng đưa vai ra vác mọi cây gỗ tạo thương đau,
dẫu nặng dẫu nhẹ, dẫu xù xì hay trơn tru, dẫu dài hay ngắn. Vì thế, tác giả
Louis Evely đã viết rằng người Kitô hữu nào cũng có thể nên thánh, nhưng chỉ có
thể trở thành vị thánh mà mình không muốn. Nói khác đi, ta không được quyền
theo ý riêng để chọn loại thánh giá mình ưa thích trên đường đi tìm Chúa, nhưng
phải đón nhận ý Chúa ở mỗi trường hợp, mỗi hoàn cảnh.
Với việc đi tìm Chúa, tuy ta không bị luật
buộc tạo thánh giá cho mình vác, nhưng một khi thật sự mến Chúa và muốn góp
phần với Ngài, ta sẽ thấy sướng vui khi tình nguyện nhận lãnh những phiền toái
cho đời mình, khi hy sinh chối từ những thú vui trần tục, khi hãm mình xa lánh
những điều mơ ước tự nhiên của xác thân.
Theo Chúa, Ta cũng cần học hy sinh trong âm
thầm, học vác thánh giá với sự hiện diện của Chúa và chính ta thôi, thay vì
hãnh diện vác cây thánh giá vàng son đi đầu cuộc rước trọng thể. Đức Giám Mục
Nguyễn văn Thuận có phân biệt 3 hạng người : Hạng hy sinh không muốn ai biết ;
Hạng hy sinh mà muốn mọi người biết ; hạng không hy sinh nhưng lại muốn khoe để
ai cũng biết mình hy sinh ! Dĩ nhiên, chỉ có loại người thứ nhất mới đi vào kế
hoạch của Chúa.
Ta không bắt chước đám người Thanh Giáo (Puritan)
xưa cố gắng mua Thiên Đàng bằng cái giá đau khổ đời này, nhưng tiên vàn ta muốn
chia sẻ cái… dại khờ Chúa đã chọn xưa khi quyết định chịu nạn và chết để đem Ơn
Cứu Chuộc cho trần gian. Hơn nữa, ta cố hiểu Lời Chúa tuyên bố “khổ đau hiện
diện để làm vinh danh Chúa trên trời”, qua hai lần Chúa làm phép lạ trong Phúc
Âm, một lần để chữa người mù từ bẩm sinh và một lần cho Lagiarô sống lại.
Phanxicô thánh Assisi đã thấy rõ giá trị của
nhưng thánh giá ta tình nguyện vác vì Chúa, để rồi ngài tận tình đem ra thực
hành trong lối sống dòng mới thành lập. Có lần, vừa đi công tác tông đồ với
thầy bạn là Lêô, thánh nhân lên tiếng bàn luận về đường tu đức và niềm vui siêu
nhiên. Thấy ngài nói hay quá, thầy Lêô chất vấn :
- Vậy trong thực hành, nếu từ nay mình năng
mời người nghèo khó khổ đau tới bố thí và ủi an thì đã có niềm vui ý nghĩa chưa
?
- Chưa đâu. Mình phải chịu khó vất vả đi tìm
họ để đỡ nâng mọi mặt nữa.
- Nếu mình cố làm thế, đã đủ lý do để trọn
vui chưa ?
- Chưa đâu. Mình cần thấy họ nhận ơn mà vô ơn,
để rồi chửi mắng lại mình nữa cơ.
- Vậy thêm chi tiết đó có cho phép mình vui
thật chưa ?
- Vẫn chưa đâu, chỉ vui thật khi họ chửi mắng
mình thậm tệ xong, họ kéo bè bạn tới hành hung đánh đập mình bị nhiều thương
tích, rồi bỏ mặc mình dở sống dở chết giữa chốn đồng hoang, nhưng mình luôn tươi
cười vì được có cơ hội chịu đựng với Chúa !
Cũng trong đường hướng ôm ấp thánh giá đó,
thánh Têrêsa Avila đã cố tìm được bí quyết hạnh phúc người theo Chúa, sau bao
ngày mò mẫm công phu, để rồi mỉm cười tâm sự với Chúa : “Đường lối Chúa cư xử
với các bằng hữu Ngài ‘khó thương’ như thế, chả trách được con số bạn tâm giao
của Ngài lúc nào cũng xem ra quá ít ỏi !”
Phải rồi, đường về trời vinh quang với Chúa
đêm ngày luôn được trải với gai góc sỏi đá khó đi. Chỉ có những ai thấu hiểu được
tâm tình của Chúa mới dám can đảm lên đường. Mà thành phần bền lòng vững chí
cho tới giây phút cuối đời cũng không lấy chi làm khả quan khích lệ.
Để bù lại, Chúa hứa ban ơn yên ủi đặc biệt
cho những ai trung thành với Ngài trên đường khổ giá. Như cách diễn tả của
Phaolô, nhờ vui lòng mang trong mình những thương tích khổ nạn của Đức Kitô, mà
chúng ta sẽ gặp được sự sống của Ngài biểu lộ trong chính thân thể mình, để
rồi, dẫu bề ngoài xem chừng tiều tụy mỏi mòn, nhưng bên trong sẽ luôn giữ vẻ tươi
vui mới mẻ.
Đương nhiên, tâm trạng dại khờ vì Chúa đây,
sau một thời gian tạm bợ đầy dẫy gian nan, sẽ được đáp đền với vinh quang cao
cả trong Nước đầy hạnh phúc vĩnh cửu.
3. Được nhưng không, hãy cho nhưng
không.
Trước hết ta hãy tự xét mình xem Chúa đã cho
ta những gì kể từ lúc bước chân vào đời ? Làm sao chối bỏ được những tặng phẩm
kết xù, từ đời sống với xác và hồn kết liên cho ta sự hiện hữu đầy giá trị giữa
vũ trụ ; rồi là ơn quan phòng chăm sóc ; rồi tới bao ơn huệ vật chất cùng tinh
thần tính đến ngày hôm nay, tích cực cũng như tiêu cực, những ơn huệ mà, suy
cho kỹ, con người kém cõi tầm thường
của ta không bao giờ đáng lãnh nhận. đặc biệt hơn nữa là những ơn phúc thiêng
liêng ta thụ hưởng qua trung gian Giáo Hội, cách riêng từ phép MìnhThánh Chúa
thường xuyên bổ sức linh hồn ta, cũng như từ phép Xá Giải để ta được Chúa thứ
tha trọn vẹn mọi tội lỗi mỗi lần ta đến để hướng dẫn đi vào nẻo đường khôn
ngoan công chính. Rồi là ơn chở che bênh vực ta thoát khỏi những mưu chước và
tấn công của địch thù là quỷ ma.
Và như thế, ta được mời gọi san sẻ lại với
tha nhân những điều đã được nhưng không từ bàn tay từ ái của Chúa. Chúa đòi ta
san sẻ và cho đi theo cung cách Chúa đã làm cho chính chúng ta, không tính
toán, không giới hạn, không đắn đo.
Yếu tố hệ trọng nhất, cao cả nhất mà ta phải
cho đi nhưng không ở đây là tình thương yêu thật chân thành. Ta cho tình yêu đó
cho Chúa, Ngài sẽ thánh hóa để làm thành căn bản của món quà đổi trao phúc lộc
này, cũng như trở nên bằng chứng ta đã đi vào đường của Chúa. Dịp hiện ra với
Nữ Thánh Magarita Maria, Chúa Giêsu đã yêu cầu bà cho Chúa trọn con tim. Đương
nhiên, ngài không chỉ muốn giữ lại con tim và tình yêu đó cho mình ngài, nhưng
sau đó Thánh Nữ sẽ nhân danh Chúa mà dùng tình thương siêu nhiên đó để chăm sóc
lo lắng cho tha nhân.
Một khi chương trình “cho đi” được khởi sự
với cái bảo chứng yêu thương làm nền tảng đó, người Kitô hữu sẽ biết sau đó
phải làm gì. Trái tim sẽ tự động truyền mệnh lệnh cho trí óc đem ra thi hành
những gì nơi tha nhân. với một tình thương cao vượt và không biên giới đó, ta
sẽ nhìn ra mọi người là hình ảnh Chúa, là thành phần của Đại Gia Đình Thiêng
Liêng, là anh em bằng hữu chân thật của chính mình.
Thế là, thay vì chỉ nghĩ tới bản thân, ta sẽ
dấn thân trong cuộc sống tông đồ theo ý nghĩa đích thực : song song với việc lo
lắng cho lợi ích của linh hồn mình, ta cũng sẽ đồng thời lưu tâm giúp đỡ và
khích lệ các linh hồn khác được tăng triển trong thánh ân của Chúa.
Bước tiên phong là tìm cho bằng được kho tàng
Nước Trời vô giá được che giấu đâu đó, để rồi sắp xếp bán mọi thứ mình có mong
mua bằng được mảnh đất chứa đụng kho tàng này. Với niềm tin vững chắc chìa khóa
kho báu trong tay, ta sẽ luôn dễ dàng nâng tâm hồn lên trời với Chúa và dành
nhiều thời gian làm việc cho vườn nho thiêng liêng.Một lần nữa, người đời sẽ
lại cười chê ta là dại dột, là ảo tưởng, vì ta cứ đặt giá trị cuộc sống ở mãi
tận … đâu đâu !
Không luôn dễ để ta vượt lên khỏi những lời
chê cười liên tục đó, nhưng một khi đã nhìn ra hướng đi xác đáng của đời Kitô
hữu, ta sẽ biết cố gắng chiến thắng tất cả. Để ghi tên gia nhập nhóm thợ làm vườn
nho Nước Trời, ta phải hiểu rằng đây chẳng những chỉ là một lời mời gọi muốn
đáp lại hay không tùy ý, nhưng quả thật nó còn là một sứ mạng căn bản của đời
mình, nếu ta muốn là kẻ theo Chúa đúng nghĩa.
Đây là ý nghĩa cao cả của sứ mạng Tông Đồ
Giáo Dân. Mỗi cá nhân, sau khi đã lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, phải biết tham
gia vào những công tác mưu phần ích thiêng liêng cho người đồng loại, bởi vì
theo Chúa là phải tiếp tay với Ngài để loan truyền ơn cứu rỗi cho tất cả, không
trừ một ai. Đã đành ta có phận sự lo lắng cho mình cũng như gia đình mình, nhưng
đồng thời ta cũng phải nghĩ đến tha nhân để dành ra ít thời giờ mà giúp đỡ họ,
nhất là những phần tử hẩm hiu xấu số, đặc biệt những kẻ chưa được ánh sáng đức
tin chiếu soi cho.
Ta sẽ vất vả hơn, sẽ bận bịu hơn, sẽ thiệt
thòi hơn. Đúng lắm ! Nhưng đạo Công Giáo là thế, đòi ta sống như thế. Dụ ngôn
nén bạc trong Phúc Âm đòi ta phải sinh lợi cho Nước Chúa và tha nhân, chứ không
được phép giữ khư khư cho riêng mình, như kiểu người chôn vùi nén bạc trong
lòng đất. Hai chữ phục vụ phải luôn luôn có trên môi và ăn sâu vào trái tim ta
để rồi được đưa ra thực hành, theo mẫu mực của chính Đấng đã tới “để phục vụ
chứ không nhằm được phục vụ”. Mà muốn phục vụ thì phải biết ra khỏi cái tôi ích
kỷ và lười biếng của mình, đống thời phải gánh chịu mất mát thiệt hại nơi chính
con người của chúng ta.
Đọc chuyện vị bác sĩ danh tiếng Albert
Schweitzer, ta được biết như sau : sau một thời gian ngắn được bổ nhiệm làm
giáo sư đại học Strasbourg, một hôm Schweitzer ghé chơi nhà một người bạn thân,
người này lên tiếng hỏi :
- Trong đời ông bây giờ ông còn mơ ước chi
nữa không ?
- Hết rồi.
- Sao thế ?
- Tôi đang sung sướng với cái ghế giáo sư,
lại thoải mái với chương trình viết văn đang thành công, cùng với cái thú học
và chơi phong cầm.
Chỉ hai hôm sau, Schweitzer lại tới nhà bạn
và lên tiếng thanh minh :
- Này ông bạn, tôi buộc lòng sắp phải từ giã
cả ba điều tôi yêu thích hôm nọ mới nói tới.
- Sao thế ?
- vì tôi vừa đọc thấy đoạn Phúc Âm kể chuyện
anh phú hộ và chàng Lazarô nghèo khổ. Tôi đang là anh nhà giàu, còn đám dân
khốn đốn đang ở các thuộc địa phi Châu đang là những chàng Lazarô của tôi. Tôi
nhất quyết nay mai sẽ ra đi…
Quả thật, sau đó vị bác sĩ đầy từ tâm đã bỏ
tất cả để lên đường phục vụ. Ông đã dâng cả cuộc đời còn lại cho tha nhân.
Với mẫu gương của Albert Schweitzer, ta cũng
phải học mở mắt ra để nhận được bóng dáng những Lazarô khác ở gần chỗ mình. Hãy
cùng với một Vinhsơn Phaolô hay một Mẹ Têrêsa mà lắng nghe tiếng Chúa gọi mời
ta từng phút giây. Bảo rằng việc phục vụ kiểu đó chỉ là dành cho các linh mục,
tu sĩ thì quả là một sai lầm lớn lao. Chúa đòi mỗi người phải tùy hoàn cảnh và
khả năng hiện có trong bậc sống mà phục vụ, mà hiến dâng, mà cho đi.
Bao nhiêu tấm gương hào hùng trong Giáo Hội
chẳng những đã tạo nên những vị thánh mẫu mực của lòng bác ái vị tha, mà còn
ghi vào lòng thế nhân những hình ảnh đáng kính tôn cảm phục khó phai : Cha
Maximilien Kolbe hy sinh chết thay cho người bạn tù trong trại giam Quốc Xã của
Thế Chiến thứ II ; Linh mục Damien ai cũng biết đến như vị tông đồ số một của
nhóm người cùi hủi nơi đảo Molokai giữa Thái Bình Dương ; Tu sĩ Junipero Serra
xả thân truyền giáo và mở mang dân trí cho đám người da đỏ Mỹ Châu thuộc cùng
California. Các ngài đã hiểu sâu xa Lời Chúa đòi “được nhưng không thì hãy cho
nhưng không”, cho không còn giữ lại chút gì của riêng mình.
Điều Chúa thực hiện được ở các ngài, Chúa
cũng đang chờ mong để thực hiện ở chúng ta.