III. THIÊN CHÚA GIÁO
Mấy chữ “Thiên
Chúa Giáo” tự nó đã nói lên mối tương quan giữa nhân loại với một Vị Thượng Đế
tối cao, Đấng được tin là toàn năng đã làm nên mọi sự.
Thiên Chúa Giáo
cũng được hiểu ngầm là một Đạo được mạc khải : Được chỉ vẽ bởi chính Đấng tối
cao đó, thay vì đạt được nhờ đi tìm tòi suy luận bằng trí óc con người.
Cụ thể là các tín
điều đã được chỉ dạy nơi sách Thánh Kinh, những sách được viết bởi người trần,
nhưng qua sự linh ứng của Thiên Chúa.
Tín điều căn bản
hàng đầu là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất làm chủ toàn thể vũ trụ ; và theo
Thánh Kinh, Ngài diễn tả mình là Đấng Tự Hữu (Ego sum qui sum).
Ngài đã tạo dựng
nên muôn loài muôn vật từ hư vô, có thể qua một tiến trình tiệm tiến lâu dài.
Ngài đã dựng nên
các thiên sứ thiêng liêng vô hình, và giữa chim muông cầm thú, đã dựng nên loài
người có hồn và xác.
Chẳng may vì Ông
Bà Nguyên Tổ đã phạm tội bất tuân lệnh Chúa, nên Ngài ra án phạt nặng nề kéo
theo nhiều hậu quả tai hại khôn lường.
Nhưng vì thương,
Ngài đã hứa sẽ sai Đấng Cứu Chuộc để cứu vớt con người.
Đồng thời Ngài
cũng chuẩn bị đường cứu độ bằng cách tuyển lựa dân tộc Dothái như dân riêng để
duy trì niềm tin chân chính.
Ngài đã ban giới
luật, đã dùng các án quan vua chúa hướng dẫn cũng như dùng các Sứ Ngôn để dạy
dỗ chuẩn bị tâm hồn dân chúng.
Chẳng may, quá hợm
hĩnh, kiêu căng với tôn giáo riêng của mình (Dothái giáo = Jusdaism), họ đã đi
lạc con đường Thiên Chúa mong muốn.
Họ đã nhiều lần
bất trung phản bội với chính Thiên Chúa. Tệ hại hơn cả là khi chính Chúa sai
Con Ngài xuống trần gian để đem lại nguồn cứu độ, dân Dothái chẳng những đã
không muốn đón nhận mà lại ra tay giết đi.
Thực ra, vì là Con
Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, khi xuống trần, đã mượn thân xác hữu hình như mọi
người, để dạy dỗ và làm gương cho chúng ta, nên sau khi thọ hình, Ngài đã phục
sinh vinh hiển.
Đức Kitô đến chẳng
những để cứu thế mà còn để bổ túc tất cả những gì thiếu sót trong Lề Luật Đạo
cũ, thời Cựu Ước.
Những giáo huấn
của Ngài và các Tông Đồ đã được gom lại thánh Thánh Kinh Tân Ước, như để hoàn
tất mọi điều mạc khải của Thiên Chúa cho nhân loại.
Ngài chịu khổ đau
và chịu chết để dạy loại người về ý nghĩa của đau khổ và cái chết.
Ngài sống lại để
chứng minh Ngài đã chiến thắng tất cả và bảo đảm cho ta sẽ được sống mãi với
Ngài, nếu thực tâm muốn đi theo Ngài.
Ngài đã lập nên
Giáo Hội để hướng dẫn và thánh hóa chúng ta,
bằng nhiều phương thức khác nhau, đặc biệt bằng ơn sủng qua việc lãnh
nhận các nhiệm tích ; có các vị Tông Đồ cũng như các đấng kế vị thay mặt Ngài
coi sóc đời sống thiêng liêng của tín hữu.
Thế là thay vì giữ
dân Dothái làm dân riêng, Đức Kitô đã mời gọi các người tin theo Ngài trở thành
dân mới của Thiên Chúa, và người ta bắt đầu nói đến KITÔ GIÁO từ đó, dẫu rằng
Kitô giáo luôn nằm trong khuôn khổ Đạo Thiên Chúa.
Ở đây, người ta được
biết nhiều hơn về chính Thiên Chúa (như Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi), cũng như
về cuộc sống và ý nghĩa đời người, nhất là biết rõ những phương thức chính đáng
để sống và chuẩn bị cho cuộc đời vĩnh cửu mai sau.
Khoảng 6 thế kỷ
sau khi Đức Kitô xuống thế, bên miền Trung Đông có một người tên là Ma-hô-mét
tự xưng là phát ngôn nhân chính thức và cuối cùng của Thượng Đế (ông gọi là
đấng Allah), để rồi lập ra Hồi Giáo (Islamism). Ma-hô-mét viết ra tập sách
Coran như tóm gồm mọi giáo thuyết của ông. Trong sách này có nhiều điểm tương
đồng với sách Cựu Ước của thời dân Dothái, nhưng lại có vô số quan niệm và điều
thực hành khác biệt trong đời sống.
Hồi Giáo đã có cơ
hội phát triển mau lẹ và mạnh mẽ đi các nơi, nhất là trong “thế giới” Ảrập.
Không may, Hồi Giáo đã có nhiều va chạm và thường rất ác cảm với Kitô Giáo cũng
như Dothái Giáo.
Tiếp đến thế kỷ
10, một biến cố khác đáng buồn là ngay trong nội bộ Kitô Giáo, một nhóm bên
Đông Âu tự tách ra lập thành Giáo Hội Đông Phương (tự gọi là Chính Thống Giáo).
Họ không muốn tuân phục quyền phổ quát của Giáo Chủ Kitô Giáo ở La Mã nữa, đồng
thời tạo nên một số nghi thức mới riêng biệt. Từ đó, Kitô Giáo nguyên thủy thường
được gọi là Công Giáo La Mã để phân biệt với giáo phái mới kia. Rồi đau thương
hơn nữa, tới thế kỷ 16, từ bên Châu Âu, ông Luther cùng với một số đồng bạn đã
khởi xướng thuyết Cải Cách để lập thành Giáo Hội Tin Lành (gốc gọi là Thệ
Phản), dần dần với nhiều nhóm nhỏ với những giáo thuyết khác biệt ở nhiều nơi.
Đa số đều chỉ nhận Đức Tin làm căn bản và chỉ muốn dựa hoàn toàn vào Sách
Thánh, thay vì còn phải vâng phục vào phán quyết của Giáo Quyền.
Thế là, cùng thuộc
Kitô Giáo, cùng là Thiên Chúa Giáo, người
ta đã xé tấm áo nguyên thủy ra thành nhiều mảnh.
Ở chương sau, chúng ta sẽ thảo luận về Giáo
Hội nguyên thủy này