THIỀN LÊN
NGÔI
Đạo Phật đã lúc thịnh lúc suy, nhưng chẳng may cho đến hôm
nay, giáo-lý của Đức Thích-Ca chưa một lần được đa số dân-chúng Ấn-Độ của Ngài
đón-nhận.
Họ đã chọn Ấn-giáo, một biến-thể của đạo Bà-la-môn, thành
như một thứ tôn-giáo quốc-gia. Số ngừơi
theo Phật-giáo tại nước này còn thua xa số người theo Hồi-giáo được đem
tới từ miền Trung-đông xa ở hướng tây.
Bù lại, các quốc-gia phía đông và bắc lại hoan-hỉ đón-nhận
giáo-lý ‘từ-bi’ của nhà Phật, trong đó có cả dân-chúng Việt-nam.
Quan-trọng hơn cả, giáo-lý Phật được du-nhập quốc-gia đông
dân nhất thế-giới là Trung-hoa, tạo ảnh-hưởng không nhỏ bên cạnh Khổng-giáo và
Lão-giáo đã hiện-diện từ trước. Chúng ta nghe nói nhiều tới công-lao của nhà sư
Đường-tam-Tạng ( Huyền-Trang ) cùng 3 đệ-tử qua xứ Ấn (Thiên-trúc) để thỉnh
kinh, được phổ-thông hóa nhờ pho truyện
Tây-du-ký lừng danh. Vua nhà Đường cùng cả thần-dân vui mừng tôn-xưng ngài là
quốc-sư và coi ngài là vị anh-hùng cũng như ân-nhân vĩ-đại .
Nói tổng-quát, vì Phật-giáo đựơc truyền qua Việt-nam nhờ
ngả Trung-hoa, nên chúng ta theo dõi và hiểu Thiền theo cái nhìn Đại-thừa (gọi
là Bắc tông hay Đại-chúng) : Quan-niệm Đức Phật ban sơ chỉ là một Bồ Tát từ cõi
trên cao tự nguyện trở lại với loài người để giúp giải-thóat họ khỏi khổ-đau.
Ngài đản-sanh làm thái-tử Tất-đạt-Đa, ở thành Ca-tỳ-la-vệ thuộc xứ Thích-ca,
dưới chân núi tuýêt, phía tây nước Nepal.
Đại-thừa nhấn mạnh ý-hứơng cứu đời của Phật : Sau 49 ngày
tham-thiền, Ngài ‘đốn ngộ’ (ngay tức khắc) để vào Nát-bàn. Nhưng rồi Ngài đã
hy-sinh ở lại đi giảng-thuyết suốt 49 năm trời, mong chúng-sinh cũng đựơc
giác-ngộ như mình.
Xin mở một dấu ngoặc nơi đây : Khác với ngành Đại-thừa,
Phật-giáo Tiểu-thừa tại các quốc-gia phía Nam như Thái-Lan, Lào, Miên v.
v....với ý-thức mình là Phật-giáo nguyên-thủy, lại tin rằng Đức Thích-Ca chỉ là
một nhân-vật lịch-sử, rất ngừơi. Ngài không ‘có’ trước ngày mình sinh. Ngài
thành Phật nhờ nỗ-lực riêng như mọi chúng-sinh khác. Hệ-phái Tiểu-thừa này
không đề cao việc sinh-họat xã-hội bên ngòai.
Tại Trung-hoa, với thời-gian, người ta đếm được tới 10 tông-phái.
Phổ-thông hơn cả là Tịnh-độ-tông (chuyên niệm danh-hiệu Phật A-di-đà), Mật-tông
(chuyên về đọc thần-chú), và Pháp-hoa-tông (ưa đọc và tìm hiểu kinh Pháp-hoa).
Riêng về Thiền-tông thì chú-trọng về Tọa-thiền và đựơc đem vào nước bởi ‘tổ-sư’
Bồ-đề-Đạt-Ma. Vị này là tổ Thiền-tông của Tàu, nhưng chỉ là tổ thứ 28 nối
nghiệp tổ thứ nhất là Ma-ha-ca-diếp bên xứ Ấn.
Bồ-đề-đạt-ma ban đầu gặp nhiều khó-khăn trắc-trở, nên có
lần ngài dùng cách Thiền ‘diện-bích’ (quay mặt vào tường) suốt 9 năm trời. Lời
dạy quan-trọng của ngài là phải tìm vào chính cái Tâm sâu thẳm của mình mà nhìn
ra chân-lý, thay vì ở bất cứ nơi đâu khác. Dân chúng ghi nhớ mãi lời ngài nhắc
: Lời Phật dạy giống như ngón tay chỉ cho ta thấy mặt trăng. Hãy nương theo
ngón tay đó mà nhìn thấy trăng, chứ đừng chỉ nhìn ngón tay.
Thiền-tông dần-dà đi vào lòng đại chúng : Đa số chấp-nhận
nó như một pháp-môn cao nhất và chân-chính nhất của Phật-giáo.
Lại xin mở một dấu ngoặc nữa ở đây : Khi truyền qua
Việt-nam, lúc đầu phái Thiền tông cũng rất được ưa-chuộng, nhưng dần dần nguời
ta học cách dung-hợp các pháp-môn lớn được giới-thiệu qua. Dự một khóa lễ tại
các chùa Việt-nam, ta sẽ gặp sự tổng-hợp của các thiền ngữ, các câu thần chú và
danh hiệu Phật. Đây có lẽ là một nét son chăng ?
Đúng ra, thiền-tổ Đạt-Ma đã mượn gốc võ học của xứ Ấn là
YOGA để phổ-biến việc tu-thiền. Đặc biệt hơn nữa, ngài đã dạy các tăng ni
phương-pháp dùng quyền cước(đôi khi thêm vài vũ-khí như giới đao thuyền trượng)
để tự-vệ. Theo tài liệu cổ của trường-phái võ-học Thiếu-Lâm, chính ngài là vị
khai sáng ra phương-pháp ‘thổ nạp’ tức hô-hấp để tập-trung ý lực. Nói cách
khác, với cái quan-niệm căn-bản về Thiền, ngài dạy môn-đệ làm chủ hơi thở,
thành ra căn-bản của môn võ Thiếu-lâm chính là Khí-công. Nhờ phép này mà làm
việc nhiều vẫn không mệt, trong khi tâm-trí vẫn nhẹ-nhàng thanh-thản, gíup ta
dễ tập trung tinh-thần.
Với phong-trào Thiền như trên, người ta cảm thấy phần nào
dứt bỏ những phiền não mà vui sống cũng như hướng tâm-tư theo dõi nứơc bước của
Phật.
Ngôn-ngữ Trung-hoa bắt đầu quen với danh-từ Thiền : Nó
được ghép bằng chữ ‘Thị’ đi trước chữ ‘Đan’, nói lên trạng-thái đơn-thuần của
tâm-linh. Anh-ngữ hay viết thành SHAN, trong khi bên Nhật-bản thì ai cũng nghe
tới ZEN.
Phải công bằng mà nói rằng tuy lúc ngài Đạt-Ma viên-tịch
vào năm 528 Thiền-tông đã chiếm thế thượng-phong ở nước Tàu, nhưng phải đợi cho
tới vị tổ thứ sáu là ngài Huệ-Năng thì Thiền mới đạt tới chót đỉnh uy-danh, với
ảnh-hưởng tràn-lan như vũ-bão. Cho đến đời Minh thì quả thật Phật-giáo đã
đồng-hóa hẳn với Thiền-tông, vào sâu trong tâm-khảm của cả giới bình-dân cũng
như quan quyền.
Cũng nên ghi nhớ rằng đã có một thời Thiền-tông bị chia ra
2 phái Nam và Bắc. Miền Bắc có ngài Thần-Tú lãnh-đạo. Vị này chủ-trương
thi-hành Thiền thong-thả, tiệm-tiến, trong khi phe Nam của Huệ-Năng thì dạy
phải tìm giác-ngộ tức thì (đốn). Thế là có câu ‘Nam đốn Bắc tiệm’. Dầu sao,
thanh-thế của ngài Huệ-Năng vẫn trổi-vượt vì nó đạt tới chỗ thuần-túy
Trung-hoa.
Thiền-tông đã cảm-hóa được cả nước. Nó đã gây ảnh-hưởng
to-lớn với Lão-gíao, kể cả chuyện khuôn-đúc lại tư-tưởng và ngôn-ngữ của
tôn-giáo này. Riêng với Khổng-giáo vốn dĩ được hàng vua chúa trọng dụng, nhất
là ở thời-đại ta quen gọi là ‘Tống Nho’, cũng đã song hành với Phật-giáo để tìm
thấy tình-trạng phục-hưng tốt-đẹp.
Vì cốt lõi Phật pháp nằm ở giáo-lý về Giác-ngộ và Nát-Bàn,
những điều Đức Phật hằng ấp-ủ trong suốt cuộc đời 79 năm của Ngài, nên
Thiền-tông Trung-hoa cũng phải dựa vào đó mà giảng-dạy, dĩ-nhiên một cách
tài-tình khéo léo sao cho hợp với tâm-hồn ưa thực-tiễn của dân bản xứ
: Họ chưa thấy cần chuyện ‘giải-thoát’, nhưng lại rất ưng tìm ra mục thanh-thản
tâm-tư.
Thế là người người đi học Thiền. Đó đây nghe ‘quảng-cáo’ :
Nhờ Thiền mà ta biết tập trung tư-tửơng giúp công-việc hiệu-quả hơn. Nhờ Thiền
mà ta dễ nhận-thức các việc xảy ra chung quanh, đặc biệt những điều xảy ra
trong tâm-tư. Khi Thiền, ta thấy đầu óc an bình khóai lạc, rồi còn cho ta thấy
hình-ảnh đích-thực của chính mình. Thiền còn giúp ta sống với hiện tại, thay vì
nuối-tiếc dĩ-vãng hoặc lo-lắng tương-lai. Nó còn cho ta thóat khỏi niềm cô-độc
bởi giam-hãm mình trong cảnh ‘vô-minh’, và sau đó cho ta cơ-hội vươn lên với
cõi cao-siêu và đạt cảnh Giác-ngộ tối-hậu.
Trong cái khung Phật-giáo, Thiền dĩ nhiên đưa ta tới những
đức tính Từ Bi, tới tinh-thần Vô Úy, hết còn sa lầy trong cảnh tham lam mê
muội. Nó giúp ta rũ bỏ khổ-đau và thấu-hiểu tính-cách vô-thường, vô-ngã của
vạn-vật, cũng như cảm-xúc và tư-tưởng. Nó lại cho ta niềm vui được luôn
tỉnh-thức hướng về cõi Nát-bàn.
Người ta cũng tin rằng nhờ Thiền mà ta có thể làm chủ được
chính tương-lai mình, theo cái nhìn của Nguyễn-Du trong truyện Kiều :
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ tài.
Dần dà người ta truyền cho nhau những chi-tiết và kinh
nghiệm khi thực-hiện Thiền, đặc biệt về tư-thế khi ngồi : nào là thế kiết già,
bán già, xếp bằng hoặc ngồi trên ghế. Điều căn bản là luôn phải giữ cho xuơng
sống, cổ và đầu cùng trên một đường thẳng đứng, tạo thành một góc vuông với mặt
đất.
Các Thiền sư hay nhắc : Phải bắt chước Đức Thích-Ca khi
Ngài đi thuyết-pháp, dù đã chứng ngộ thành Phật, nhưng vẫn còn thân bịnh, còn
cảm giác, còn ký-ức, còn suy-nghĩ; tuy nhiên Ngài không dính mắc vào chúng,
không xem chúng là ‘tự ngã’, là ‘ta’.
Quan-trọng là giáo-điều ‘không được mong ước bất cứ chuyện
gì khi tham Thiền, kể cả việc Giác ngộ’. Phải chấm dứt và quên tất cả để
hòa-đồng với vạn-vật, tới tình-trạng ‘thể nhập vạn pháp’.
Trước khi ngài Đạt-Ma đem ‘Thiền Phật’ vào nước Tàu, dân
chúng thấy nhức đầu với những mớ giáo-điều nặng-nề và lý-thuyết xa-vời về
Phật-giáo. Thế là ngài đã đơn-giản hóa tất cả, đã chỉ vẽ cho Phật-tử sống
Thiền với từng sinh-họat và biến-cố
hàng ngày. Chỉ cần làm chủ được cái Tâm của mình là xong hết. Ngồi Thiền theo
gương Phật là ngồi ý-thức tòan-vẹn về chính mình, về những gì đang có xung quanh
và những tư-tưởng trong đầu. Chỉ có thế.
Từ cái tư-thế ‘ngồi’ căn-bản và thực-tế nhất cho việc
Thiền, ta còn phải biết sống tinh-thần Thiền nơi mọi sinh-họat, dù là lúc đi
đứng chạy nhảy.
Dân Trung-hoa đã học sống Thiền qua bao thế-kỷ để rồi
hãnh-diện đem đi truyền-bá ra những quốc gia láng-giềng.
Nhật-Bản thực sự đã du-nhập tư-tưởng Thiền một cách hăm-hở
và đặc-biệt hơn cả. Cách riêng, họ còn đẩy mạnh cái phần thực-tế của ‘đạo
Thiền’ vào cuộc sống thường-nhật một cách tuyệt vời.
Dân Nhật ngày nay hiểu và thực-hành một thứ ‘ZEN
toàn-diện’ : Tự mình tạo ra cuộc sống thái-an, hòa mình cùng cả vũ-trụ, mọi
nơi, mọi lúc, trong mọi vịêc, mọi hòan-cảnh, mọi lãnh-vực ( văn-chương,
nghệ-thuật, dưỡng-sinh, kỹ-thụât, giải-trí….)
Để chuẩn-bị bước vào chuyện Thiền tích-cực, người ta phải
cố-gắng xa lánh điều xấu và ác trước, sau đó sẽ lần lượt tìm cách tiến tới 3
chặng sau đây :
· Chặng Kỷ-luật : Thứ tự, ngăn nắp,
vệ-sinh, đơn-giản, thơm-tho, hòa-hài, trong-sáng, an-ninh, quân-bình…trong mọi
sự, từ thân-thể tới nhà cửa và công-việc, từ suy-nghĩ tới ngôn-ngữ, hành-động.
· Chặng Luyện Thân : Xác khỏe mạnh thì Hồn
an-vui. Cần biết điều-hòa hơi thở trước hết, sau đó, học vận-động thể-dục, học
xoa-nắn, học trị-liệu phòng-ngừa, học nghệ-thuật thư-giãn, học kiểm sóat việc
ăn-uống, học trị bệnh….
· Chặng Luyện Tâm : Tìm cách điều-hòa
giác-quan để làm chủ mọi cơ-năng thân xác. Học cho biết tập-trung tư-tưởng, cho
tâm-trí được tự-do khỏi bị ràng-buộc bởi trăm mối ngổn-ngang. Sau đó đi vào
thói quen tham thiền thường-xuyên, tạo tâm-tư trống-rỗng, đem tới tình-trạng
hòa mình cùng chân-Phật, hưởng phút giây an-nhiên tự-tại.
Nhiều người đã nhờ Thiền mà gặp một ‘đạo’ sống thượng-đạt, hạnh-phúc.