KẾT LUẬN
THỰC HÀNH
Bây
giờ, nói nôm na, ta thử bước từ chặng THIỀN VỚI PHẬT qua chặng THIỀN TRONG CHÚA , coi xem câu chuyện có
êm-xuôi hay chăng.
Từ
lúc lịch-sử và văn-hoá xứ Ấn-độ còn mịt-mùng khói-sương, người ta đã biết tới
YOGA, cái ‘tiền thân’ yêu-qúy của THIỀN. Yoga cũng liên-hệ tới chuyện đạo-giáo,
nhưng xem ra chú-trọng đến mục luyện
thân thể nhiều hơn.
Cái ‘thân’ này luôn được tin giữ vai-trò đắc-lực hỗ-trợ tái ‘tâm’ trong
con người.
Qua
bao ngàn năm, các bậc thày bên xứ ‘Thiên-trúc’ đã gìn-giữ và đào sâu thêm cái
kỹ-thuật và truyền-thống cao-cả trong việc ‘Nhập Nội’ của mình, khiến gây
kinh-ngạc cho khách từ phương xa.
Người
ta hãnh-diện bởi tin rằng Yoga cũng như Thiền có năng -lực giúp con người, sau
khi luyện Thân và luyện Tâm, còn hỗ-trợ chuyện luyện Đức. Thế là, theo ngôn-ngữ
nhà Phật, chúng ta có sức tiến tới chỗ Đại-giác, Đại-độ, Đại-thông và dần-dà đi
vào Hạnh-phúc viên-mãn ( nhờ tình-trạng Tự Ngã Tự Thân : Hoàn toàn làm chủ mình
để chuẩn bị bước vào cõi siêu-nhiên, hiệp-nhất với ‘siêu-việt-thể’ ).
Nhà
đại tư-tưởng và triết-gia J.Krishnamurti đã từng lên tiếng mời gọi như sau :
“Cùng nhau chúng ta hãy trầm-tư, hãy nhẹ bước trên con đường nhỏ tịch-mịch,
thinh-lặng và xinh-đẹp, rồi ngước mắt nhìn lên ngọn núi với tuyết phủ trắng
xoá…và đây, trong một thoáng, bạn thấy như quên cả chính mình, quên mọi
muộn-phiền, quên mọi thứ trong cả quá-khứ lẫn hiện-tại. Hồn bạn sẽ bị cuốn-hút
và hoà-nhập vào cả vũ-trụ bao-la : hết còn bản-ngã, chẳng còn cái Tôi. Và sau đó
hãy từ-tốn bước vào đời trong cái tâm-trạng này, với lòng trí đơn-sơ và
thuần-khiết, bỏ lại sau lưng cái mớ kiến-thức được tích-lũy từ lâu nay. Đầu óc
bạn sẽ thanh-thản, tự-do và tâm-hồn bạn sẽ được linh-hoạt và sống-động, cũng như
cả con người bạn sẽ tràn đầy năng-lực khác thường “.
Tuy
nhiên, ngó vào hành-trang của những vị Thiền-sư ‘thứ thiệt’, ta sẽ thấy cái mục
tìm an-vui được Krishnamurti giới-thiệu trên đây chỉ là cái bước sơ-khởi ở bậc
‘mẫu-giáo’. Muốn đặt chân vào lãnh-vực Thiền cho đúng nghĩa, như chúng ta đã
nói ở chương đầu, ta phải lãnh-hội cho thấu-đáo tâm-tư của Phật-tổ khi ngài
tham-thiền dưới gốc cây Bồ-đề hơn 2 ngàn năm trước.
Muốn
tẩy sạch lòng trí khỏi mọi ham-muốn và ước-mơ, cũng như giã-từ mọi bóng-dáng
của cái Ngã nặng-nề ư ? Ta phải đi vào khuôn-khổ của giáo-lý nhà Phật.
Thế
nghiã là ta không được hiểu Thiền chỉ đơn-thuần mang ý-nghĩa cuả chuyện tìm
‘nghỉ mệt’. Nó cũng không chỉ là việc lên chùa dự khoá tu thiền như đi tới
phòng mạch bác-sĩ thần-kinh. Các bài-học qua sách vở bày bán khắp nơi may ra chỉ có giá-trị bằng vài viên thuốc an-thần có công-hiệu
nhất thời, đặc biệt cho những con bệnh đang gặp trục-trặc tâm-lý vì cuộc sống đang
quá ‘vọng động’.
Thiền
chân-chính đòi một nấc thang đã có khả-năng ‘chứng-nhập thực-tại tuyệt-đối’
theo giáo-thuyết của Đức Như-Lai. Ở nấc thang này, con người không cần lo vượt
qua những ràng-buộc hay biến-động nữa, cũng chẳng cần kiềm-chế cho cái Tâm được
yên-nghỉ thêm, cũng không phải lo giải-trừ phiền-não. Bởi ta và vũ-trụ đã thành
một thực-thể không phân-biệt, không biên-giới. Đây chính là hính-bóng của một
trí-tuệ siêu-việt sẵn-sàng chờ chuyện giải-thoát.
Vậy
vẫn là chuyện đã rõ từ ban đầu : Thiền là việc đưa ta đến mục-tiêu trở thành
Phật. Chuyện nắm được cái ‘vô biên vô tận’ cũng như chuyện đạt đích ‘giải-thoát
tối hậu’ theo Phật-tổ nó khác xa với việc ta trải qua vài giờ đồng hồ để mong
giữ cho thân tâm được ‘nghỉ ngơi’.
Thành
ra, ta phải kết-luận dứt-khoát : Thiền đến từ nhà Phật. Nó quấn-quýt lấy
giáo-lý không đề-cập chi tới một đấng Tạo-hóa tối-cao có sức chi-phối mọi
sinh-hoạt và biến-chuyển của vũ-trụ cũng như nhân-loại. Có thể Đức Thích-Ca chưa muốn nhắc tới
Thiên-Chúa vì chỉ tạm nhằm giúp con người mau thoát ‘bể khổ’ trần gian. Tuy
nhiên, giáo-lý đạo Chúa nêu lên cái điều khác biệt từ căn-bản gốc-rễ, lớn lao
và nghiêm-trọng khi phải nói về một Tôn-giáo. Người ta không thoải-mái khi dùng
từ-ngữ ‘Vô Thần’, nhưng thực-sự đạo Phật không ( hoặc chưa ) công-nhận sự
hiện-diện của một đấng Tối-cao như bên đạo Chúa.
Câu
chuyện chúng ta bàn-bạc trong tập sách bé nhỏ này là chuyện THIỀN : Nó đang được
nói trên cửa miệng mọi giới. Nó cũng gây sức hấp-dẫn cuốn-lôi bao cá-nhân cũng
như đoàn-thể. Chúng ta đã phải công-nhận nó đang là cái ‘mốt’ thời-thượng hôm
nay.
Cái
tin vui là truyền-thống Thiền đã gây ấn-tượng và ảnh-hưởng tích-cực không nhỏ
qua bao thế-hệ. Nó đã từng là động-cơ phát-triển cho bao tổ-chức và cơ-sở
Phật-giáo, nhất là tại Việt-Nam
(
tìm lên nương-náu cửa Thiền !). Phương-thức và kỹ-thuật của Thiền quả thật cao
siêu, không mấy ai tranh-biện hay chối cãi.
Thế
là, trong cái khung-cảnh của xã-hội ồn-ào náo-nhiệt ngày nay, chúng ta cùng
nhau ‘mạo-muội’ ( hay táo-bạo ) đi
tìm một lối đi ‘đại-kết tân-thời’ : Mượn cái ‘bao’ (vỏ) của
Thiền, với những kinh-nghiệm về phương-pháp và kỹ-thuật dồi-dào, rồi thay vào
bên trong (cái ruột) bằng những nội-dung, những giáo-lý, những tâm-tình đạo
Chúa.
Nói
khác đi, ta dùng toàn chất-liệu căn-bản Ky-tô giáo được lồng trong cái
hình-thức Thiển theo nhà Phật. Tất cả chỉ là mượn cách tập-trung hơi thở, định-hướng
nội-tâm, học thế đứng ngồi…để tiến tới trạng-thái ‘tâm an thần định’. Nó còn
kèm theo cách-thức làm chủ trí tưởng-tượng và mọi cảm-quan, trước khi tìm về
bậc thuần-nhất và đơn-giản-hoá cái đối-tượng ta suy-niệm, và cuối cùng
siêu-thoát, không còn thấy cái ta lẻ-loi nữa : Sẽ biến tan làm một với Chúa và
trở thành hư không trước thánh nhan Chúa (bên Phật gọi là tới chỗ ‘định hư’).
Cái
yếu-tố quan-trọng hàng đầu của Thiền chính là hơi thở. Ở đây, ta thở ra hít vào
chính Thần-Linh của Chúa, làm như hít thở chính khí trời. Chính việc tác-động
của Thần-Linh này sẽ cho phép ta bàn tới môn ‘Thiền Ky-tô giáo’.
Thiền
Đông-phương đã từng chú-ý một cách đặc-biệt vào mục làm chủ hơi thở : Thở chậm
và đúng cách sẽ giúp làm
thể-chất cũng như tinh-thần
chúng ta hoạt-động hăng-say hữu-hiệu hơn, kể cả chuyện giúp các bệnh-nhân mau
hồi-phục sức khỏe. Giống như bên Lão giáo dùng chuyện này để tiếp-nhận những
khí-lực cuả trời đất, nhà Phật thích dùng nó để làm trọng-tâm cho công-tác
Thiền-Định.
Thở
‘đúng cách’ thực ra là thở bằng bụng : Hít khí trời vào thật chậm và lâu rồi
dồn khí xuống bụng ( đan điền ) thay vì chỉ ‘khơi khơi’ đưa vào phổi. Sau đó
lại thong-thả thở ra bằng miệng. Bầu khí dồi-dào này sẽ bồi-bổ toàn thân cũng
như làm trong-sáng tâm-linh : Nó giúp ta bình-thản nhìn ra thực-tại trong trí
lòng mình cũng như ngoại cảnh. Cách riêng nó giúp làm bớt tâm-trạng căng-thẳng
và lo-sợ cũng như sầu-buồn.
Lời
khuyên tổng-quát cho việc thực-tập Thiền là như sau : Cần chuẩn-bị tâm-tư trước,
cần gạt bỏ những ý-nghĩ giận-dữ bực-bội hay muộn-phiền, rồi tìm một khung-cảnh
thanh-tịnh với làn-khí êm-nhẹ thoải-mái. Thời-gian nên ở vào lúc ta ít bị chia
trí hoặc lo-lắng nhất ( ít ra để khỏi phải cố-gắng quá mức khi muốn tập-trung tư-tưởng
), và dĩ nhiên nên tránh lúc vừa ăn no hay uống nhiều rượu. Riêng về tư-thế của
thân-thể, ta có thể Thiền cả khi nằm, đứng, ngồi hay qùy. Tuy nhiên thế ngồi thường
là thuận-lợi và phổ-thông nhất. Đa số ngồi ‘xếp bằng’ (kiết già) và có thể kê
một chiếc gối ở dưới ( nếu cần có thể ngồi trên một ghế bình-thuờng ).
Tuy-nhiên luôn phải giữ cho lưng thật thẳng ( có thể bắt đầu bằng cách ngồi dựa
lưng sát vào tường ).
Riêng
về hai tay, ta có thể để ngửa hoặc úp lên đầu gối, mà cũng có thể đặt hai bàn
tay ngửa lên nhau ở giữa lòng. Còn về hai mắt thì tốt nhất nên ‘lim dim’ ( mở
mắt dễ chia trí từ ngoại cảnh, và nhắm mắt dễ chia trí từ nội tâm ).
Lý
tưởng là ta nên bắt đầu ‘tham thiền’ mỗi ngày nửa tiếng đồng hồ. Dĩ nhiên khi
mới thử sẽ thấy khó ‘cầm trí’ lắm. Nhưng ta cứ phải kiên-trì dài lâu. Rồi cũng
sẽ quen.
Nào
mời các bạn cùng nhập cuộc nhé. Ta ngồi thoải-mái và hít vào Thần-khí của
Thiên-Chúa cho tràn ngập thân xác và tâm tư mình. Giữ thái-độ rất dịu-dàng và
mở rộng, không gò bó hay gượng gạo chi hết. Hãy để cho Thần-khí này thống-lãnh
và hướng-dẫn trí lòng ta, sẵn-sàng cho con người mình tan-biến trong sự hiện-diện tuyệt-đối của Chúa trong ta.
Rồi
tự-nhiên một tư-tưởng bất-thần xuất-hiện trong tâm-tư ta ( hoặc ta có thể tự khơi
ra ), ví dụ nhớ lời Chúa nói với Martha ‘con lo-lắng bối-rối về nhiều chuyện
quá, chỉ có một điều cần-thiết trên đời….’ Ta bắt đẩu để cho Thần-khí Chuá tác động
giúp ta hoà-nhập vào tinh-thần của Đức Ky-tô khi Ngài phán lời này.
Tiến-trình
tĩnh-tâm, suy-gẫm và chiêm-niệm cứ thế mà trôi đi, nó đem đến cái mục ý-thức và
chứng-nghiệm cá-nhân rõ-ràng : Đó chính là trạng-thái Tỉnh-thức và Giác-ngộ
chân-lý của Thiền. Nó thấu-nhập vào hồn ta và hướng ta tới chỗ đem ra sống.
Thiền Đông-phương cho ta kinh-nghiệm về chuyện ‘cầu-nguyện tập-trung’ được ‘rửa
tội’.
Trong
việc này, ta không hề mở miệng đọc một lời kinh, không một lần xin sỏ thứ gì,
cũng chẳng ước mơ chuyện chi. Một cách nào đó, ta quên hết không-gian lẫn thời
gian, và đóng tất cả mọi giác-quan, mọi xúc-cảm, mọi suy-nghĩ, mọi lo-lắng và
ràng-buộc : thế là ta chìm vào cõi im-lặng tựa-hồ của cõi hư-vô, nhưng chính là
cõi ‘trời mới đất mới’ bên Chúa.
Và cùng một lúc, ta vẫn ý-thức
mình đang được kết-hợp với Ngài.
Trong
thực-hành, ta ‘an-trú’ bình-yên trong tình-thương ấp-ủ của Chúa, là đấng
ẩn-giấu trong cõi im-lặng. Qua chuyện ‘Thiền trong Chúa’ như vậy, ta gặp được
Chúa trong cái trống-vắng nhiệm-mầu, không thể tả bằng bút hay nói ra bằng lời,
nhưng chỉ bằng cảm-nghiệm cá-nhân, thật giản-dị và đơn-sơ. Tất cả nhờ vào chỗ
hoàn-toàn phó mặc và tin-tưởng vào tình-yêu của Ngài.
Linh-mục
Chu-Công, cũng là bạn đồng-môn của cha Thomas Merton, đã đồng-ý với nhà tu-đức
thời danh này để phát-biểu rằng : Lúc đó, ta không chủ trương đi tìm cái gì cho
mình hết ( dù là sự bình-an ), mà cũng chẳng xử-dụng tới lý-trí hay suy-luận,
nhưng chỉ đi tới động-tác là có một
kinh-nghiệm ‘vui sống’ trong sự hiện-diện của Chúa. Nhớ lại rằng Chúa đã
tạo-dựng linh-hồn chúng ta qua việc thở hơi vào xác-phàm con người : Sự sống đến
nhờ hơi thở của Thiên-Chúa. Thế là ta cứ ngồi im-lặng mà hít thở chính Thần-khí
của Ngài.
Nơi
đây là
lãnh-địa của niềm tin và khiêm-hạ.
Ta
trao-hiến trọn-vẹn cho tình yêu thương của Chúa, không đòi-hỏi hay giữ lại điều
chi cho mình.
Chính
những buổi chiêm-niệm ‘Định-An’ ( theo từ-ngữ của cha Hoàng-sỹ-Qúy ) như trên
sẽ cho ta một ngày sống với tình-yêu sung-mãn của Chúa tràn-ngập và bao-phủ
tâm-hồn ta liên-tục. Còn nếu ta Thiền vào buổi tối, ta sẽ được hưởng một giấc
ngủ an-bình tuyệt-hảo. Chính vị Linh-mục này xác-quyết rằng, sau một thời-gian
thực-hành, ngài đã thấy tác-động tỏ-tường của Thần-khí Chúa khi Ngài lấy những
gì Chúa dạy bằng ngôn-ngữ bên ngoài để dạy lại bằng kinh-nghiệm bên trong cho
ta.
Đây
là lúc chúng ta biết vượt qua ‘Đêm đen’ tâm-hồn như thánh Gio-an Thánh-giá đề-cập
: Ta phải rơi vào cõi ‘chân-không’ huyền-nhiệm, phải vượt ra khỏi cái điểm tựa
xưa nay thường dành cho cảm-năng, lý-trí cũng như ký-ức, bởi hết còn thấy
bóng-dáng cái Tôi của bản-thân mình. Thế là cái đầu tầu sẽ phải là chính ‘máy
phản-lực’ của Chúa Thánh-Thần.
Khi
ta ngồi Thiền mà suy-gẫm về lời Chúa “Ai đi tìm mạng sống mình thì sẽ mất, nhưng
ai đành mất thì sẽ gặp đuợc nó”, chúng ta sẽ thấm hiểu rằng đây là lúc phải
tập cho buông-rơi cái Tôi cố-hữu của mình, cùng với mọi sở-thích và ý riêng :
Chối bỏ nó để rồi nhận lại cái Tôi mở rộng bao la trong Chúa. Cái tinh-thần của
chuyện ‘bỏ mạng sống mình’ ở đây là biến đời ta thành ‘loài người mới’, với
trời mới đất mới theo sách Khải-huyền Tân-Ước.
Nói
cho rành mạch hơn, nếu Ấn-giáo bảo đời là một giấc mơ, Phật-giáo nói đời là sắc
tướng, Lão-giáo nghĩ đời là khung cảnh
cho ta siêu-thoát, thì Đạo Chúa luôn nhắc-nhở ta đời chỉ là cõi phù-vân : Mọi
sự mau qua chóng hết. Thế là ta cần học cách quên mình để sống theo mẫu Thày
Chí Thánh, lồng trong khung-cảnh yêu-thương vượt lên trên mọi hiểu-biết bình-thường.
Ky-tô
giáo gặp gỡ Đông-phương nơi cái kinh-nghiệm về sự huyền-nhiệm : Khi ý-thức rằng
Thiên-Chúa cao và sâu hơn chỗ cao và sâu nhất của tôi, thành ra tôi cần đồng-hoá
với Ngài, nhất là khi sung-sướng biết rằng Ngài đã đến với nhân-loại chúng ta,
và lại chết để cứu-chuộc loài người cũng như đã phục-sinh hiển-vinh.
Trước
sau cũng cần tiến tới bậc thang thánh Phao-lô đã từng đề ra : Tôi sống, nhưng
không phải tôi, mà là chính Đức Ky-tô sống trong tôi. Với cái kỹ-thuật của Thiền, ta tập nhìn và tìm
gặp Thiên-Chúa ở ‘trong’ ta thay vì ở
‘trên’ ta như trước đây ( Nước Trời ở trong tâm-hồn chúng con ). Chúng ta cũng
sẽ đi theo lối đào sâu vào nội tâm để ‘đạt ngộ’ nhiều ít tùy theo khả năng
chúng ta được biến-đổi và kết-hợp với Chúa. Và dĩ-nhiên một khi các mầu-nhiệm
về Chúa cũng như các lời Ngài giảng-dạy, nhờ được suy-gẫm và ăn sâu vào tâm-tư
ta, chúng sẽ tuần-tự được ta đem ra ứng-dụng trong đời sống thường ngày.
Lúc
đó nền-tảng Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến của chúng ta mới thực sự có bề sâu
vững-chắc, để rồi, theo lời Chúa nói, dù có mưa tuôn gió cuốn, căn nhà
thiêng-liêng của chúng ta vẫn đứng vững. Ngược lại, một khi chúng ta chỉ đọc
thoáng qua mấy câu kinh hay chỉ nghe vội-vã vài đoạn sách, Thần-khí của Chúa chưa
có cơ-hội thấm-nhập sâu vào trí lòng ta, căn-bản linh-thiêng lúc đó sẽ chỉ là
hời-hợt và nông-cạn.
Đầu
mối câu chuyện ở đây là chính cái sự kiện chúng ta ngồi tĩnh-lặng, dẹp bỏ hết
mọi trở-ngại lớn nhỏ để tạo nên một khung trời thuận-lợi cho việc tác-động của
Chúa Thánh-Thần. Cái khung trời đó bao gồm cái mục lòng trí ta trở nên mềm nhũn, tựa hồ khoảng trống hấp-dẫn gọi mời
thánh-ân Chúa tiến vào. Ở đây ta thấy được sự cần-thiết phải ra khỏi cái Tôi (
nhà Phật bảo phải chối bỏ cái Ngã ) theo ý-nghĩa của một cái ‘mặt nạ’ mình thường
đeo trong sinh-hoạt xã-hội hàng ngày. Thế là cần có sự Thức Tỉnh trong
tình-yêu, sau cuộc hạnh-ngộ lớn với Thần-khí Chúa, tựa như một cú va-chạm cực
mạnh, để ta có thể Giác-ngộ về mình. Lúc đó ‘mình’ cũng gần như là con số
không.
Cha
Sỹ-Qúy có nêu lên một cách Thiền bắt chước các anh chị em Phật tử khi liên-tục
niệm lời ‘Nam mô A di đà Phật’ : Sau khi ngồi thanh-thản và thở cho đều-đặn
nhẹ-nhàng, ta bắt đầu đọc nhẹ tên Giê-su, hoặc chỉ nhẩm thầm trong trí, bằng
tất cả lòng thành-kính và phó-thác. Sau đó dần dần đẩy sâu cái âm-thanh đầy
trìu-mến ấy vào trong trái-tim mình. Cần giữ cho lời niệm luôn ăn nhịp với hơi
thở.
Ta
có thể đổi lời niệm ‘Giê-su’ bằng một câu khác dài hơn, nhưng không nên dài quá
để phải gắng công nhớ. Ví dụ “ xin Chúa biến đổi lòng con”, hoặc “ con muốn nên
giống Giê-su”….Cứ niệm khoan-thai theo nhịp thở cho tới khi mệt thì nghỉ. Tới
một khoảnh-khắc nào đó, ta sẽ thấy bùng lên ngọn lửa lạ trong hồn, bất thần làm
ta trở thành con người cơ-hồ hoàn-toàn mới lạ.
Xin
nhắc lại ở đây : có lẽ cái chuyện sơ-đẳng nhưng hệ-trọng nhất cho những ai muốn
mon-men đi vào ‘làng Thiền’ chính là việc tập hít thở, sao cho chậm rãi và dài
hơi, nhất là hít khí và dồn xuống tận bụng thay vì chỉ vào phổi. Nơi ‘đan-điền’
này là chỗ tập-trung của mọi luồng sức. Các võ sư, đạo sĩ cũng như các bậc thày
Yoga đều biết xử-dụng ý và hơi thở để đả thông các huyệt-đạo, để dẫn khí đã tụ
sẵn ở đan-điền đi các nơi trong cơ thể.
Hít
thở như trên sẽ giúp ta tập trung tư-tưởng và năng-lực. Chuyện này là khởi-sự
cho cái tiến-trình tham-thiền của chúng ta. Lúc đó năng-lực của xác-thân sẽ tạo
nên một sức trợ-giúp hữu-hiệu cho việc chinh-phục nội-giới.
Cha
Sỹ-Qúy cũng nhắn-nhủ thêm thế này :”Dù cố-gắng đến đâu chăng nữa trong việc
Thiền, việc gặp-gỡ để yêu-mến và kết-hợp với Thiên-Chúa cao-vời trong tâm-tư
của chúng ta hoàn-toàn tùy thuộc vào tác-động của Thần-khí Chúa.
Thành
ra, trong khi cố-gắng áp-dụng phương-pháp, ta phải nhìn-nhận sự yếu-đuối của
chính mình, để tín-thác toàn-vẹn nơi Chúa.
Thế
là, chúng ta cùng khích-lệ nhau trong cái chuyện cầu-nguyện và suy-gẫm, tuy có
vẻ mới lạ nhưng đầy thành-qủa này. Thay vì phải ‘lên Chùa’ để tìm an-vui qua
các lớp tu-thiền theo định-hướng nhà Phật, chúng ta cứ ở nhà và hướng-dẫn nhau TÌM THIỀN
TRONG ĐẠO CHÚA.
Cố-gắng
tập làm quen với thinh-lặng và chiêm-niệm ( có lẽ Chúa ưa tỏ mình ra trong
lặng-lẽ hơn giữa chốn ồn-ào ). Ta không tìm trốn tránh trần-đời, nhưng Thiền như
thế sẽ giúp ta nhập-thế đầy ý-nghĩa và giá-trị hơn. Chả thế mà Chúa Giê-su thường-xuyên
khuyên các môn-đệ phải tìm nơi vắng-vẻ mà cầu-nguyện.
Thiển-trong-Chúa
cũng giúp ta trưởng-thành và chín-chắn hơn trong thái-độ và cung-cách sống. Nó
cũng tạo cơ-hội cho ta biết Chúa và biết mình hơn.
Cũng
nhờ lối sống Thiền-trong-Chúa mà chúng ta sẽ luôn an-bình, cũng như biết làm
chủ những buồn vui thường dễ gây xáo-trộn trí lòng. Bản-thân cũng như gia-đình
chúng ta sẽ được sung-mãn trong tinh-thần và ân-sủng Chúa.
Nguyện
chúc ai nấy đạt được ý-nguyện.