Tài Liệu Chúa Nhật Giáo
Lý
Dạy Giáo Lý và Việc
Công Bố Lời Chúa:
Một Suy Tư Thần Học
Trong lịch sử, sự tham
gia của giáo dân Công Giáo vào việc học Thánh Kinh, trừ một vài trường hợp
ngoại lệ, thường thì thận trọng và bất thường. Trong khi nhiều giáo sỹ và giáo
dân đồng ý rằng cơn đói “nghe Lời Chúa”, được ngôn sứ Amos công bố, đang đổ
trên chúng ta (8:11), thì ít người có thì giờ hay được huấn luyện để theo đuổi
khoa Thánh Kinh. Đương nhiên là có các lớp học cấp văn bằng hay không cấp văn
bằng, hoặc những chương trình giáo dục dựa trên Thánh Kinh từ những nhóm học
hỏi Thánh Kinh hay những trang web. Hằng năm có những sách chú giải mới xuất
hiện, đặc biệt nhằm đến những độc giả giáo dân. Chưa bao giờ mà những tài liệu
Giáo Lý lại phong phú về Thánh Kinh như thế. Tuy vậy, đám dân chúng ngồi dưới những
hàng ghế nhà thờ vẫn còn đói khát không phải “lương thực hay hư nát nhưng lương
thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga
Sự thất vọng của bà mẹ
trẻ này cũng phản ảnh mối quan tâm mà ĐTC Bênêđictô XVI đã đưa ra tại Thượng
Hội Đồng Giám Mục vừa qua: “Tuyệt đối cần phải khắc phụ sự nhị phân giữa khoa
chú giải Thánh Kinh và Thần Học” (Tháng 8/2008). Nói tóm lại, điều chúng ta
phải làm là lấy Thánh Kinh ra khỏi thư viện và đem vào phòng khách, là nơi mà
gia đình tề tựu. Các công tác mà phép so sánh này đề ra phải được hướng dẫn
bằng ba nguyên tắc làm việc:
Nguyên tắc thứ nhất là xem xét vai trò của những phương
pháp văn chương và lịch sử trong việc giải thích Thánh Kinh. Thánh Kinh là Lời của Thiên Chúa được diễn tả
bằng những ngôn từ của loài người. Công Đồng Vaticanô II đưa ra tính cách nhập
thể này của Thánh Kinh trong Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải (Dei Verbum): “Quả thật những lời của Thiên Chúa được diển
tả bằng những ngôn từ của loài người, trong mọi cách giống như ngôn ngữ loài
người, cũng như Lời của Chúa Cha Hằng Hữu, khi tự mình mặc lấy sự yếu đuối của
bản tính loài người, đã trở nên giống người ta” (số 13). Bởi vì Thánh Kinh
là Lời Thiên Chúa được nhập thể trong ngôn ngữ loài người, những phương pháp
phân tích lịch sử và văn chương là điều “không thể thiếu được” trong việc cắt
nghĩa Thánh Kinh (x. UBGHTK, Giải Thích
Thánh Kinh theo Hội Thánh).
Nguyên tắc thứ nhì để phổ biến Thánh Kinh cho giáo dân là
giúp cho các gia đình quý trọng vai trò của Thánh Kinh trong Hội Thánh, đặc
biệt là trong Phụng Vụ. Thánh Kinh là cuốn sách của Hội Thánh, là tập “ảnh gia
đình” của cộng đồng đức tin. Nghĩa là, như ông Michael Gorman nói, “rằng dù Thánh Kinh đã không được viết để
gửi cho chúng ta, nhưng được viết cho chúng ta” – nói cách khác, Thánh Kinh
được viết “cho tất cả Dân Thiên Chúa
trong mọi thời đại và ở mọi nơi.” (Elements of Biblical Exegesis [
Hai nguyên tắc nói lên
một sự giằng co không thể tránh được mà mọi Kitô hữu tìm cách giải thích Thánh
Kinh đều phải chạm trán. Một đàng, việc giải thích Thánh Kinh đòi hỏi phải
nghiên cứu kỹ lưỡng, cả về lịch sử lẫn văn tự; đàng khác, Thánh Kinh thuộc về
tất cả mọi phần tử đã được rửa tội trong Hội Thánh, dù có khả năng chú giải hay
không. Đây là sự giằng co mà bài góp ý của ĐTC ở Thượng Hội Đồng Giám Mục đã cố
gắng phục hồi. Sự giằng co này cần thiết và phải được duy trì. Đó là công trình
của Chúa Thánh Thần.
Hoạt động của Chúa Thánh Thần là nguyên tắc làm việc thứ
ba. Một đàng, Chúa Thánh Thần là Đấng “thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên
Chúa" (1 Cor
Việc rao giảng Lời Chúa cách hiệu quả trong việc dạy Giáo Lý tùy
thuộc vào cả ba nguyên tắc làm việc này, và việc lệ thuộc vào Thánh Thần cũng
như trung thành cách có sáng kiến với sự giằng co giữa Thánh Kinh của học giả
và Thánh Kinh của Hội Thánh.
Từ “Dạy Giáo Lý” được bắt nguồn từ một từ Hy Lạp ít khi được gặp
trong Tân Ước và không bao giờ có trong Bản Bảy Mươi, bản Hy Lạp của Cựu Ước,
được Hội Thánh thời sơ khai sử dụng cách rộng rãi. Động từ “dạy Giáo Lý” được
tìm thấy trong các Thư của Thánh Phaolô và Sách Tông Đồ Công Vụ của Thánh Luca. Đối với Thánh Phaolô, từ này được coi là từ chuyên môn dành cho việc
giáo huấn dựa vào Tin Mừng. Trong TĐCV
18:24-25, từ này được dùng để nói về ông Appolô, “thông thạo Kinh Thánh. Ông đã được học Đạo Chúa [được học Giáo Lý];
với tâm hồn nồng nhiệt, ông thường lên tiếng giảng dạy chính xác những điều
liên quan đến Đức Giêsu.” Rõ ràng là học giả Thánh Kinh này đã cùng Thánh
Phaolô dạy Giáo Lý cho dân Côrinthô, như Thánh Phaolô đã cho chúng ta biết khi
ngài viết: “Tôi đã trồng, Appolô đã tưới,
và Thiên Chúa làm cho lớn lên” (1 Cor 3:6). Tuy nhiên, ngoài hai đoạn Thánh
Kinh trên thì người ta biết rất ít về việc mục vụ của ông Appôlô hoặc ông ấy sử
dụng Lời Chúa thế nào trong việc dạy Giáo Lý. Về phần Thánh Phaolô, một Giáo Lý
viên nhiệt thành, các học giả hầu như chỉ biết mỗi ngày một đánh giá cao sự
mạnh dạn trong việc giải thích của ngài. Nhưng sự táo bạo của Thánh Phaolô chỉ
làm lộ ra sự hèn nhát của chúng ta trong liên quan đến bản văn Thánh Kinh. Có
thể khi dùng Lời Chúa trong việc dạy Giáo Lý, ông Môsê, “con người hiền lành
nhất trên mặt đất” (Ds 12:3), giúp chúng ta hiểu dễ hơn. Hãy chú ý đến những
câu mà Thánh Kinh nói về việc ông Môsê nói với “toàn thể dân
“Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây,
không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em. Mệnh lệnh đó không ở trên
trời, khiến anh em phải nói: ‘Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho
chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?’ Mệnh lệnh đó cũng không ở bên
kia biển, khiến anh em phải nói: ‘Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi
và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?’ Thật vậy, lời đó ở
rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực
hành.” (Đnl 30:11-14).
Trong những dòng này, ông Môsê bảo đảm với dân
Các Giáo Phụ là những vị mà công trình chú giải Thánh Kinh đã bị
nghành nghiên cứu Thánh Kinh hiện đại không mấy lưu tâm đến, xem ra cũng nghĩ
như thế. Các ngài tiếp cận Thánh Kinh không như những nhà chuyên môn, nhưng như
những Giáo Lý viên và những chuyên viên về nghi lễ, là những người tin tưởng
rằng “Lời Chúa thì sống động và linh
nghiệm” (Dt 4:12). Đối với các ngài cuốn sách Thánh Kinh đã không bao giờ
rời phòng khách. Các Giáo Phụ không phải không biết về sự cần thiết của những
nghiên cứu có tính cách phân tích. Các ngài nhận ra tầm quan trọng của nghĩa
văn tự của Thánh Kinh, nhưng các ngài cũng ý thức rằng Lời Hằng Sống có nhiều ý
nghĩa. Đối với các ngài, sự giằng co giữa việc chú giải Thánh Kinh và thần học
không phải là chỉ được giải quyết mà còn được phân giải như ánh sáng chiếu qua một
lăng kính. Cách đọc các bản văn Thánh Kinh của các ngài không những uyên bác mà
còn giàu tưởng tượng.
Trong khi đọc Lời Chúa, người Công Giáo nói chung, đặc biệt là các
Giáo Lý viên nói riêng, sẽ hiểu rõ hơn khi tái khám phá ra những sự khôn ngoan
của các Giáo Phụ, cũng như chứng từ của Thân Mẫu của Chúa. Vì trong việc chú giải
Thánh Kinh, cũng như trong toàn thể đời sống Kitô hữu, Đức Mẹ Maria là mẫu gương
và là Đấng chỉ dạy chúng ta. Câu truyện Truyền Tin trong Tin Mừng Thánh Luca đưa
chúng ta đến trọng tâm của việc đọc Thánh Kinh. Lời mà Mẹ đón vào cuộc đời Mẹ
qua tiếng “xin vâng” không những chỉ thành nhục thể trong lòng Mẹ, mà còn hình
thành trong đời sống Mẹ. Và vì thế Mẹ trở thành một Kitô hữu môn đệ đầu tiên.
Nhưng còn hơn thê nữa. Trong câu chuyện Thăm Viếng, Người Kitô hữu môn đệ đầu
tiên này đã trở thành người Kitô hữu truyền giáo đầu tiên, đã vội vã ra đi chia
sẻ - không phải tin mừng của Mẹ mà Tin Mừng của Thiên Chúa - với người chị em họ
mình là bà Elidabeth. Còn bà Elidabeth thì đã công bố rằng Đức Maria đã được chúc
phúc bội phần vì đặc ân riêng của Mẹ là được làm Mẹ Chúa (Lc
Khi Đức Mẹ Maria đáp lại lời chào mừng của bà Elidabeth bằng bài Thánh
Thi mà chúng ta biết là bài Magnificat, Mẹ đã chứng tỏ rằng Mẹ không những chỉ
là người Kitô hữu môn đệ và nhà truyền giáo đầu tiên, mà cũng là người Kitô hữu
Giáo Lý viên đầu tiên. Kinh Magnificat là một bài Giáo Lý gương mẫu. Trước hết
vì dựa vào Thánh Kinh. Kinh này vọng lại thánh thi của bà Hannah (1 Sm 2:1-10), và cũng gợi lên câu truyện Xuất Hành
trong việc công bố “những kỳ công mới” mà Đấng Toàn Năng đã làm, trong Mẹ và
qua Con Mẹ, để cứu độ Dân Thiên Chúa. Kinh Magnificat là một bài ca chúc tụng,
một kinh nguyện và một lời rao giảng. Kinh ấy cũng là một lời kêu cứu đầy tin tưởng
cho công lý dành cho những người yếu thế, những người ghèo khó, chúc tụng Thiên
Chúa vì đã nâng người hèn mọn lên và cho những người đói khó được dư đầy phúc
lộc (1:52-53). Sau cùng, toàn thể bài Thánh Thi chứa đầy niềm hy vọng vui mừng
khi nhìn đến tương lai cánh chung.
Đức Mẹ Maria ôm ấp Lời Chúa, không phải là không thắc mắc hay không
đắn đo. Thánh Luca nói đến việc Mẹ suy nghĩ, không chỉ một lần, mà suy đi nghĩ
lại, mặc khải được tỏ bày đã thay đổi cuộc đời Mẹ (Lc
----------------------------------------
Phiên dịch từ tài liêu
“Catechesis and Proclaimation of the Word: A Theological Reflection” của
HĐGMHK, Ngày Chúa Nhật Giáo Lý 2009.
Phaolô Phạm Xuân Khôi