Đời Sống Tâm Linh của Giáo Lý Viên
03 - 05 - 2007
Lm
Trần Đình Nhi
Hình ảnh về những người được gọi là thầy,
là sư phụ rất khác biệt giữa đông phương với tây phương. Tại đông phương, thầy
dạy không chỉ là người trao cho học trò mớ kiến thức, nhưng là trao cả nếp sống
đạo đức và nhân bản của mình. Đó cũng là hình ảnh thích hợp với vai trò của
giáo lý viên. Tuy nhiên, giáo lý viên còn phải vươn cao hơn thế nữa vì lý tưởng
của họ là chia sẻ chính đời sống đức tin của mình cho các học trò lớp giáo lý.
Vậy đâu là mức độ vươn cao nếu không phải là đến với chính Đức Ki-tô,
Thầy dạy duy nhất 1 (x. Mt 23:8)?
Dạy giáo lý là giúp cho người học được luôn luôn trưởng
thành hơn trong đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, biết và yêu mến Người sâu xa
hơn, đồng thời vững lòng dấn thân để theo Người 2. Đối tượng của việc dạy giáo lý là sự kết hiệp với
Đức Ki-tô. Giáo lý giúp học sinh đi vào mầu nhiệm Đức Ki-tô, gặp gỡ Người để
nhờ đó tìm ra ý nghĩa cuộc sống của mình 3. Đối tượng đức tin ấy chỉ có thể được
giảng dạy một phần nhỏ nào thôi, nhưng nó cần được chia sẻ cho học sinh bằng
một phương thức khác, đó là truyền lại (to hand on), tức trao cho các em điều
chính giáo lý viên đã lãnh nhận 4.
Làm sao họ có thể trao ban những gì mình chưa lãnh nhận? Do đó, trước hết giáo
lý viên cần có một đời sống đức tin phong phú để chia sẻ với các em. Nhận thức
tầm quan trọng của đời sống tâm linh, tài liệu Danh bạ quốc gia về Huấn giáo
(National Directory for Catechesis)5
của Hội Đồng Giám mục Công giáo Hoa-kỳ đã không ngần ngại đặt việc đào tạo đời
sống thiêng liêng của giáo lý viên lên hàng đầu, trước cả việc huấn luyện về
kiến thức giáo lý và phương pháp giáo lý. 6
Đào tạo đời sống tâm linh không thể đem một khuôn mẫu cứng
ngắc và không thay đổi để áp dụng cho mọi người như nhau, nhưng còn tùy thuộc
hoàn cảnh, mẫu người và khả năng ý chí của họ. Tuy nhiên khi nói về nhu cầu đào
tạo đời sống tâm linh, tài liệu NDC nhìn tiến trình đào tạo dưới hai giai đoạn:
khởi đầu và tiếp tục. Chúng tôi cũng dựa trên tài liệu và cách nhìn ấy để chia
sẻ về sự cần thiết phải đào tạo và bồi dưỡng đời sống tâm linh của giáo lý
viên. Do đó, giới hạn của bài chia sẻ này không nói về bản chất và nội dung của
đời sống tâm linh là gì, nhưng về sự cần thiết của đời sống đức tin và một số
những sinh hoạt đạo đức chính giúp giáo lý viên phát triển đời sống đức tin của
họ.
1. Đào tạo đời sống tâm linh là một nhu cầu
Giáo lý viên thường là những người tình nguyện dấn thân
phục vụ Chúa và anh chị em trong một sứ mệnh đặc biệt của việc rao giảng Tin
Mừng. Khởi đầu của rao giảng Tin Mừng là để giúp người ta trở về với Đức Ki-tô,
giáo dục họ trong đức tin và tháp nhập họ vào đời sống cộng đồng Ki-tô. Tiếp
nối của rao giảng Tin Mừng nhằm giúp những người đã lãnh nhận bí tích Rửa tội
hoặc cả ba bí tích khai tâm được trưởng thành trong đức tin của mình. Do đó,
nếu huấn giáo (catechesis) là sứ vụ của Giáo Hội giúp người ta khởi sự trở về
với Đức Ki-tô và tiếp tục lớn lên trong đức tin vào Đức Ki-tô, thì học
sinh giáo lý cũng phải là đối tượng của việc rao giảng Tin Mừng, vì các em tất
cả đều cần được giúp đỡ để lớn lên trong đức tin.
Tham dự sứ vụ huấn giáo đòi hỏi giáo lý viên được chuẩn bị
sẵn sàng, cũng giống như để được tuyển chọn thi hành chức vụ linh mục, chủng
sinh phải được huấn luyện đầy đủ. So sánh với việc đào tạo kiến thức và sư phạm
giáo lý, đào tạo đời sống tâm linh rất khác biệt, vì nó không chỉ nằm ở bình
diện trí óc hiểu biết, nhưng đi vào chiều sâu của trái tim và ý chí con người.
Giáo lý viên có thể lấy những tín chỉ hoặc chứng chỉ tu nghiệp sau khi tham dự
những khóa thần học hoặc sư phạm giáo lý. Nhưng chẳng ai có thể cấp chứng chỉ
về đời sống nội tâm cho một giáo lý viên sau khi họ tham dự một khóa tĩnh tâm
cả! Đời sống nội tâm hoặc quan hệ cá nhân giữa giáo lý viên với Đức Ki-tô không
thể đo lường bằng chứng chỉ, thước tấc hoặc nhiệt độ, nhưng là một quan hệ sống
động, có thể thay đổi, lên xuống, xa gần từng giây từng phút. Chỉ cá nhân người
ấy và Chúa mới là những nhân vật chính làm cho đời sống nội tâm được phát
triển. Còn những người khác hoặc sách vở đóng vai trò phụ thuộc.
Tuy nhiên cũng có một số dấu hiệu nền tảng cho chúng ta
biết mức độ tối thiểu của đời sống nội tâm. Đối với tín hữu được gọi là có sống
đạo (practicing catholic), đời sống nội tâm được nhận thấy qua việc họ chu toàn
bổn phận người Công giáo khi tham dự Thánh lễ Chúa Nhật... Nhưng đối với một
giáo lý viên, đời sống nội tâm phải ở mức độ cao hơn thế, vì nguyên việc dấn
thân phục vụ trong sứ mệnh huấn giáo đã là dấu hiệu cho thấy người ấy muốn làm
một cái gì hơn mức độ bình thường. Do đó "cái gì hơn mức độ bình
thường" đòi hỏi giáo lý viên cũng phải đào tạo đời sống nội tâm của họ hơn
mức độ đời sống nội tâm của một người Công giáo bình thường.
Sự phân tích này hé mở cho ta nhận thấy việc đào tạo đời
sống tâm linh của giáo lý viên là một tiến trình, khởi đầu từ một mức độ tối
thiểu và tiếp tục phát triển mỗi ngày một hơn trong khi họ thi hành sứ vụ huấn
giáo. Tài liệu NDC cho chúng ta một hình ảnh rõ ràng về đời sống tâm linh của
giáo lý viên:
"Cũng như mọi tín hữu khác, giáo lý viên được mời gọi
nên thánh. Tuy nhiên, vì tác vụ và sứ mệnh của họ, lời kêu gọi nên thánh mang
tính cách cấp thời đặc biệt. Đời sống thiêng liêng của một giáo lý viên phải
được thể hiện qua những điểm sau đây:
[Xem Congregation for the Evangelization of People, Guide
for Catechists (Washington, D.C.: USCCB, 1993), nos. 7-10]." 7
Khi mô tả đời sống thiêng liêng của giáo lý viên như trên,
các Giám mục Hoa-kỳ muốn nói lên mối tương quan giữa đời sống nội tâm và việc
thi hành sứ vụ huấn giáo. Đời sống thiêng liêng là cần thiết vì nó cung cấp cho
giáo lý viên sức sống, lòng nhiệt thành và sự tích cực, tức là cái tâm, cái hồn
của người tông đồ. Đời sống thiêng liêng đem lại cho giáo lý viên những điểm
tựa chắc chắn để họ chu toàn sứ mệnh: lòng yêu mến, cầu nguyện, sống các nhân
đức, tinh thần truyền giáo, theo gương Mẹ Ma-ri-a và sống nhờ lương thực Thánh
Thể.
Cái nhìn về đời sống thiêng liêng ấy cũng khiến cho giáo lý
viên phải băn khoăn tự hỏi: Vậy thì tôi có được đời sống thiêng liêng như thế không?
Nó có đủ ít ra ở mức độ tối thiểu để tôi bắt đầu thi hành sứ vụ huấn giáo
không? Tôi phải làm gì để tiếp tục đào tạo đời sống thiêng liêng của tôi hầu
giúp cho sứ vụ huấn giáo mang lại kết quả tốt đẹp hơn, tức là giúp tôi chia sẻ
dồi dào hơn với học sinh những gì tôi đã lãnh nhận được từ nơi Chúa?
2. Đào tạo khởi đầu (Initial formation) cho đời sống tâm
linh của giáo lý viên
Trước khi dấn thân lãnh nhận sứ vụ huấn giáo (dạy giáo lý),
giáo lý viên cần được chuẩn bị về ba phương diện cần thiết: đời sống tâm linh,
kiến thức giáo lý và khả năng trình bày giáo lý hoặc phương pháp giáo lý. Về
đào tạo kiến thức và phương pháp giáo lý, những vị hữu trách như cha quản
nhiệm, giám đốc chương trình giáo lý, có thể giúp giáo lý viên tham dự những
khóa huấn luyện do giáo phận hoặc giáo xứ tổ chức. Còn đào tạo đời sống tâm
linh là cả một vấn đề. Làm thế nào lựa chọn một chương trình huấn luyện thích
hợp cho mọi người? Hầu như khó có thể làm được điều này. Tuy nhiên, những vị
hữu trách, nhất là cha quản nhiệm, là những người mời giáo lý viên tham gia sứ
vụ huấn giáo hẳn sẽ nhận định được một phần nào mức độ cần thiết phải đào tạo
đời sống tâm linh cho họ, bởi vì "trong bất cứ hoàn cảnh nào, việc đào tạo
khởi đầu cho những giáo lý viên mới 'không được lơ là hoặc để mặc cho những ứng
viên dạy giáo lý phải làm lấy một mình' (Guide for Catechists, no. 28)" 8.
Vì thế, tài liệu NDC đã đề ra những tiêu chuẩn chính cho
việc đào tạo khởi đầu như sau.
"Việc đào tạo khởi đầu dành cho những giáo lý viên mới
cần phải:
Đó là tổng quát việc đào tạo khởi đầu cho giáo lý viên mới,
được tài liệu NDC trình bày. Nhìn qua, chúng ta nhận thấy một số điểm đề cập
đến việc đào tạo kiến thức, tinh thần, tâm lý và xã hội, còn tất cả những điểm
khác đều liên hệ tới việc đào tạo đời sống tâm linh. Tuy nhiên trong số những
điểm sau này lại có một số điểm đặc biệt nói lên đời sống tâm linh của giáo lý
viên, đó là:
Vậy đây chính là những phạm vi đào tạo để giáo lý viên phát
triển đời sống tâm linh như đã được mô tả là nguồn suối sức mạnh nâng đỡ họ
trong sứ vụ. Trong lãnh vực cầu nguyện, giáo lý viên sẽ tự học hoặc với sự giúp
đỡ của người khác để học cầu nguyện, sao cho việc cầu nguyện đạt tới mức độ
"hằng ngày" và "sâu xa hơn." Nghĩa là giáo lý viên phải tập
luyện làm sao cho việc cầu nguyện của họ trở thành một sinh hoạt cốt yếu trong
đời sống hằng ngày tựa như ăn uống mỗi ngày cho đủ, và được trưởng thành sâu
sắc tựa như lương thực dồi dào chất dinh dưỡng.
Lãnh vực thứ hai là cuộc đối thoại liên tục với Chúa trong
cầu nguyện. Đối thoại liên tục không có nghĩa là lúc nào cũng phải nói phải
nghe, nhưng là sự hiệp nhất và thông đạt giữa hai người. Cầu nguyện đưa chúng
ta đến sống cuộc đối thoại liên tục với Chúa, tức là sống mối quan hệ mật thiết
với Chúa. Khi sống mối quan hệ này, giáo lý viên có môi trường để luôn
tìm thấy ý Chúa, nói với Chúa những ưu tư cũng như vui mừng khi họ thi hành sứ
vụ, làm gạch nối giữa các học sinh với Chúa...
Lãnh vực thứ ba, gặp gỡ vị linh hướng, có thể là một điều
mới lạ đối với giáo lý viên mới. Điều mới lạ, nhưng cũng rất cần thiết, vì linh
hướng sẽ là người bạn đồng hành sát cánh nhất của giáo lý viên trên bước đường
trau dồi và phát triển đời sống thiêng liêng. Vị linh hướng không cần thiết
phải là một giáo sư tu đức, nhưng đúng hơn là một người bạn biết cảm thông,
nâng đỡ, lắng nghe, nhất là đối với một giáo lý viên mới có lẽ chưa bao giờ
nghiêm túc tập tành trong đời sống thiêng liêng và cần rất nhiều chia sẻ của
một người dày kinh nghiệm.
3. Đào tạo tiếp tục (Ongoing formation) cho đời sống tâm
linh của giáo lý viên
Trong phần trình bày về đào tạo tiếp tục cho giáo lý viên,
tài liệu NDC đi vào từng lãnh vực riêng biệt, như nhân bản, tâm linh, trí tuệ,
làm nhân chứng và thống nhất cuộc sống. Lý do tại sao chia ra những lãnh vực
riêng biệt có lẽ nhằm giúp cho giáo lý viên, sau một thời gian dấn thân thi
hành sứ vụ huấn giáo và với ít kinh nghiệm, có thể nhìn vào từng lãnh vực để dễ
nhận ra mình cần phải trau dồi và phát triển thêm những gì. Ở đây, chúng ta chỉ
dừng lại ở lãnh vực thiêng liêng, tức là tiếp tục đào tạo đời sống tâm linh.
Tài liệu Danh bạ quốc gia về Huấn giáo viết:
"Trên bình diện thiêng liêng,
việc đào tạo tiếp tục dành cho giáo lý viên cần phải:
Nền tảng đời sống tâm linh của giáo lý viên là lòng yêu
mến, cầu nguyện, sống các nhân đức, tinh thần truyền giáo, noi gương Mẹ Ma-ri-a
và sống nhờ lương thực Thánh Thể. Tuy nhiên để đời sống đó được triển nở, chúng
ta cần phải đi theo một đường hướng thích hợp. Đường hướng đó lấy Đức Ki-tô làm
tâm điểm. Tài liệu NDC đã mạnh dạn coi việc thăng tiến đời sống tâm linh như là
việc kết hiệp với Đức Giê-su Ki-tô trong đức tin và đức mến. Nói khác đi, càng
kết hiệp với Đức Ki-tô bao nhiêu thì đời sống tâm linh của giáo lý viên càng
thăng tiến bấy nhiêu. Chính Chúa Giê-su cũng đã khẳng định:
"Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào."11 Như vậy, nếu giáo lý
viên càng mở lòng cho Chúa Giê-su đến với mình, tức là họ càng kết hiệp với
Người bao nhiêu, thì đời sống tâm linh của họ càng được phong phú bấy
nhiêu.
Kết hiệp bằng cách nào? Có thật nhiều con đường đưa chúng
ta đến gặp gỡ Chúa Giê-su. Tài liệu NDC kể ra những phương tiện chính như lãnh
nhận bí tích, đọc Giờ kinh Phụng vụ, suy gẫm hằng ngày, làm việc kính Đức Mẹ...
Chúng ta không dừng lại ở phương tiện, nhưng nhờ phương tiện để đi đến mục đích
là Đức Ki-tô, mục đích đã được thánh Phao-lô Tông đồ định nghĩa: "Tôi
sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi"12, hoặc cách mạnh mẽ hơn:
"Với tôi, sống là Đức Ki-tô"13.
Vấn đề gặp linh hướng được nhắc lại ở đây hẳn phải có lý
do. Nhiệm vụ của linh hướng là đồng hành, chứ không phải là người quyết định
thay cho giáo lý viên phải làm điều này điều nọ. Công việc tông đồ là dạy giáo
lý thì rõ ràng rồi, nhưng con đường làm việc tông đồ phục vụ thì còn dài và
luôn có những khó khăn phải đối phó. Vì thế trên con đường ấy giáo lý viên cần
có người đồng hành nâng đỡ. Các giáo lý viên khác có thể chỉ là những người
bạn, nhưng nhiều khi không thể làm vị linh hướng cho mình. Do đó cần người có
khả năng chuyên môn để chia sẻ với những vui buồn của giáo lý viên.
Điểm thứ ba được nêu lên soi sáng một khía cạnh rất đặc
biệt của việc phát triển đời sống tâm linh, đó là giáo lý viên phải nhận ra
"việc phát triển đời sống thiêng liêng của mình cần phải chủ yếu gắn bó
với đời sống của Giáo Hội". Tại sao đời sống thiêng liêng của họ lại phải
gắn bó với đời sống của Giáo Hội? Bởi vì họ là một chi thể trong Nhiệm thể Chúa
Ki-tô. Thánh Phao-lô đã nhắc đến những người có trách nhiệm huấn giáo trong
Giáo Hội: "Vậy anh em, anh em là
thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã
đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là
các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc
sủng..."14
Các thầy dạy được hiểu là những người có trách nhiệm dạy dỗ, không hẳn chỉ là
giám mục hay các linh mục, nhưng là các giáo lý viên nữa. Sự sống thiêng liêng
từ Đức Ki-tô là Đầu Nhiệm thể được chu lưu trong thân thể, đến với từng chi
thể, tựa như nhựa sống chuyển từ cây nho sang các cành nho 15. Cành nho chỉ có thể lớn
lên và sinh hoa trái nếu kết hiệp với cây nho. Cũng thế, đời sống tâm linh của
giáo lý viên chỉ phát triển được khi nó gắn bó với đời sống của Giáo Hội mà
thôi. Việc gắn bó này còn nói lên một hình ảnh đẹp và sống động là khi dạy giáo
lý cho học sinh, giáo lý viên đã làm công việc thông truyền sự sống của
Chúa Ki-tô cho các em.
4. Đời sống tâm linh của giáo lý viên phải là chứng từ
(witness) cho các em
Giáo lý viên là người xả thân cho công việc của Chúa và
Giáo Hội. Cuộc sống của họ phản ảnh chính cuộc sống của Đức Ki-tô, Giáo lý viên
tiên khởi và gương mẫu 16.
Chúa Giê-su không chỉ là Thầy, nhưng còn là Bạn của các môn đệ Người. Cung cách
dạy dỗ của Đức Ki-tô nói lên đặc tính chia sẻ. Những gì Người lãnh nhận từ Chúa
Cha, Người đã chuyển lại cho các môn đệ 17. Không phải là chia sẻ một mớ lý thuyết, nhưng là
chia sẻ cả một cuộc sống, cả một con người vì lòng yêu thương. Người không chỉ
là Lời của Thiên Chúa mà thôi, nhưng còn là Lời hóa nên người phàm. Người dạy
những gì Người đã thực sự sống. Đời sống tâm linh của Đức Ki-tô đã thể hiện qua
những lời giảng dạy, nhưng nhất là qua lối sống của Người. Đi bên cạnh Chúa,
các môn đệ không hiểu ý nghĩa những điều Người giảng dạy cho bằng thấy ý nghĩa
những việc Người làm. Trước khi Người dạy họ cầu nguyện, Đức Ki-tô đã sống đời
cầu nguyện. Trước khi dạy họ lòng thương xót, Đức Ki-tô đã biểu lộ lòng thương
xót của Thiên Chúa qua những gì Người làm cho dân chúng "đang lầm than vất
vưởng như đàn chiên không người chăn dắt." Qua Giáo lý viên tiên khởi là
Đức Ki-tô, các môn đệ và dân chúng nhận ra được mối quan hệ giữa Thiên Chúa và
con người, nhất là mối quan tâm của Thiên Chúa đối với tương lai vĩnh cửu của
con người.
Động lực nào đã thúc đẩy Đức Ki-tô chia sẻ chính cuộc sống
mình khi Người thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng? Đó là vì Người muốn thực thi
thánh ý Chúa Cha và đặt mình trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Thánh ý
Chúa Cha là lương thực của Người. Thần Khí Thiên Chúa đầy tràn con người Đức
Ki-tô và được biểu lộ qua tất cả lời giảng, việc làm. Sống và giảng dạy như
thế, Đức Ki-tô đã nói lên đường lối dạy dỗ của Thiên Chúa. "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy"18. Đức Ki-tô đã để lại
một đường lối giảng dạy tuyệt vời là tình yêu, động lực khiến Người giảng dạy
bằng cách chia sẻ chính cuộc sống mình và cuối cùng bằng cái chết trên thập giá
làm chứng cho đức tin vào Thiên Chúa Cha và niềm tin vào nhân loại.
Nói với giáo lý viên, các giám mục Hoa-kỳ nhắn nhủ:
"Ngoài gia đình ra, chúng từ ủua giáo lý viên có thể
là quan trọng bậc nhất trong từng giai đoạn của tiến trình dạy giáo lý. Dưới sự
hướng dẫn của Thánh Thần, giáo lý viên gây ảnh hưởng mạnh mẽ trên những người
học giáo lý qua việc họ trung thành loan báo Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô và gương
mẫu đời sống Ki-tô sáng ngời của họ. Để việc huấn giáo có hiệu quả, giáo lý
viên phải hoàn toàn dấn thân cho Đức Giê-su Ki-tô. Họ phải vững tin vào Tin
Mừng của Người và vào sức mạnh của Tin Mừng có thể biến đổi cuộc sống. Giáo lý
viên phải trao ban những giáo huấn của Đức Ki-tô cho những người học giáo lý;
giáo lý viên phải chuẩn bị cho họ lãnh nhận những bí tích do Đức Ki-tô thiết
lập; giáo lý viên phải hướng dẫn họ biết sống theo giáo lý luân lý của Đức
Ki-tô; và giáo lý viên phải dẫn dắt cho họ biết cầu nguyện với Đức Ki-tô. Giáo
lý viên phải lấy những lời của Đức Ki-tô làm những lời của mình: "Đạo lý
tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi" (Ga 7:16) và
họ cùng với thánh Phao-lô tuyên xưng rằng: "Tôi đã truyền lại cho anh em
điều mà chính tôi đã lãnh nhận" (1Cr 15:3)."19
Đức Ki-tô đã lãnh nhận mọi điều từ Thiên Chúa để truyền lại
cho các môn đệ. Những lãnh nhận và đáp trả của Người là tất cả nội dung đời
sống tâm linh của Người, hay nói khác đi, quan hệ sống động giữa Đức Ki-tô với
Chúa Cha, với Chúa Thánh Thần và với nhân loại đã cho chúng ta biết đời sống
tâm linh của Người như thế nào. Như Đức Ki-tô đã kết hiệp mật thiết với
Chúa Cha để có sự sống phong phú mà chia sẻ cho nhân loại, giáo lý viên cũng
phải kết hiệp với Đức Ki-tô mật thiết để được sống dồi dào và chia sẻ sự sống
ấy với học sinh giáo lý của họ. "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh
em." Giáo lý viên được sai đi, nhưng phải là những giáo lý viên có một đời
sống tâm linh thật sống động và sẵn sàng đem chia sẻ cho người khác.
Chúng ta sẽ tự hỏi: Tôi phải bắt đầu việc đào tạo đời sống
tâm linh thế nào và tiếp tục đào tạo làm sao? Trở về với Đức Ki-tô là khởi đầu
và kết hiệp với Đức Ki-tô sẽ là tiếp nối mãi mãi.
1 Mt
23:8
2
x. National Directory for Catechesis, tr. 54
3
x. National Directory for Catechesis, tr. 55
4
1 Cr 15:3
5
United States Conference of Catholic Bishops, National Directory for
Catechesis, Washington, D.C.: USCCB, 2005.
6
x. National Directory for Catechesis, tr. 236-237
7
National Directory for Catechesis, tr. 229
8
National Directory for Catechesis, tr. 237
9
National Directory for Catechesis, tr. 237-238
10
National Directory for Catechesis, tr. 239
11
Ga 10:10
12
Gl 2:20
13
Pl 1:21
14
1Cr 12:28-29
15
Ga 15:1-6
16
x. The General Directory for Catechesis, nos. 137-138
17
Ga 15:14-15
18
Ga 14:23
19
National Directory for Catechesis, tr. 110