Bài Giáo
Lý của ĐTC: Cầu Nguyện và Phục Vụ
giaoly.org April 27, 2012
Nếu không cầu nguyện, ‘chúng ta có nguy cơ bị
nghẹt thở giữa ngàn điều phải lo lắng mỗi ngày.’
Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý thứ 31 về cầu
nguyện của ĐTC Bênêđictô XVI ban hành trong buổi triều yết chung ngày Thứ Tư 25
tháng 4 năm 2012 tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Lần này ĐTC tiếp tục nói về việc
cầu nguyện trong Sách Tông Đồ Công Vụ.
* * * * *
Anh chị em thân mến,
Trong bài giáo lý trước, tôi đã cho thấy rằng Hội Thánh từ
khi bắt đầu cuộc hành trình của mình, phải đương đầu với nhiều hoàn cảnh bất
ngờ, những vấn đề mới và những trường hợp khẩn cấp mà Hội Thánh đã cố gắng trả
lời trong ánh sáng đức tin, được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần.
Hôm nay tôi muốn ngừng lại và suy niệm về một hoàn cảnh
khác trong những hoàn cảnh này, một vấn đề nghiêm trọng mà cộng đồng Kitô hữu
tiên khởi tại Giêrusalem đã phải đương đầu và giải quyết, như Thánh Luca cho
chúng ta biết trong chương sáu của Sách Tông Đồ Công Vụ, về vấn đề phục vụ bác
ái cho những người cô quả, những người cần giúp đỡ và trợ cấp. Vấn đề được đặt
ra không phải là thứ yếu đối với Hội Thánh và có nguy cơ tạo ra sự chia rẽ
trong Hội Thánh vào thời điểm ấy. Thực ra, số môn đệ đã gia tăng nhiều, nhưng
những người nói tiếng Hy Lạp bắt đầu phàn nàn về những người nói tiếng Do Thái,
vì các góa phụ của họ bị bỏ bê trong việc phân phát lương thực hằng ngày (Cv
6:1). Trước tình trạng khẩn trương này liên quan đến một khía cạnh thiết yếu
trong đời sống của cộng đồng, là tình bác ái đối với những người yếu đuối,
người nghèo, người tàn tật, và với công lý, các Tông Đồ đã triệu tập nhóm môn
đệ lại.
Trong hoàn cảnh mục vụ khẩn trương ấy, điều nổi bật là sự
phán đoán mà các Tông Đồ đã thực hiện. Các ngài phải đương đầu với một việc hết
sức cần thiết là phải công bố Lời Chúa, theo mệnh lệnh của Chúa; nhưng dù đó là
nhu cầu cấp bách hàng đầu của Hội Thánh, các ngài cũng coi trọng không kém
nhiệm vụ thực thi bác ái và công lý, tức là nhiệm vụ giúp đỡ các góa phụ và
người nghèo, việc yêu thương cung cấp cho anh chị em mình trong những hoàn cảnh
túng thiếu, để đáp lại mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau,
như Thầy đã yêu thương các con” (x. Ga 15:12.17).
Như vậy, hai thực tại mà các ngài phải sống trong Hội Thánh
– việc rao giảng Lời Chúa, quyền tối cao của Thiên Chúa, cùng việc bác ái cụ
thể và công lý – đang tạo ra những khó khăn và cần phải tìm ra một giải pháp,
để cả hai thực tại này đều có thể có chỗ đứng, và sự liên hệ thiết yếu của
chúng. Phán đoán của các Tông Đồ thật rõ ràng, các ngài nói, như chúng ta đã
nghe: “Thật là không đúng khi chúng tôi phải bỏ bê việc rao giảng Lời Thiên
Chúa để hầu bàn. Cho nên, thưa anh em, xin hãy chọn trong anh em bảy người có
uy tín, đầy Thần Khí và khôn ngoan, là những người mà chúng tôi sẽ chỉ định làm
công việc ấy. Còn chúng tôi sẽ chuyên tâm cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa.” (Cv
6:2- 4).
Hai điều xuất hiện ở đây: điều thứ nhất, kể từ lúc đó trong
Hội Thánh có một thừa tác vụ bác ái. Hội Thánh không những chỉ công bố Lời
Chúa, nhưng cũng phải thực hành Lời Chúa, là bác ái và chân lý. Và, điều thứ
hai, những người này không những chỉ có uy tín, nhưng họ phải là những người
tràn đầy Chúa Thánh Thần và sự khôn ngoan; nghĩa là họ không thể chỉ là những
nhà tổ chức biết phải “làm” thế nào, nhưng họ phải “làm như thế” trong tinh
thần đức tin với ánh sáng của Thiên Chúa, trong sự khôn ngoan của tâm hồn. Cho
nên, chức năng của họ, dù chính yếu là có bản chất thực tế, nhưng cũng vẫn là
một chức năng tinh thần. Bác ái và công lý không chỉ là những hành động xã hội,
nhưng còn là những hành động tinh thần được thực hiện trong ánh sáng của Chúa
Thánh Thần. Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng các Tông Đồ đã giải quyết tình
trạng này với một tinh thần trách nhiệm rất cao, khi các ngài đi đến quyết định
này là việc chọn bảy người. Các Tông Đồ cầu nguyện để xin sức mạnh của Chúa
Thánh Thần; và sau đó đặt tay các ngài trên họ để họ được đặc biệt thánh hiến
cho việc phục vụ bác ái này. Như vậy, trong đời sống Hội Thánh, ở những bước
đầu tiên, phản ảnh một cách nào đó những gì đã xảy ra trong cuộc đời công khai
của Chúa Giêsu, tại nhà chị em cô Martha và Maria ở Bêthania. Cô Martha đã tận
tâm tận lực phục vụ và đón tiếp Chúa Giêsu cùng các môn đệ của Người; còn cô
Maria thì chú tâm lắng nghe Lời Chúa (x. Lc 10:38-42). Trong cả hai trường hợp,
những giờ phút cầu nguyện, lắng nghe Thiên Chúa, và các hoạt động hàng ngày, như
việc thực thi bác ái, không trái ngược nhau. Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu:
“Martha! Martha! Con băn khoăn lo lắng về quá nhiều chuyện. Nhưng chỉ có một
chuyện cần thiết; và Maria đã chọn phần tốt hơn mà sẽ không bị lấy đi mất.” (Lc
10:41-42 ) cũng như sự suy nghĩ của các Tông Đồ: “... Còn chúng tôi sẽ chuyên
tâm cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa.” (Cv 6.4), chứng tỏ ưu tiên mà chúng ta
phải dành cho Thiên Chúa.
Lúc này tôi không muốn giải thích về đoạn văn liên quan đến
chị em Martha-Maria ấy. Dù sao đi nữa, không ai có thể lên án việc phục vụ
người lân cận, và tha nhân; tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng ngay cả hoạt đông
ấy cũng phải được thấm nhuần trong lòng bởi một tinh thần chiêm niệm. Ngoài ra,
Thánh Augustinô nói rằng thực tại của cô Maria cũng là một viễn cảnh thuộc về
chúng ta ở trên trời. Cho nên nơi trần thế, chúng ta không bao giờ sở hữu nó
một cách hoàn toàn được, nhưng một chút thưởng thức trước phải hiện diện trong
tất cả các hoạt động của chúng ta. Việc chiêm ngắm Thiên Chúa cũng phải hiện diện.
Chúng ta không được phép đi lạc trong chủ nghĩa hoạt động thuần túy, nhưng luôn
luôn để cho mình được thấm nhuần, ngay cả trong hoạt động của mình, bằng ánh
sáng của Lời Chúa, và do đó, học bác ái thật, việc phục vụ người khác thật, là
điều không cần quá nhiều thứ - chắc chắn là cần những gì thiết yếu, nhưng trên
hết cũng cần cảm tình của trái tim chúng ta, và ánh sáng của Thiên Chúa.
Thánh Ambrôsiô, khi chú giải về câu chuyện của Martha và
Maria, đã khuyên nhủ các tín hữu của ngài và cả chúng ta rằng: “Chúng ta cũng
hãy tìm cách chiếm hữu được những gì mà không ai có thể lấy đi khỏi chúng ta
được, bằng cách chú tâm cách chăm chỉ, không phân tâm, vào Lời Chúa: vì cũng
xảy ra việc hạt giống của Lời trên trời bị lấy đi mất nếu chúng bị gieo vãi dọc
đường. Như cô Maria, anh chị em hãy kích động trong mình ước muốn hiểu biết: đó
là công việc hoàn hảo nhất, lớn nhất,” và ngài thêm rằng “nguyện xin việc chăm
sóc phục vụ không làm anh chị em sao lãng việc hiểu biết những Lời trên trời,”
từ cầu nguyện (Expositio Evangelii secundum Lucam, VII, 85: PL 15, 1720).
Như thế, các Thánh đã cảm nghiệm một sự hiệp nhất sâu xa
của đời sống giữa việc cầu nguyện và hành động, giữa tình yêu Thiên Chúa hoàn
toàn và tình yêu dành cho anh em. Thánh Bernarđô, đấng là mẫu gương của sự hòa
hợp giữa chiêm niệm và chuyên cần làm việc, trong sách De consideratione viết
cho Đức Giáo Hoàng Innôcentê II để cung cấp cho ngài một số suy tư về sứ vụ của
ngài, đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc suy niệm trong lòng và cầu
nguyện để bảo vệ mình chống lại sự nguy hiểm của hoạt động quá mức, bất kể tình
trạng nào mà chúng ta gặp phải và công việc nào mà chúng ta làm. Thánh Bernarđô
quả quyết rằng quá nhiều công việc, một cuộc sống điên cuồng, thường đưa đến
kết quả là cứng lòng và làm cho tâm trí bị đau khổ (xem II, 3).
Đó là một lời nhắc nhở quý giá cho chúng ta ngày nay,
thường có thói quen đánh giá mọi sự theo chỉ tiêu năng suất và hiệu quả. Đoạn
văn từ sách Tông Đồ Công Vụ nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc làm -
vì chắc chắn rằng có một tác vụ thật sự được lập ra – về tầm quan trọng của
việc tham gia vào các hoạt động hằng ngày được thực hiện với tinh thần trách
nhiệm và dấn thân, nhưng cũng nhắc cho chúng ta về việc chúng ta cần Thiên
Chúa, cần sự hướng dẫn của Ngài, cần ánh sáng của Ngài, là điều ban cho chúng
ta sức mạnh và hy vọng. Nếu chúng ta không trung thành sống lời cầu nguyện hàng
ngày, thì hành động của chúng ta trở thành trống rỗng, vô hồn, bị giảm xuống
thành chủ trương hoạt động thuần túy, là điều cuối cùng không thỏa mãn được
chúng ta.
Có một lời cầu xin rất đẹp của truyền thống Kitô giáo được
đọc trước mọi hoạt động, trong đó nói thế này: “Actiones nostras, quæsumus,
Domine, aspirando præveni et adiuvando prosequere, ut cuncta nostra oratio et
operatio a te semper incipiat, et per te coepta finiatur”, nghĩa là “Cúi xin
Chúa sáng soi, cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm, xin Chúa
giúp đỡ cho mỗi kinh [mỗi lời nói], mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn
thành, đều nhờ bởi ơn Chúa”. Mỗi bước đi của cuộc đời chúng ta, mỗi hành động,
ngay cả của Hội Thánh, phải được thực hiện trước mặt Thiên Chúa, trong ánh sáng
của Lời Ngài.
Trong bài giáo lý Thứ Tư tuần trước tôi đã nhấn mạnh đến
lời cầu nguyện đồng tâm của cộng đồng Kitô hữu tiên khởi khi phải đương đầu với
thử thách và làm thế sao, chính trong cầu nguyện, trong việc suy niệm Thánh
Kinh, họ có thể hiểu được những biến cố mà họ đã trải qua. Khi lời cầu nguyện
được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa, chúng ta có thể thấy thực tại bằng cặp mắt mới,
cặp mắt đức tin, và Chúa là Đấng nói với trí khôn và tâm hồn, ban ánh sáng mới
trên con đường của chúng ta trong mọi lúc và mọi hoàn cảnh.
Chúng ta tin vào quyền năng của Lời Chúa và cầu nguyện.
Ngay cả những khó khăn mà Hội Thánh đang trải qua trong vấn đề phục vụ người
nghèo, trong vấn đề bác ái, cũng vượt qua được nhờ cầu nguyện, trong ánh sáng
của Thiên Chúa, của Chúa Thánh Thần.
Các Tông Đồ đã không chỉ đơn thuần phê chuẩn việc lựa chọn
Thánh Têphanô và những vị khác. nhưng “sau khi đã cầu nguyện, các ngài đã đặt
tay trên họ” (Cv 6:06). Thánh sử ghi lại cử chỉ này một lần nữa trong việc
tuyển chọn Thánh Phaolô và Barnaba, ở đó chúng ta đọc: “Sau khi ăn chay và cầu
nguyện, họ đặt tay trên hai ông và sai hai ông đi” (Cv 13:3). Điều này tái
khẳng định rằng việc thực thi bác ái cũng là việc phục vụ tâm linh. Hai thực
thể phải đi đôi với nhau.
Với việc đặt tay, các Tông Đồ ban cho bảy vị một tác vụ đặc
biệt, để họ nhận được ân sủng tương xứng. Việc nhấn mạnh đến cầu nguyện “sau
khi đã cầu nguyện,” là điều quan trọng, bởi vì nó làm nổi bật chiều kích tâm
linh của hành động này. Đây không đơn thuần là việc trao một tác vụ, như trong
một tổ chức xã hội, mà là một biến cố thuộc về Hội Thánh, trong đó Chúa Thánh
Thần dành riêng cho mình bảy vị được Hội Thánh tuyển chọn bằng cách thánh hiến
họ cho Chân Lý là Đức Chúa Giêsu Kitô: Ngài là tác nhân thầm lặng, hiện diện
trong việc đặt tay, để những vị được chọn có thể được biến đổi bởi quyền năng
của Ngài cùng được thánh hóa để đương đầu với những thách đố thực tiễn, những thách
đố của đời sống mục vụ. Hơn nữa, việc nhấn mạnh đến cầu nguyện nhắc nhở chúng
ta rằng chỉ trong một sự liên hệ mật thiết với Thiên Chúa được vun trồng mỗi
ngày mà việc đáp trả sự lựa chọn của Chúa được phát sinh và mọi thừa tác vụ
trong Hội Thánh được trao ban.
Anh chị em thân mến, vấn đề mục vụ đưa các Tông Đồ đến việc
chọn lựa và đặt tay trên bảy vị được trao cho nhiệm vụ phục vụ bác ái, để các
ngài có thể chăm lo cầu nguyện và rao giảng Lời Chúa, cho chúng ta thấy tính ưu
việt của cầu nguyện và Lời Chúa, là điều cũng phát ra những hoạt động mục vụ.
Đối với các mục tử, đây là hình thức phục vụ tiên quyết và quý giá nhất cho đàn
chiên được trao phó cho họ. Nếu cặp phổi cầu nguyện và Lời Chúa không nuôi
dưỡng được hơi thở đời sống tâm linh của chúng ta, chúng ta có nguy cơ bị nghẹt
thở giữa hàng ngàn điều phải lo lắng mỗi ngày: cầu nguyện là hơi thở của linh
hồn và của đời sống. Và có một lời nhắc nhở quý giá khác mà tôi muốn nhấn mạnh:
trong sự liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, trong việc lắng nghe Lời Ngài,
trong cuộc đàm đạo với Thiên Chúa, ngay cả khi chúng ta ở trong sự thinh lặng
của một nhà thờ hoặc trong phòng riêng của mình, chúng ta kết hợp trong Chúa
với rất nhiều anh chị em khác trong đức tin, như một tổng hợp các nhạc cụ, mặc
dù vẫn giữ cá tính riêng của chúng, dâng lên Thiên Chúa một buổi hòa tấu vĩ đại
của lời chuyển cầu, tạ ơn và chúc tụng. Cám ơn anh chị em.