Bài
Giáo Lý X của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin
www.giaoly.org December 24, 2012 by Phaolo
Đức Mẹ Maria, Mẫu Gương Vâng Phục
của Đức Tin
“Vinh quang Thiên
Chúa không biểu lộ trong chiến thắng và sức mạnh của một vị vua, không tỏa sáng
trong một thành phố thời danh, nơi cung điện xa hoa, nhưng ngự trong cung lòng
của một trinh nữ, tỏ lộ trong sự nghèo nàn của một Hài Nhi.”
Dưới đây là bản dịch
Bài Giáo Lý thứ mười của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại
Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 19 tháng 12, 2012. Hôm nay ĐTC dạy tiếp
tục loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,
Trong cuộc hành
trình Mùa Vọng, Đức Trinh Nữ Maria chiếm một địa vị đặc biệt như người chờ đợi,
một cách duy nhất, việc thể hiện những lời hứa của Thiên Chúa là chấp nhận Chúa
Giêsu, Con Thiên Chúa, trong đức tin và trong xác phàm, trong sự hoàn toàn vâng
phục Thánh Ý Thiên Chúa. Hôm nay, tôi muốn cùng anh chị em suy niệm một cách
vắn tắt về đức tin của Đức Mê Maria từ mầu nhiệm Truyền Tin cao cả.
“Chaîre
kecharitomene, ho Kyrios meta sou”, “Hãy vui lên, Đấng đầy ân sủng,
Thiên Chúa ở cùng bà” (Lc 1: 28). Đó là những lời được Thánh Luca kể lại,
qua đó Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel nói cùng Đức Mẹ Maria. Thoáng nhìn, từ chaîre
“hãy vui lên,” được coi như một lời chào bình thường, thường được dùng trong
thế giới Hy Lạp, nhưng khi đọc trong bối cảnh của truyền thống Thánh Kinh, từ
này có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Cùng một từ này xuất hiện bốn lần trong
bản Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp và luôn luôn được dùng như lmột lời công bố vui
mừng về sự xuất hiện của Đấng Thiên Sai (x. Xp 3:14, Genesis 2:21; Dcr 9:9, Acts 4:21). Lời Thiên Sứ chào Đức Mẹ Maria là
một lời mời vui mừng, một niềm vui cả thể, lời ấy công bố việc chấm dứt nỗi
buồn mà thế giới đang phải chịu trước sự giới hạn của cuộc sống, sự đau khổ,
cái chết, sự tàn ác và bóng tối của sự dữ, là những điều dường như che khuất
ánh sáng của sự tốt lành của Thiên Chúa. Nó là một lời chào đánh dấu sự khởi
đầu của Phúc Âm, của Tin Mừng.
Nhưng tại sao Đức Mẹ
lại được mời vui mừng theo cách này? Câu trả lời nằm trong phần thứ hai của lời
chào: “Chúa ở cùng bà.” Ở đây cũng thế, để hiểu được ý nghĩa của thuật
ngữ này, chúng ta phải trở về với Cựu Ước. Trong Sách Xôphônia, chúng ta tìm
thấy cách diễn tả này: “Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Sion … Chúa là Vua của
Israel đang ở giữa ngươi … Chúa là Thiên Chúa ngươi đang ở giữa ngươi, một Đấng
Cứu Thế oai hùng” (3:14-17). Trong những lời này có một lời hứa đôi dành
cho dân
Trong lời chào của
thiên sứ, Đức Mẹ Maria được gọi là “Đấng đầy ân sủng”; trong tiếng Hy
Lạp, từ “ân sủng”, charis có cùng một căn ngữ như từ “niềm vui”. Trong
cách diễn tả này nguồn gốc niềm vui của Đức Mẹ cũng được sáng tỏ thêm: niềm vui
đến từ ân sủng, nghĩa là, từ sự hiệp thông với Thiên Chúa, từ việc có một mối
liên hệ sống còn với Ngài, từ việc trở nên nơi cư ngụ của Chúa Thánh Thần, từ
việc hoàn toàn được hình thành bởi hành động của Thiên Chúa. Đức Mẹ Maria là
tạo vật đã mở rộng cửa với Đấng Tạo Hóa của mình một cách độc nhất vô nhị, Mẹ
đã phó thác mình trong tay Ngài, mà không giới hạn. Mẹ sống hoàn toàn bởi và
trong mối liên hệ với Chúa; Mẹ sống trong một thái độ lắng nghe, chú tâm nhận
ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong cuộc hành trình của dân Ngài; Mẹ được đưa
vào một lịch sử đức tin và hy vọng vào lời hứa của Thiên Chúa, là điều tạo
thành cơ cấu của cuộc đời Mẹ. Và Mẹ tự ý tuân phục lời Mẹ đã nhận được, tuân
phục thánh ý Chúa trong sự vâng phục của đức tin.
Thánh Ký Luca kể lại
câu chuyện của Đức Mẹ một cách tương tự tinh tế so với câu chuyện của ông
Abraham. Như vị Tổ Phụ vĩ đại là cha của các tín hữu, đã đáp lại tiếng gọi của
Thiên Chúa để rời bỏ vùng đất mà ông đang sống, nơi an toàn của ông, để bắt đầu
cuộc hành trình dẫn đến một vùng đất mà ông không biết và chỉ được sở hữu bằng
lời hứa của Thiên Chúa, cũng thế Đức Mẹ hoàn toàn tín thác vào lời mà sứ giả
của Thiên Chúa công bố và trở thành mẫu gương và mẹ của tất cả các tín hữu.
Tôi muốn nhấn mạnh
đến một khía cạnh quan trọng khác: việc mở linh hồn ra với Thiên Chúa và hành
động của Ngài trong đức tin cũng bao gồm yếu tố bóng tối. Mối liên hệ của con
người với Thiên Chúa không xóa bỏ khoảng cách giữa Đấng Tạo Hóa và tạo vật,
không loại bỏ điều mà Thánh Tông Đồ Phaolô xác quyế rằng phải đối mặt với sự
sâu thằm của sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Phán quyết của Ngài làm sao mà
hiểu cthấu, và đường lối của Ngài làm sao mà dò được!” (Romans 11:33). Nhưng chỉ những người như Đức Mẹ
– hoàn toàn mở lòng ra cho Thiên Chúa, có thể chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa,
ngay cả khi ý muốn ấy còn bí ẩn, ngay cả khi nó thường không phù hợp với ý
riêng của chúng ta và là một lưỡi gươm thâu qua tâm hồn, như ông già Simêôn nói
tiên tri với Đức Mẹ khi dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ (Lc 2:35). Cuộc hành
trình đức tin của ông Abraham bao gồm giây phút vui mừng vì hồng ân có con trai
của ông là ông Isaac, nhưng cũng là thời gian của bóng tối, khi phải lên núi
Moria để thực hiện một hành vi nghịch lý: Thiên Chúa đòi ông phải hiến tế đứa
con trai mà Ngài mới ban cho ông. Trên núi, thiên sứ ra lệnh cho ông: “Đừng
động tay vàođứa trẻ! Đừng làm hại nó! Bây giờ Ta biết rằng ngươi kính sợ Thiên
Chúa, vì ngươi đã không tiếc con trai của ngươi, con trai duy nhất của ngươi”
(St 22:12); lòng hoàn toàn tin tưởng của ông Abraham vào sự trung thành với lời
hứa của Thiên Chúa không thiếu hụt ngay cả khi lời Ngài bí ẩn và khó hiểu, hầu
như không thể nào chấp nhận nổi. Với Đức Mẹ Maria cũng thế, đức tin của Mẹ sống
niềm vui Truyền Tin, nhưng cũng phải đi qua bóng tối của việc đóng đinh của Con
Mẹ, để đạt đến ánh sáng của sự Phục Sinh.
Cuộc hành trình đức
tin của mỗi người chúng ta cũng giống như thế: chúng ta gặp những giây phút ánh
sáng, nhưng chúng ta cũng gặp phải những đoạn đường mà Thiên Chúa dường như
vắng mặt, sự im lặng đè nặng tâm hồn chúng ta và ý muốn của Ngài không phù hợp
với ý muốn của chúng ta, với điều chúng ta muốn. Nhưng chúng ta càng mở lòng ra
cho Thiên Chúa, càng đón nhận món quà đức tin, càng hoàn toàn đặt niềm tin vào
Ngài – như ông Abraham và Đức Mẹ – thì Ngài càng làm cho chúng ta có khả năng
hơn để sống bất kỳ tình trạng nào cuộc sống trong bình an và sự chắc chắn của
lòng trung thín và tình yêu của Ngài, bởi sự hiện diện của Ngài. Nhưng điều đó
có nghĩa là đi ra ngoài cái tôi và các dự tính của mình, để Lời Chúa là ánh
sáng hướng dẫn những tư tưởng và hành động của mình.
Tôi muốn một lần nữa
dừng lại ở một khía cạnh nổi bật trong những câu chuyện về thời thơ ấu của Chúa
Giêsu như đã Thánh Luca kể lại. Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse đem con trai của
các ngài lên Giêrusalem, lên Đền Thờ để dâng hiến Người cho Chúa theo quy định
của Lề Luật Môsê: “Tất cà các con trai đầu lòng phải được thánh hiến cho
Chúa” (Lc 2:22-24). Cử chỉ này của Thánh Gia có một ý nghĩa sâu sắc hơn nếu
chúng ta đọc trong ánh sáng của sự hiểu biết phúc âm về Chúa Giêsu khi Người
lên mười hai tuối, sau ba ngày tìm kiếm, được tìm thấy trong Đền Thờ đàm đạo
với các vị thầy (Tiến Sĩ). Để trả lời những lời đầy lo lắng của Đức Mẹ Maria và
Thánh Giuse: “Con ơi, sao con lại đối xử với cha mẹ như thế? Con coi, cha
con và mẹ đã lo lắng tìm con!”, Chúa Giêsu nói một cách bí ẩn: “Tại sao
cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con phải ở nhà của Cha con sao?”
(Lc 2:48-49). Điều đó có nghĩa là, Người như một người con ở nơi mà Chúa Cha sở
hữu, ở nhà của Chúa Cha. Mẹ Maria phải canh tân đức tin sâu xa trong đó Mẹ thưa
“xin vâng” trong biến cố Truyền Tin; Mẹ phải chấp nhận việc dành ưu tiên cho
Cha thật và riêng của Chúa Giêsu; Mẹ phải biết để cho người Con mà Mẹ đã sinh
ra được tự do theo đuổi sứ mệnh của Người. Và lời “xin vâng” của Đức Mẹ Maria
với Thánh Ý Thiên Chúa, trong sự vâng phục của đức tin, được lặp đi lặp lại
trong suốt cuộc đời Mẹ, cho đến giây phút khó khăn nhất, là giây phút của Thánh
Giá.
Đối diện với tất cả
những điều này, chúng ta có thể tự hỏi: làm thế nào mà Đức Mẹ có thể sống con
đường này cùng Con Mẹ với một niềm tin rất mạnh mẽ như thế, ngay cả trong bóng
tối mà không mất long hoàn toàn tín thác vào hành động của Thiên Chúa? Có một
thái độ cơ bản mà Đức Mẹ Maria áp dụng trước những gì xảy ra trong cuộc đời Mẹ.
Trong lúc Truyền Tin, Mẹ bối rối khi nghe những lời của Thiên Sứ, sự sợ hãi mà
một người cảm thấy khi được sự gần gũi của Thiên Chúa chạm đến, nhưng không
phải là thái độ của những người sợ hãi trước những gì Thiên Chúa có thể đòi
hỏi. Đức Mẹ suy nghĩ, Mẹ tự hỏi về ý nghĩa của lời chào này (x. Lc 1:29). Từ Hy
Lạp được sử dụng trong Tin Mừng để xác định “sự suy nghĩ” này là “dielogizeto,”
nhắc lại gốc của từ “dialogue – đối thoại”. Điều này có nghĩa là Đức Mẹ Maria
có một cuộc đối thoại thân mật với Lời của Thiên Chúa đã được công bố, Mẹ không
kể đến Lời ấy cách phiến diện, nhưng Mẹ ngừng lại, để cho Lời ấy thấm vào trí
khôn và tâm hồn Mẹ ngõ hầu hiểu những gì Chúa muốn từ Mẹ, là ý nghĩa của lời
công bố. Chúng ta tìm thấy một lời khác nói về thái độ nội tâm của Đức Mẹ Maria
trước hành động của Thiên Chúa, luôn luôn trong Tin Mừng Thánh Luca, khi Chúa
Giêsu sinh ra, sau khi các mục đồng thờ phượng. Thánh Luca khẳng định rằng Đức
Mẹ Maria “giữtất cả những điều ấy và suy nghĩ trong lòng” (Lc 2:19),
trong thuật ngữ Hy Lạp là symballon, chúng ta có thể nói rằng Mẹ “giữ
chung lại”, Mẹ “bỏ chung lại” trong lòng Mẹ tất cả những biến cố đã xảy ra cho
Mẹ; Mẹ đặt từng biến cố một, từng chữ, từng thực thể trong toàn bộ và so sánh
chúng, gìn giữ chúng, trong khi nhìn nhận rằng tất cả đến từ Thiên Chúa. Đức Mẹ
Maria không ngừng lại ở một sự hiểu biết hời hợt đầu tiên về những gì đang xảy
ra trong cuộc đời Mẹ, nhưng Mẹ có thể nhìn sâu sắc, Mẹ để cho mình được chất
vần bởi các biến cố, Mẹ khai triển chúng, phân biện chúng và đạt được sự hiểu
biết mà chỉ một mình đức tin có thể đảm bảo. Chính lòng khiêm tốn sâu xa của sự
vâng phục của đức tin của Đức Mẹ Maria, Đấng đón chào vào chính mình ngay cả
những điều Mẹ không hiểu về hành động của Thiên Chúa, để mặc cho Chúa khai mở
trí khôn và tâm hồn Mẹ. Bà Elizabeth, người họ hàng Mẹ, đã thốt lên: “Phúc
cho ai đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói cùng” (Lc 1:44).
Chính vì đức tin của Mẹ mà muôn thế hệ sẽ gọi Mẹ là có phúc.
Các bạn thân mến,
Đại Lễ Giáng sinh của Chúa mà chúng ta cử hành ở đây, mời gọi chúng ta sống
khiêm nhường và trong sự vâng phục của đức tin. Vinh quang Thiên Chúa không
biểu lộ trong chiến thắng và sức mạnh của một vị vua, không tỏa sáng trong một
thành phố thời danh, nơi cung điện xa hoa, nhưng ngự trong cung lòng của một
trinh nữ, tỏ lộ trong sự nghèo nàn của một Hài Nhi. Sự toàn năng của Thiên
Chúa, ngay cả trong đời sống của chúng ta, hoạt động với sức mạnh, thường âm
thầm, của chân lý và tình yêu. Như thế, đức tin cho chúng ta biết rằng sức mạnh
của Hài Nhi ấy cuối cùng sẽ khắc phục được sự huyên náo của các quyền lực thế
gian.
Phaolô Phạm Xuân
Khôi chuyển ngữ