Trước hết bạn
hãy suy nghĩ và trả lời hai câu hỏi này:
1. Điều làm tôi nghĩ Kinh Thánh là do Thiên
Chúa linh hứng, đó là...
2. Một vấn đề về Kinh Thánh đôi khi khiến tôi
thắc mắc, là...
Hồi đệ nhị
thế chiến, một thủy thủ được phái đến đơn vị hải pháo. Người ta phát cho anh một đôi găng tay chống
nhiệt. Nhiệm vụ của anh là phải nhặt vỏ
đạn rớt ra từ nòng đại bác sau mỗi lần tác xạ.
Lý do để tránh việc vỏ đạn nằm ngổn ngang trên sàn tàu gây nguy hiểm cho
các thủy thủ khác thuộc pháo đội. Anh
phải sử dụng đôi găng đặc biệt ấy là vì vỏ đạn rất nóng khi vừa rơi ra khỏi
nòng súng.
Giả như thấy
một thủy thủ mang găng tay chống nhiệt cầm một vỏ đạn đại bác thì có cách nào
để chúng ta có thể khẳng định được là vỏ đạn ấy thật nóng? Có ba cách:
Trước hết,
chúng ta có thể tự mình sờ vào vỏ đạn ấy để cảm thấy được độ nóng của nó. Thứ nhì, chúng ta có thể nhổ chút nước miếng
lên nó, nếu nghe tiếng xèo xèo thì chúng ta lý luận là nó đang nóng. Cách cuối cùng là chúng ta cứ hỏi thẳng
người cầm vỏ đạn ấy, một khi chúng ta đã cho là họ biết và sẽ nói thật.
Như vậy là có
ba cách để biết vỏ đạn có nóng hay không:
do kinh nghiệm của chính mình, do suy luận, và do tin tưởng vào một
người đã biết.
Tuy nhiên
chúng ta tự hỏi có thể áp dụng ba cách ấy để cảm nghiệm Thiên Chúa không? Thí dụ, chúng ta có thể dùng những cách ấy
để khẳng định Thiên Chúa hiện hữu và một vài nét về bản chất của Ngài
không? Nhiều người bảo rằng được lắm
chứ. Vậy chúng ta hãy xét cách biết đầu
tiên.
Trong cuốn tự thuật về đời sống tu đức của mình,
Bede Griffiths người Anh đã kể lại một câu truyện thời niên thiếu. Vào một buổi hoàng hôn mùa hè, đang khi đi
dạo chơi một mình, ông đã chợt nhận ra được vẻ đẹp của muôn vật chung
quanh. Ông tự hỏi mình tại sao cũng vẫn
vẻ đẹp này, thế mà từ bao lâu nay ông đã không nhận ra được. Rồi ông tiến thêm một bước nữa:
"Mọi sự
trở nên yên tịnh khi ánh nắng vàng buổi hoàng hôn nhạt dần... Tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ cảm giác sợ hãi
ập lên tôi. Chân tôi bủn rủn muốn quỵ
xuống... Lúc ấy tôi đã bất ngờ nhận
thức được một thế giới tuyệt vời với vẻ huyền bí tôi chưa bao giờ thấy
có." - The Golden String
Sau này
Griffiths thuật lại là dường như Thiên Chúa đã đến và chạm tới ông ngay chính
lúc ấy. Đó là một kinh nghiệm ông không
bao giờ quên được. Ông nói: "Bây giờ nhìn lại, tôi thấy đó quả là
một trong những biến cố đổi đời của cuộc sống tôi."
Nhiều người
khác cũng thuật lại những kinh nghiệm tương tự. Hơn thế nữa, họ còn xác tín chắc chắn mình đã cảm nghiệm được
Thiên Chúa.
Từ lâu,
Whittaker Chambers là một đảng viên tiếng tăm của đảng Cộng Sản Hoa Kỳ. Trong cuốn tự thuật, ông kể lại một câu
truyện đã hoàn toàn làm thay đổi chiều hướng tư tưởng của ông.
"Tôi
đang ngồi nhìn con gái tôi ăn. Nó ngồi
ngất ngưởng trên chiếc ghế con nít. Nó
là một cái gì huyền diệu nhất đã đến trong đời tôi. Tôi thích ngồi ngắm nó trát cháo lên mặt hoặc bình thản đổ cháo
xuống sàn nhà. Mắt tôi dừng lại trên
đôi tai của nó và tôi quan sát kỹ những vòng cong của vành tai - đôi tai phức
tạp và tuyệt hảo." - The Witness
Bất chợt, một
ý nghĩ đến với Chambers: Đôi tai này
không thể nào được hình thành tình cờ do sự hội tụ của các nguyên tử được. Nó phải là tác phẩm của một công trình sáng
tạo. Ý tưởng này đến với Chambers một
cách "tự nhiên chứ không gượng ép."
Ông đã ráng xua đuổi ý tưởng đó khỏi đầu óc mình. Vì nếu cứ tiếp tục suy luận thì ông sẽ phải
đi đến kết luận rằng tác phẩm này cho thấy là phải có một Đấng phác họa ra
nó. Chambers nói: "Lúc ấy tôi không nhận thấy, nhưng quả
thực ngón tay Thiên Chúa đã chạm trên trán tôi."
Một lần nữa,
có thể kể ra nhiều trường hợp tương tự về suy luận. Những trường hợp ấy làm cho nhiều người xác tín rằng lý trí không
những dẫn đến Thiên Chúa mà còn cho thấy một điều nào đó về bản chất của
Ngài. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma,
thánh Phao-lô viết: "Quả vậy,
những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng
vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí
khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người" (Rm 1:20).
Có nhiều
người chưa bao giờ cảm nghiệm Thiên Chúa một cách hoàn toàn không chút nghi
ngờ. Nhiều người khác lại ngần ngại
không muốn nói là lý trí có thể dẫn đến Thiên Chúa. Họ lý luận: Có thể ngày
nào đó khoa học sẽ tiến triển thêm và sẽ tìm ra một giải thích khác chứ không
phải giải thích là do Thiên Chúa, để cắt nghĩa sự phức tạp và trật tự trong vũ
trụ. Đối với những người này, chỉ có
cách duy nhất để tìm biết Thiên Chúa, đó là đức tin vào sự mạc khải của Thiên
Chúa dành cho con người.
Mạc khải
nghĩa là "mở tấm màn che khuất ra."
Sự mạc khải của Thiên Chúa là việc Ngài tỏ mình ra cho chúng ta. Qua sự tỏ lộ này, Thiên Chúa không những cho
chúng ta thấy bản chất của Ngài, mà còn cho thấy tình yêu và kế hoạch của Ngài
dành cho chúng ta nữa.
Mạc khải của
Thiên Chúa có thể được nhận biết qua hai giai đoạn:
* Sự mạc khải nguyên thủy của Thiên Chúa cho
các ngôn sứ và các tông đồ trong thời Cựu và Tân Ước.
* Sự chuyển tiếp của mạc khải đó sang các thế
hệ sau.
Sự mạc khải
nguyên thủy của Thiên Chúa cho các ngôn sứ và các tông đồ thường được gọi là
mạc khải trực thụ. Có nghĩa là các ngôn
sứ đã tiếp nhận lời Thiên Chúa trực tiếp qua những giấc mơ, thị kiến, hoặc qua
những soi sáng của Chúa về một vài biến cố lịch sử Do-thái. Cũng thế, các tông đồ đã tiếp nhận lời Chúa
tức khắc và trực tiếp từ Đức Giê-su.
Nhưng Thiên
Chúa tỏ mình ra với các ngôn sứ và các tông đồ không phải cho chính họ mà thôi,
mà là cho tất cả chúng ta, kể cả những người chưa sinh ra đời. Do đó cần phải có sự mạc khải gián thụ, tức
là truyền lại lời Thiên Chúa cho các người khác. Việc mạc khải gián thụ này dần dần trở thành Thánh Truyền, tức là
truyền lại lời Chúa cho người khác.
Vở kịch danh
tiếng Fiddler on the Roof của Broadway được soạn vào lúc người Do-thái vẫn còn
tuân giữ nhiều truyền thống cổ xưa.
Trong vở kịch này, một thanh niên đến gặp người láng giềng Do-thái tên
là Tevye để xin cầu hôn với con gái của ông.
Ban đầu Tevye
từ chối, vì theo truyền thống Do-thái chỉ có ông bà mai mới có thể thu xếp
chuyện hôn nhân. Nhưng rồi Tevye cũng
bằng lòng và để cho đôi trẻ lấy nhau.
Màn kịch này nêu lên một vài câu hỏi về truyền thống. Vậy truyền thống là gì và truyền thống ảnh
hưởng như thế nào?
Từ ngữ Thánh
Truyền theo nguyên ngữ La-tinh nghĩa là "truyền tay cho người
khác." Nó có thể được sử dụng theo
hai ý nghĩa.
Thứ nhất,
Thánh Truyền chỉ về một tiến trình theo đó một niềm tin và lối thực hành niềm
tin ấy được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ kia. Như vậy chúng ta đang nói về Thánh Truyền truyền khẩu và Thánh
Truyền thành văn.
Thứ nhì, từ
ngữ Thánh Truyền có thể dùng để chỉ về nội dung của những gì được truyền
lại. Như thế chúng ta lại phân biệt
Thánh Truyền thiết yếu và Thánh Truyền không thiết yếu. Thí dụ, truyền thống về việc linh mục Công
giáo không lập gia đình là một truyền thống không thiết yếu. Do đó truyền thống ấy có thể được thay đổi. Ngược lại, truyền thống tin Đức Ki-tô thực
sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể là truyền thống thiết yếu. Thánh Truyền này không thể thay đổi được. Hội Thánh dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh
Thần sẽ xác định truyền thống nào là thiết yếu hay không thiết yếu.
Thánh Truyền
được truyền đạt không chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng nhân chứng và việc thờ
phượng. Chúng ta có đức tin không phải
vì chúng ta được dạy dỗ, mà là vì chúng ta được trao ban. Do đó, Thánh Truyền là một tiến trình toàn
diện bao gồm cả lời nói lẫn nhân chứng
và việc thờ phượng.
Cách mô tả
tuyệt hảo nhất về tiến trình "toàn diện" này gặp thấy trong sách Công
Vụ Tông Đồ. Trong đó, thánh Lu-ca đã
tường thuật những hoạt động của các Ki-tô hữu tân tòng như sau:
"Họ
chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy (lời nói), hiệp thông với nhau (nhân
chứng), tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện" (thờ phượng). (Cv 2:42).
Tất cả những
hoạt động này - lời nói, nhân chứng và việc thờ phượng - giữ vai trò rất quan
trọng trong việc "truyền lại" đức tin.
Nhiều người
ngạc nhiên khi biết rằng một số lớn các đoạn Kinh Thánh đều khởi đầu từ khẩu
truyền. Nó cách khác, những đoạn Kinh
Thánh này đã được truyền miệng cho nhau qua nhiều năm trước khi được ghi chép
lại.
Lấy sách Tin
Mừng làm ví dụ. Nhiều đoạn trong chính
văn bản cho thấy là văn bản đã được truyền miệng qua một thời gian khá lâu
trước khi được ghi chép lại. Thí dụ,
Tin Mừng Mát-thêu nói rằng sau khi Đức Giê-su sống lại, lính canh mồ đã được
mua chuộc để phao tin là các môn đệ Chúa đã trộm xác Người khi họ đang
ngủ. Rồi thánh Mát-thêu ghi thêm: "Câu chuyện này được phổ biến giữa
người Do-thái cho đến ngày nay" (Mt 28:15). Những từ ngữ "cho đến ngày nay" nói lên một quá trình
thời gian đáng kể từ khi biến cố ấy xảy ra cho đến lúc được ghi lại trong sách
Tin Mừng. Trở lại sách Tin Mừng một lần
nữa, thánh Gio-an kết thúc sách của ngài như sau: “Chúa Giê-su còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ,
nhưng không ghi chép hết trong sách này” (Ga 20:30).
Điểm này quan
trọng, vì nó chứng tỏ khẩu truyền về Đức Giê-su vẫn còn được tiếp tục trong Hội
Thánh sau khi sách Tin Mừng được viết.
Trong tiến
trình của Thánh Truyền, vai trò của Chúa Thánh Thần là quan trọng trên
hết. Đề cập đến vấn đề này, chính Đức
Giê-su đã nói: "Khi nào Thần Khí
sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn" (Ga 16:13). Nói cách khác, Đức Giê-su khẳng định với
chúng ta rằng Chúa Thánh Thần sẽ dẫn dắt và bảo vệ Hội Thánh của Người khỏi
những lỗi lầm trong tiến trình truyền lại đức tin.
Đôi khi chúng
ta gọi sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần là linh hứng. Từ ngữ này được thánh Phao-lô sử dụng, như trong Thư thứ hai gửi
Ti-mô-thê: "Tất cả những gì viết
trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng" (2 Tm 3:16). Nghĩa là Chúa Thánh Thần đã dẫn dắt và bảo
vệ các tác giả viết Kinh Thánh khỏi những sai lầm trong những vấn đề liên hệ
đến việc cứu rỗi. Điều này không có
nghĩa là Thánh Thần bảo vệ các tác giả viết Kinh Thánh khỏi những sai lầm về
lịch sử và khoa học. Thiên Chúa không
bao giờ có ý định linh hứng cho họ để viết sách khoa học và lịch sử. Vì thế, Kinh Thánh không thể không có những
sai lầm khoa học và lịch sử.
Thí dụ sách
Đệ Nhị Luật 14:7 liệt kê loài thỏ rừng là một trong những thú vật nhai lại, đó
là điều không đúng khoa học chút nào.
Về lịch sử, chúng ta có thể lấy thí dụ sách 1 Sa-mu-en 31:4 ghi lại rằng
vua Sau-lê tự vận, trong khi sách 2 Sa-mu-en 1:9-10 lại viết là một người khác
đã giết nhà vua.
Công giáo và
Tin lành không đồng nhất với nhau về Kinh bộ Kinh Thánh Do-thái (Cựu Ước). Từ ngữ "Kinh bộ" có nghĩa là bản
danh sách chính thức về những sách được Thiên Chúa linh hứng và do đó được dùng
như là khuôn vàng thước ngọc cho đức tin.
Giáo Hội giữ lại nguyên trong Kinh bộ bảy cuốn sách mà Tin lành không
thừa nhận. Những sách này là Ma-ca-bê 1
và 2, Giu-đi-tha, Tô-bi-a, Ba-rúc, Huấn ca và Khôn Ngoan.
Sự bất đồng
này bắt nguồn từ xưa khi chính người Do-thái cũng đã không nhất trí về Kinh bộ
của họ. Nhiều người Do-thái trở lại
Ki-tô giáo lúc đó đã sử dụng Kinh bộ gọi là bản Bảy Mươi. Kinh bộ này được phiên dịch từ tiếng Do-thái
sang tiếng Hy-lạp vào khoảng 250 năm trước Chúa Giê-su. Tin Mừng Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca, Gio-an và
các tác giả Tân Ước khác đã dùng Kinh bộ này để trích dẫn hơn 300 lần khi họ
viết Kinh Thánh Tân Ước. Cuối cùng, vào
khoảng 100 năm sau Chúa Giê-su, khi xác định lại Kinh bộ của họ, người Do-thái
đã đồng ý loại bỏ bảy sách kể trên. Hội
Thánh Tin Lành thế kỷ 16 đã theo Kinh bộ này.
Ngày nay, nhiều người Tin Lành cũng sử dụng Kinh bộ gồm cả bảy sách này,
nhưng được sắp ở một phần riêng biệt.
Dù không
thống nhất về Kinh bộ Cựu Ước, nhưng cả Công giáo lẫn Tin Lành đều nhận cùng
một Kinh bộ Tân Ước.
Bài hát
"Maria" trong phim "The Sound of Music" có một câu như
sau: "Giữ sao được ánh trăng
thanh, trong bàn tay nhỏ của anh suốt đời." Câu hát này diễn tả bản chất độc đáo của Maria, không thể xếp
nàng vào loại người nào. Nhiều sách
trong Kinh Thánh Do-thái cũng giống như trường hợp Maria vậy, không thể xếp vào
loại nào được. Tìm cách để xếp loại
những sách này chẳng khác gì tìm cách giữ ánh trăng trong lòng bàn tay. Nhưng để tạm có một cái nhìn tổng quát về
Kinh Thánh, chúng ta cũng cố gắng xếp loại Kinh bộ Công giáo như sau:
KINH THÁNH DO THÁI (46 cuốn)
Ngũ thư: Những sách Khôn Ngoan:
Sáng Thế Gióp
Xuất Hành Thánh Vịnh
Lê-vi Châm
Ngôn
Dân Số Giảng Viên
Đệ Nhị Luật Diễm Ca
Khôn
Ngoan
Huấn
Ca
Những sách Lịch sử: Những sách Ngôn sứ:
Gio-suê Các Đại Ngôn sứ:
Thủ Lãnh I-sai-a
1 & 2
Sa-mu-en Giê-rê-mi-a
1 & 2 Các
Vua Ai Ca
1 & 2
Biên Niên Sử Ba-rúc
Ét-ra Ê-dê-ki-en
Nơ-khe-mi-a Đa-ni-en
1 & 2
Ma-ca-bê Các Tiểu Ngôn sứ:
Đặc biệt: Hô-sê Khác-gai
Rút A-mốt Da-ca-ri-a
Tô-bi-a Mi-kha Ô-va-đi-a
Giu-đi-tha Na-khum Giô-en
Ét-te Kha-ba-cúc Giô-na
Xô-phô-ni-a Ma-la-khi
KINH THÁNH KI-TÔ (27 cuốn)
Tin Mừng (4)
Mát-thêu Mác-cô Lu-ca
Gio-an
Công Vụ Tông Đồ
(1)
Thư (21)
Thánh
Phao-lô:
Những
thư đầu tiên: 1 & 2
Thê-xa-lô-ni-ca
Những
thư viết trong tù: Phi-líp-phê, Cô-lô-xê,
Ê-phê-xô, Phi-lê-môn
Những
thư lớn: Ga-lát, 1&2
Cô-rin-tô, Rô-ma
Những
thư về mục vụ: 1 & 2 Ti-mô-thê,
Ti-tô
Những thư
khác:
1, 2
& 3 Gio-an, 1 & 2 Phê-rô, Gia-cô-bê, Giu-đa
Đặc biệt:
Do-thái
Khải Huyền (1)
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH
1. Rô-ma 1:20-25 Lý trí dẫn tới Thiên Chúa
2. 2 Thê-xa-lô-ni-ca 2:13-17 Thánh Truyền
3. Ga-lát 1:6-9 Tin
Mừng được rao giảng
4. Lu-ca 1:1-4 Tin
Mừng được ghi chép lại
5. 2 Ti-mô-thê 3:14-4:5 Kinh Thánh được linh hứng
1. Có ba cách để chúng ta có thể đến với
Chúa. Bạn hãy suy nghĩ và chia sẻ cách
bạn đến với Chúa.
2. Bạn nghĩ gì về giá trị của Thánh Truyền nói
chung? Và cách riêng đối với đời sống
đức tin của bạn?
1. "Bạn chỉ có thể hiểu Kinh Thánh khi bạn
quì gối xuống." (Maurice Zundel). Dựa trên kinh nghiệm của bạn, câu nói
này có đúng không?
2. Giả thiết bạn có thể vượt thời gian trở về
thời Chúa Giê-su để chứng kiến những biến cố đời Ngài, bạn sẽ chọn biến cố
nào? Tại sao chọn biến cố ấy?
Mark Link, S.J.
Chuyển ngữ: Lm
Trần đình Nhi
Về Trang Mục
Lục
Trở về trang Giáo Lý
Công Giáo
Trở Về Trang Nhà