Phần II – Bài 12
Trước khi đọc
tiếp, bạn hãy suy nghĩ và hoàn tất hai câu sau đây:
1. Điều làm tôi
phấn khởi nhất về việc Đức Giê-su giáng sinh, là…
2. Một câu hỏi
tôi muốn được trả lời về việc Đức Giê-su giáng sinh, là…
Nhà văn
Nathaniel Hawthorne người Hoa-kỳ đã chết.
Trên bàn giấy của ông có dàn bài của một vở kịch chưa viết xong. Vở kịch nói về một người sẽ không bao giờ
xuất hiện trên sân khấu. Ai cũng nói về
người ấy. Ai cũng mơ về người ấy và ai
cũng đợi người ấy xuất hiện. Nhưng vở
kịch kết thúc mà người ấy vẫn không xuất hiện.
Một cách nào
đó, Kinh Thánh Do-thái cũng giống như vở kịch dở dang của Hawthorne. Kinh Thánh ấy chú ý tới một người mà ai cũng
nói đến, mơ ước và chờ đợi. Người ấy là
Đức Mê-si-a đã được hứa ban. Nhưng Kinh
Thánh Do-thái kết thúc mà vẫn không có Ngài xuất hiện.
Chính trong
bối cảnh này chúng ta sẽ nói về Kinh Thánh Ki-tô, nhất là những sách Tin Mừng.
Bốn sách Tin
Mừng không được viết liền ngay, nhưng đã được khai triển trong một thời gian
gồm ba giai đoạn:
* giai đoạn sống
* giai đoạn rao giảng
* giai đoạn thành văn.
Giai đoạn
sống là chính cuộc sống của Đức Giê-su, tức là những điều Ngài làm và những lời
Ngài nói trong suốt cuộc đời. Nói về
giai đoạn này, Phê-rô viết: “Chúng tôi
đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Ngài” (2 Pr 1:16).
Giai đoạn rao
giảng bắt đầu vào ngày Hiện Xuống. Được
tràn đầy sức mạnh Chúa Thánh Thần, các tông đồ bắt đầu rao giảng Tin Mừng. Hễ gặp một đám đông ở đâu là họ nói về Tin
Mừng. Do lòng sốt sắng hối thúc, họ đã
đem Tin Mừng qua khắp xứ Pha-lét-tin đến tận Hy-lạp và đến cả Rô-ma nữa.
Các tông đồ
đã cảm nhận một sự hối thúc, vì họ nghĩ rằng Đức Giê-su sẽ trở lại trong vinh
quang (Cv 1:11) ngay khi Tin Mừng được rao giảng cho mọi dân nước (Mt
24:14). Các tông đồ cứ tưởng là họ có
thể hoàn tất công việc này đang khi họ còn sống. Vì thế họ mới không nghĩ đến việc viết lại Tin Mừng. Tại sao phải viết lại Tin Mừng nếu ngày Đức
Giê-su trở lại đã gần kề?
Nhưng khi các
tông đồ thấy họ không thể hoàn tất việc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân trong
quãng đời của họ được, nên họ quyết định phải viết xuống để Tin Mừng khỏi bị
sai lạc hay bị bóp méo đi sau khi họ chết.
Vào khoảng
năm 50, giai đoạn thành văn bắt đầu.
Lu-ca nhắc đến điểm này trong phần giới thiệu sách Tin Mừng của
ngài: “Có nhiều người đã ra công biên
soạn bản tường thuật những điều đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được
chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta. Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu
đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra” (Lc 1:1-3).
Chúng ta giả
dụ một viên giám đốc đài truyền hình hoạch định một chương trình gọi là “Hướng
dẫn du ngoạn thành phố Nữu Ước.” Ông ta
quyết định trình chiếu thành phố qua cái nhìn của bốn du khách tới thăm thành
phố bằng bốn phương tiện: tàu thủy, xe
lửa, xe hơi và máy bay. Kết quả khán
thính giả có được cái nhìn về thành phố, không phải một mà là bốn cái nhìn khác
nhau. Do đó du khách thấy được thành
phố hấp dẫn hơn.
Cũng vậy, bốn
sách Tin Mừng không phải chỉ cống hiến một, nhưng là bốn khuôn mặt hoặc bốn cái
nhìn về Đức Giê-su. Kết quả là chúng ta
càng hiểu rõ được về Đức Giê-su nhiều hơn nữa.
Mỗi sách Tin
Mừng được viết trong thời gian, nơi chốn, cho độc giả và với mục đích riêng
biệt.
Các học giả
vẫn chưa đồng ý về những chi tiết Tin Mừng được viết khi nào, ở đâu và cho
ai. Có lẽ họ sẽ chẳng bao giờ đồng ý
kiến. Rồi họ cũng không đồng ý về lý do
tại sao mỗi sách Tin Mừng lại nhắm một mục đích. Nhưng nói chung, họ đồng ý về những điểm sau đây:
Mác-cô viết
tại Rô-ma trước năm 70 cho các Ki-tô hữu thuộc Dân ngoại (không phải
Do-thái). Mục đích của Tin Mừng Mác-cô
bị ảnh hưởng do sự kiện Ki-tô hữu tại Rô-ma đang chịu bách hại vì đức tin. Do đó, Mác-cô đã nhấn mạnh đến Đức Giê-su
chịu đau khổ. Nếu Đấng Cứu Thế đã phải
chịu đau khổ thì các môn đệ Ngài cũng sẽ phải chịu đau khổ (Mc 8:34-35).
Mát-thêu đã
viết tại An-ti-ô-khi-a (Xy-ri) vào khoảng giữa năm 70 và 90. Mục đích Mát-thêu nhắm, đó là viết cho Ki-tô
hữu gốc Do-thái. Họ rất ưu tư về việc
làm sao những giáo huấn của Đức Giê-su phù hợp với giáo huấn của Mô-sê và các
ngôn sứ. Vì thế, Mát-thêu đã nhấn mạnh
đến sự kiện giáo huấn của Đức Giê-su đã kiện toàn giáo huấn của Mô-sê và các
ngôn sứ như thế nào (Mt 5:17-48).
Lu-ca viết
tại Hy-lạp khoảng giữa năm 70 và 90.
Ngài viết cho những người nghèo khổ và bị ức hiếp. Cho nên Lu-ca đã nhấn mạnh đến ưu tư của Đức
Giê-su về một xã hội bị áp bức. Thí dụ,
ngài kể bốn câu truyện về Đức Giê-su hết sức lo lắng cho giới phụ nữ (họ là
những người bị áp bức trong thời sách Tin Mừng được viết) mà các sách Tin Mừng
khác không nói đến (Lc 7:11-17; 8:1-3; 15:8-10; 18:1-8).
Gio-an viết
tại Ê-phê-xô (Tiểu Á) sau năm 90 và viết cho Ki-tô hữu thuộc nhiều văn hóa khác
biệt. Do đó ngài đã chú ý đến việc làm
sao Đức Giê-su đã đến để làm cho mọi người được sống dồi dào hơn. Đức Giê-su nói: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).
Không như
Mác-cô và Gio-an là những sách bắt đầu với việc Đức Giê-su chịu phép rửa, sách
Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca bắt đầu với việc Đức Giê-su giáng sinh. Điều này thực là nan giải vì không môn đệ
nào biết về quãng đời ấy của Đức Giê-su.
Do đó Mát-thêu và Lu-ca phải tìm đến nguồn liệu khác để biết về việc Đức
Giê-su giáng sinh:
* nguồn liệu lịch sử: những gì bà Ma-ri-a, gia đình bà và gia đình
Giu-se đã nhớ được.
* những lời tiên tri: những gì các vị ngôn sứ Do-thái đã tiên báo
có thể giúp soi sáng vấn đề.
* thần học:
những gì Chúa Thánh Thần linh hứng cho họ để ghi chép lại về biến cố ấy.
Những trình
thuật về việc giáng sinh có thể ví như những “bức thảm dệt,” được kết bằng ba
loại sợi khác nhau: lịch sử, tiên tri
và thần học. Những sợi chỉ này đã được
dệt lại khéo léo đến nỗi người ta khó mà biết được sợi nào là đầu, sợi nào là
cuối.
Trình thuật Giáng Sinh theo Lu-ca phản ảnh lớp độc giả
ngài muốn viết cho họ, đó là những người Dân ngoại và người nghèo. Ngài đặt việc giáng sinh của Đức Giê-su
trong hoàn cảnh một cuộc kiểm tra dân số của Dân ngoại. Ngài nhấn mạnh sự kiện cha mẹ Đức Giê-su bị
đối xử như những kẻ sống bên lề xã hội, phải trú ngụ tại một hang đá. Những hoàn cảnh này cho thấy trước mối ưu tư
của Đức Giê-su đối với người Dân ngoại và người nghèo. Nói về việc Giáng Sinh, Lu-ca viết:
“Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra
dân số trong khắp cả thiên hạ… Ai nấy
đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi.
Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem,
miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua
Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với
người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã
tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh
con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà
không tìm được chỗ trong nhà trọ.
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng
và thức đêm canh giữ đàn vật. Và kìa sứ
thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ
kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo
họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng
đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm
nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là
Đấng Ki-tô Đức Chúa… Họ liền hối hả ra
đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông
Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ… Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên
Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.” (Lc 2:1,3-11,16,20)
Ba điểm đáng
ghi nhớ trong trình thuật Giáng Sinh do Lu-ca:
Trước hết,
Lu-ca tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng đã được hứa ban, Đấng Cứu Thế mà Ít-ra-en
chờ đợi từ lâu.
Thứ hai, ngài
kêu gọi người ta hãy chú ý tới những hoàn cảnh khiêm nhượng trong việc Đức
Giê-su giáng sinh. Đấng Cứu Thế sinh ra
trong nghèo khó như một người bị ruồng bỏ và trong một nơi dành cho những con
vật hôi hám ở.
Thứ ba, Lu-ca
muốn nói lên căn tính và sứ mệnh của Đức Giê-su: Đức Giê-su là Con Chiên Thiên Chúa và là hy tế. Lu-ca diễn tả điều này bằng cách nói Đức
Giê-su đã sinh ra trong mùa cừu sinh sản:
“Có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn
vật.” Bình thường các mục đồng lùa cừu
vào trong hang hoặc chuồng khi đêm xuống.
Chỉ có thời gian cừu sinh sản là người ta không lùa chúng vào vì sợ cừu
non bị những con lớn đạp chết. Mùa cừu
sinh sản sẽ là thời điểm tốt đối với việc Đức Giê-su giáng sinh, vì tựa như
những con chiên sinh ra quanh vùng Bê-lem (nương dưới bóng Đền Thờ Giê-ru-sa-lem)
được dùng để làm sinh lễ, thì Đức Giê-su cũng sẽ trở nên hy tế như vậy.
Trình thuật
Giáng Sinh theo Lu-ca để lại cho chúng ta bài ca mà ông Da-ca-ri-a đã hát lên
ngày Gio-an Tẩy giả chào đời:
“Chúc tụng
Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en…
Từ dòng dõi
trung thần Đa-vít,
Người đã cho
xuất hiện
Vị Cứu Tinh
quyền thế để giúp ta,
Như Người đã
dùng miệng các vị thánh ngôn sứ
Mà phán hứa
tự ngàn xưa…” (Lc 1:68-70)
Trình thuật
Giáng Sinh do Mát-thêu trình bày Đức Giê-su như là sự thể hiện hoàn tất những
lời tiên tri trong Cựu Ước. Mát-thêu
bắt đầu trình thuật bằng cách cho thấy Giu-se và Ma-ri-a đã đính hôn với
nhau. Trước khi cưới, “Ma-ri-a đã có
thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1:18).
Điều này khiến Giu-se buồn phiền cho tới khi ông biết Ma-ri-a đã chịu
thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần.
Mát-thêu viết:
“Tất cả sự
việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn
sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và
sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là
‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’.” (Mt 1:22-23)
Sau khi Đức
Giê-su giáng sinh, Mát-thêu tả lại việc
“các nhà chiêm tinh từ phương Đông” theo dấu một ngôi sao để đến
Giê-ru-sa-lem. Các nhà chiêm tinh là
những người học hỏi về tinh tú và quan sát sự vận hành của chúng. Khi họ hỏi vua Hê-rô-đê về nơi vị tân vương
của Do-thái sinh ra, thì các cố vấn của nhà vua trả lời họ là tân vương sinh ra
tại Bê-lem.
Sau khi các
nhà chiêm tinh đi Bê-lem, vua Hê-rô-đê bắt đầu lo sợ cho ngai vàng của mình và
âm mưu giết Đức Giê-su. Trong lúc ấy
các nhà chiêm tinh đã gặp được Đức Giê-su và tiến dâng Ngài những tặng vật là
vàng, hương và mộc dược. Thiên sứ dạy
họ đừng quay lại Giê-ru-sa-lem, nhưng hãy tìm đường khác mà trở về nhà. Thiên sứ cũng bảo Giu-se hãy đem Ma-ri-a và
Đức Giê-su sang Ai-cập, vì vua Hê-rô-đê đang tìm cách giết Hài Nhi.
Cũng giống
như các biến cố khác trong thời thơ ấu của Đức Giê-su, trình thuật này được
dựng trên ba nguồn liệu: lịch sử, tiên
tri và thần học. Trong câu truyện các
nhà chiêm tinh, ba “sợi chỉ” này không thể tách rời từng sợi. Thí dụ lịch sử cho thấy các nhà chiêm tinh
đã sống ở phương Đông. Nhưng đồng thời
lịch sử ấy cũng nói rằng họ nghiên cứu về tinh tú và ngẫm nghĩ về cuộc đời theo
những vì sao ấy.
Cũng vậy,
“những sợi chỉ” lời tiên tri trong Cựu Ước không thể nhận ra được trong câu
truyện các nhà chiêm tinh. Thí dụ ngôn
sứ Mi-kha đã nói tiên tri về Bê-lem:
“Từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mệnh thống lãnh
Ít-ra-en” (Mk 5:1). Và tác giả Thánh
Vịnh viết: “Hàng vương giả sẽ về triều
cống… muôn dân nước thảy đều phụng sự”
(Tv 72:10-11). Sau cùng, sách Dân Số
nói: “Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa
phải lúc; tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó
kề bên: một vì sao xuất hiện từ
Gia-cóp” (Ds 24:17).
Sợi chỉ thần
học quan trọng nhất, đó là sợi đã đan kết hai sợi kia để cho thấy ý nghĩa mà
Mát-thêu muốn hiểu khi kể lại câu truyện.
Ngài muốn chúng ta hiểu rằng Đức Giê-su là:
* Đấng Mê-si-a đã được hứa ban,
* đã được tiên báo do các ngôn sứ,
* bị người Do-thái (Hê-rô-đê) chối bỏ, và
* lại được Dân ngoại (các nhà chiêm tinh) nhìn
nhận.
Theo truyền
thống, Ki-tô hữu đã thấu hiểu ý nghĩa của ba lễ vật các nhà chiêm tinh tiến
dâng: vàng, hương và mộc dược.
Vàng là “vua
các kim loại.” Do đó vàng là một biểu
tượng lý tưởng nói lên vương quyền của Đức Giê-su. Hương được dùng trong việc thờ phượng. Hương thơm và khói hương cuồn cuộn dâng lên trời đã nói lên tính
cách thần thiêng, tức biểu tượng cho thiên tính của Đức Giê-su. Mộc dược được dùng để ướp xác trước khi mai
táng. Vậy mộc dược nói về sự mỏng dòn
của con người và biểu tượng cho nhân tính của Đức Giê-su.
Một ngàn năm
trăm năm trước đây, một văn sĩ Ki-tô giáo đã tóm lược câu truyện các nhà Chiêm
tinh như sau:
“Các nhà
chiêm tinh hết sức bỡ ngỡ chăm chú vào những gì mắt họ thấy: trời đang hiện diện trên trái đất, trái đất
đang hiện diện trên trời, con người trong Thiên Chúa, Thiên Chúa trong con
người… Nhìn thấy như vậy thì họ tin và
không còn thắc mắc gì nữa, vì các lễ vật của họ đã làm chứng: vàng cho một vị vua, hương cho Thiên Chúa và
mộc dược cho một người sẽ phải chết.”
(Phê-rô Kim Ngôn)
Đức Giê-su
chắc chắn đã làm tất cả những gì hầu hết các trẻ em cùng lớp tuổi đã làm. Trong những điều này, quan trọng nhất vẫn là
học Kinh Thánh và học nghề của cha mình (Mc 6:3).
Ngày hưu lễ
và những ngày lễ lạc là những dịp đặc biệt đối với Đức Giê-su. Ngài đã đều đặn đến hội đường, tại đó khi
đến phiên, Ngài đã tuyên đọc Kinh Thánh Cựu Ước (Lc 4:16-17). Cũng vạây, Ngài đã đi lên Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem để mừng những lễ lớn (Lc 2:41).
Trong khi ấy
giữa những bận rộn hằng ngày đã có một điều gì thật là diệu kỳ và mầu nhiệm
đang diễn tiến trong tâm trí Đức Giê-su.
Con người của Ngài đang ý thức về căn tính, sứ mệnh và về Cha trên
trời; ý thức ấy đang phát triển một
cách vô cùng tốt đẹp (Lc 2:49).
1. Gio-an 1:1-18 Ngôi Lời tự đời đời
2. Châm Ngôn 8:22-31 Người Con vĩnh cửu
3. I-sai-a 9:1-6 Vương quốc vĩnh cửu
4. Mát-thêu 2:1-12 Những vị khách viếng thăm Vua
5. Thánh Vịnh 72:1-19 Vạn tuế Vua!
Các tác giả
sách Tin Mừng đã viết khi nào, ở đâu và cho ai?
Bạn hiểu thế
nào khi những sách ấy viết cho chính bạn?
1. Khi thăm Thánh địa, có người mang theo một
bộ tượng Giáng Sinh. Tượng làm bằng gỗ
ô-liu, khắc hình Đức Giê-su, Mẹ Ma-ri-a, thánh Giu-se và các người chăn chiên. Nhân viên an ninh phi trường Tel Aviv rọi
tia X từng tượng một và nói: “Chúng tôi
không thể bất cẩn được. Nhưng chúng tôi
phải chắc chắn là không có chất nổ đặt bên trong các tượng này.” Chủ nhân của bộ tượng cười thầm và nghĩ
rằng: “Đúng, bộ tượng Giáng Sinh có một
sức nổ mạnh nhất thế giới!” Vậy người
ấy đang nghĩ tới sức mạnh nào? Chúng ta
có thể diễn tả sức mạnh ấy thế nào?
2. Henry Van Dyke đã viết một câu truyện rất
hay về Giáng Sinh, tựa là “Nhà chiêm tinh thứ tư” nói về Artaban là người đáng
lẽ đã cùng đi với ba nhà chiêm tinh kia đến Bê-lem. Câu truyện kể tại sao ông ta đã trễ hẹn không đi với họ
được. Bạn hãy tưởng tượng Van Dyke xin
bạn giúp ông ta ý kiến muốn Artaban đem theo lễ vật gì để dâng cho Đức
Giê-su. Vậy lễ vật gì thích hợp và tại
sao?
3. Một thi sĩ vô danh viết: “Khi tiếng hát thiên thần vừa dứt, khi ánh
sao trên trời mới tắt, khi các vua chúa đã về nhà, khi các mục đồng đã trở lại
đàn chiên, thì công việc của Giáng Sinh bắt đầu: tìm những gì lạc mất, chữa lành kẻ bị dập nát, cho người đói ăn,
thả tù nhân, tái thiết các quốc gia, đem hòa bình đến cho anh em, ca hát trong
tâm hồn.” Hãy diễn tả một “công việc
Giáng Sinh” mà bạn đã hoặc đang dấn thân.
Mark Link, S.J.
Chuyển ngữ: Lm
Trần đình Nhi
Về Trang Mục Lục
Trở về trang Giáo Lý
Công Giáo
Trở Về Trang Nhà