Trước khi đọc
tiếp, bạn hãy suy nghĩ và hoàn tất hai câu sau đây:
1. Một lần tôi
phải đau khổ rất nhiều, đó là…
2. Một điều
khiến tôi cảm thấy Đức Giê-su đã thực sự sống lại từ kẻ chết, đó là…
Có một mảnh
vườn với tám cây ô-liu cổ thụ nằm trên sườn Núi Cây Dầu. Không ai biết những cây ấy đã có tự bao giờ. Nhưng mọi người đều đồng ý có lẽ đó là địa
điêåm Đức Giê-su bắt đầu chịu khổ nạn và chịu chết.
Sách Tin Mừng
nói rằng sau bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su cùng với tông đồ đã đi tới Núi Cây Dầu,
đến một vườn nhỏ gọi là Ghết-sê-ma-ni.
Tên ấy nghĩa là “ép dầu,” vì vườn có đặt một máy ép trái ô-liu để lấy
dầu.
Tại
Ghết-sê-ma-ni, Đức Giê-su bắt đầu chịu một trong bốn cơn đau của cuộc khổ nạn,
đánh dấu những giờ phút cuối cùng của Ngài trên trần gian. Cơn đau thứ nhất: hấp hối tinh thần khi thấy số phận tàn bạo sắp đến.
Lu-ca nói
rằng cơn buồn phiền tinh thần của Đức Giê-su quá lớn lao đến nỗi “mồ hôi Ngài
như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22:44).
Trong cơn hấp hối, Đức Giê-su hướng về Cha Ngài, cầu xin: “Cha ơi, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi
uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm
theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22:42).
Sau cơn hấp
hối và cầu nguyện, Đức Giê-su nghe tiếng người phía xa. Ngài biết họ làm gì. Chỉ ít phút sau, một đám lính đã vào Ghết-sê-ma-ni. Giu-đa đến cùng với họ. “Ngay lúc đó, Giu-đa tiến lại gần Đức
Giê-su… và hôn Ngài” (Mt 27:49). Lập
tức bọn lính xông tới bắt Đức Giê-su.
Giờ đây cơn đau thứ hai bắt đầu.
Sự phản bội
của Giu-đa là vết cắt sâu vào trái tim Đức Giê-su. Rõ ràng những lời Thánh Vịnh vang lên trong đầu. “Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng
con chia cơm xẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con!” (Tv 41:9).
Đám lính trói
Đức Giê-su lại và dẫn Ngài về nhà tù.
Khi cánh cửa nhà tù sập lại, Đức Giê-su ngồi một mình trong bóng
tối. Cơn hấp hối về cảm xúc vì bị
Giu-đa phản bội, Phê-rô chối bỏ và các tông đồ khác lẩn trốn đã đè dập Đức
Giê-su. Sau khi các môn đệ và bạn hữu
bỏ rơi, Ngài bị bỏ mặc chịu đau khổ và
chết lủi thủi một mình.
Đến sáng, Đức
Giê-su bị đem ra tòa, bị buộc tội và đưa đến trước Phi-la-tô để chịu kết
án. Phi-la-tô liền nghị án rằng đây chỉ
là vấn đề tranh chấp về tôn giáo giữa người Do-thái với nhau. Ông xử tha bổng Đức Giê-su, trong khi những
nhà lãnh đạo Giê-ru-sa-lem cương quyết đòi phải trừng phạt Ngài. Cuối cùng Phi-la-tô đã thất vọng bỏ cuộc (Ga
18:29-19:16). Bây giờ là cơn đau thứ
ba.
Phi-la-tô ra lệnh cho đánh đòn Đức Giê-su.
Thi hành xong án lệnh quái ác ấy, đám lính Rô-ma đem Đức Giê-su ra làm trò hề
diễu cợt.
“Rồi chúng
kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Ngài, và trao vào tay mặt Ngài một
cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Ngài
mà nhạo rằng: ‘Vạn tuế Đức Vua dân Do-thái!’
Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra và cho Ngài mặc lại áo của mình,
rồi điệu Ngài đi đóng đinh vào thập giá” (Mt 27:29,31).
Theo thói
quen, các tử tội phải tự vác lấy dụng cụ hành quyết mình. Đức Giê-su không ngoài thông lệ đó. Sau khi đi được vài trăm thước, vì yếu sức do
mất nhiều máu, Đức Giê-su đã quỵ ngã mấy lần.
Do đó đám lính bắt một người qua đường tên là Si-mon người Ky-rê-nê vác
giúp Ngài.
Khi đám rước
thô bạo ấy tới ngọn đồi Gôn-gô-tha, đám lính đóng đinh Đức Giê-su vào thập
giá. Đau đớn thể xác do việc đóng đinh
không sao tả xiết. Một tài liệu ngày
xưa cho thấy nhiều khi những nạn nhân trở nên điên khùng trước khi chết.
Một trong
những đau đớn dữ dội nhất chúng ta phải chịu là đau đớn về thiêng liêng, đó là
cảm giác thấy mình bị bỏ rơi, ngay cả Thiên Chúa cũng không đoái hoài. Đức Giê-su đã cảm nghiệm cơn đau đớn kinh
khủng này ở trên đồi Gôn-gô-tha (Mc 15:34).
Những lời Thánh Vịnh 22 mô tả tình trạng ấy một cách tuyệt hảo:
“Lạy
Chúa con thờ, muôn lạy Chúa,
Ngài
nỡ lòng ruồng bỏ con sao?…
Tưởng
mình như tan dần ra nước,
Toàn
thân con xương cốt rã rời,
Con
tim đau đớn bồi hồi,
Mềm
như sáp chảy tơi bời ruột gan.
Nghe
cổ họng khô ran như ngói,
Lưỡi
với hàm dính lại cùng nhau.
Chốn
tử vong, Chúa đặt vào;
Quanh
con bầy chó đã bao chặt rồi.
Bọn
ác đó trong ngoài vây bủa,
Chúng
đâm con thủng cả chân tay,
Xương
con đếm được vắn dài;
Chúng
đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem.
Áo
mặc ngoài chúng đem chia chác,
Còn
áo trong cũng bắt thăm luôn.
Chúa
là sức mạnh con nương,
Cứu
mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa.” (Tv
22:2,15-20)
Nhưng Thiên
Chúa đã chẳng tới để giải cứu Đức Giê-su!
Lu-ca kể lại:
“Bấy giờ đã
gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ
chín. Mặt trời tối đi. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay
chính giữa. Đức Giê-su kêu lớn
tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn
con trong tay Cha. Nói xong, Ngài tắt
thở.” (Lc 23:44-46)
Khi viên sĩ
quan Rô-ma đứng dưới chân thập giá trông thấy mọi sự xảy ra như vậy, ông liền
kêu lên: “Quả thật, người này là Con
Thiên Chúa” (Mc 15:39).
Viên sĩ quan
Rô-ma ấy là người trong đám đông nhìn lên Đức Giê-su chịu đóng đinh, ông đã tin
vào Ngài và chiếm được sự sống đời đời.
Đức Giê-su đã tiên báo điều ấy trước đây khi Ngài nói: “Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy,
để ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15).
Việc đóng
đinh kết thúc với bao nhiêu con mắt ngước nhìn lên con người chịu đau khổ trên
thập giá. Cuối cùng, sự chết đã giải
thoát Đức Giê-su khỏi những đau đớn của Ngài.
Đang khi Ngài bị treo thân trên đó, chúng ta tự hỏi: tại sao Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, đã phải
chịu sự đau đớn tột độ ấy? Tại sao Ngài
phải chịu:
* đau đớn tinh thần tại Ghết-sê-ma-ni,
* đau đớn về cảm xúc do sự phản bội,
* đau đớn thể xác khi chịu đóng đinh, và
* đau đớn về thiêng liêng khi bị bỏ rơi?
Sự đau đớn
của Đức Giê-su có thể gây hiểu lầm. Đức
Giê-su không chịu đau khổ vì giá trị của chính sự đau khổ. Không phải cái chết về thể xác của Đức
Giê-su đã cứu chuộc chúng ta. Nhưng
chính tình yêu đã đưa Đức Giê-su đến việc sẵn sàng chịu đau khổ để cứu chuộc
chúng ta. Do đó thập giá giúp chúng ta
hiểu ba điều sau đây:
Trước hết,
thập giá của Đức Giê-su là một dấu chỉ tình yêu. Nó nói lên cách cụ thể điều chính Đức Giê-su thường nói: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương
của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15:13).
Tiếp đến,
thập giá là một mặc khải về tình yêu.
Nó nói với chúng ta rằng tình yêu đòi hỏi đau khổ.
Thập giá nói
lên cách cụ thể điều Đức Giê-su thường nói:
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà
theo” (Lc 9:23).
Sau hết, thân
xác Đức Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá là lời mời gọi chúng ta hãy yêu
thương. Một lần nữa, thập giá nói lên
cách cụ thể lời Đức Giê-su: “Anh em hãy
yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12).
Một phóng
viên của Liên hiệp Thông tấn xã đã tóm tắt những biến cố trong ngày Thứ Sáu
Tuần Thánh như sau:
“GIÊ-RU-SA-LEM
(AP) - Giê-su Na-da-rét đã bị hành
quyết hôm nay tại ngoại thành của cố đô này.
Ông ta chết vào lúc ba giờ chiều.
Một cơn giông tố dị thường đã làm cho đám đông hiếu kỳ phải tản mát, và
đó cũng là cao điểm thích hợp nói lên quãng đời ngắn ngủi nhưng đầy phong ba
của nhà giảng thuyết được nhiều người mến nhưng cũng không thiếu kẻ ghét tại
miền núi đồi Ga-li-lê. Việc mai táng đã
được thực hiện liền sau đó. Một tiểu
đội cảnh sát được phái tới canh phòng ngay tại ngôi mộ để đề phòng bất
trắc. Người Ga-li-lê này có bà mẹ còn
sống.”
Những biến cố
ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đã để lại cho các môn đệ của Đức Giê-su một cơn sững
sờ. Thế là giấc mơ Đức Giê-su được
Thiên Chúa sai đến để làm cho thế giới này nên tốt đẹp hơn bỗng tan vỡ trong
cơn mộng kinh hoàng. Tất cả đều hết,
hết rồi. Thế là chấm dứt.
Nhưng rồi
Chúa Nhật Phục Sinh đến.
“Ngày thứ
nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ… Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ… Kìa hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất,
thì hai người kia nói: “Sao các bà lại
tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Ngài
không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi…”
Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất
cả những sự việc ấy… Nhưng các ông cho
là chuyện lẩn thẩn, nên chẳng tin. Dầu
vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ.
Nhưng khi cúi nhìn, ông chỉ thấy những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự
việc đã xảy ra.” (Lc 24:1-12)
Cùng ngày hôm
ấy, hai môn đệ thất vọng trở về Em-mau, bàn luận về những biến cố đau thương
ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Bất chợt một
người khách lạ (Đức Giê-su) nhập bọn với họ.
Khi người ấy hỏi tại sao họ chán nản như thế, họ liền nói cho người
khách lạ biết về những gì xảy ra ngày Thứ Sáu.
Họ cũng giải thích rằng có một số môn đệ Đức Giê-su đã đến mộ vào ngày
Chúa Nhật, rồi về nhà với thái độ hoảng hốt, nói là Đức Giê-su đã sống lại,
nhưng chính họ cũng không tin được.
Rồi người
khách lạ ấy bắt đầu ôn lại Kinh Thánh cùng với hai môn đệ. Ngài cắt nghĩa làm sao Kinh Thánh đã chứng
tỏ việc Đấng Cứu Thế phải chịu đau khổ trước khi được vinh hiển.
Khi tới
Em-mau, hai môn đệ mời người khách lạ vào ăn tối với họ. “Khi đồng bàn với họ, Ngài cầm lấy bánh,
dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.
Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài, nhưng Ngài lại biến mất” (Lc
24:30-31).
Một đặc điểm
của những lần Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ sau khi sống lại là họ không
nhận ra Ngài.
Khi Đức
Giê-su hiện ra với Ma-ri-a Mác-đa-la, bà tưởng Ngài là “người làm vườn” (Ga
20:15). Khi Ngài hiện ra với các tông
đồ tại Giê-ru-sa-lem, họ nghĩ Ngài là “ma” (Lc 24:37). Khi hiện ra với các môn đệ bên bờ hồ, họ
“không nhận ra đó chính là Đức Giê-su” (Ga 21:4).
Việc không
thể nhận ra Đức Giê-su nói lên một điều gì đó về sự sống lại và thân xác sau
phục sinh.
Việc sống lại
của Đức Giê-su không phải là phục hồi sự sống cũ của Ngài, như trường hợp con
gái ông Giai-a, con trai bà góa thành Na-in và anh La-da-rô. Trường hợp Đức Giê-su không chỉ là phục hồi
sự sống mới cho một thân xác đã chết, nhưng còn là một điều gì vô cùng hơn thế
nữa.
Từ ngữ phục
sinh nói về một điều mà không một ai trước Đức Giê-su đã làm. Đó không phải là trở lại với sự sống, nhưng
là một bước nhảy vọt đi vào một sự sống cao cả hơn. Thân xác Đức Giê-su sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh hoàn
toàn khác với thân xác của Ngài được mai táng buổi chiều Thứ Sáu.
Thánh Phao-lô
so sánh thân xác trước khi phục sinh như hạt lúa gieo xuống đất. Còn thân xác sau phục sinh khác với thân xác
trước phục sinh tự căn bản, giống như hạt lúa khác với cây lúa. Phao-lô viết:
“Ngươi gieo
cái gì, cái ấy phải chết mới được sống.
Cái ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ
trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý Người muốn: giống nào hình thể nấy…
Việc kẻ chết
sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư
nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo
xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang;
gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi
dậy là thân thể có thần khí. Nếu có
thân thể có sinh khí, thì cũng có thân thể có thần khí.” (1 Cr 15:36-38,42-44).
Giờ đây Đức
Giê-su đã sống lại nên Ngài có một quan hệ hoàn toàn mới đối với các anh chị em
của Ngài trên trần gian. Giờ đây Ngài
được vinh hiển. Giờ đây Ngài có thể sai
xuôáng trên họ Thánh Thần đã được hứa ban (Ga 7:37-39; 15:26).
Đức Giê-su
bắt đầu thi hành điều này ngay. Vào tối
Phục Sinh, Ngài đã thổi hơi trên các tông đồ và nói với họ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga
20:22). Rồi năm mươi ngày sau vào lễ
Ngũ Tuần, Thánh Thần đã được đổ tràn trên toàn thể Giáo Hội.
Cùng với việc
Thánh Thần đến cũng là lúc bắt đầu trách nhiệm tiếp nối công việc của Đức
Giê-su. Đây là một sứ điệp trọng đại mà
Mát-thêu dùng để kết thúc sách Tin Mừng:
“Mười một môn
đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông
đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy,
nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức
Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy
đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.
Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho
họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những
điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây,
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
(Mt 28:16-20)
Sự phục sinh
của Đức Giê-su bao hàm một lời mời gọi từng người chúng ta hãy mở lòng đón nhận
sự hiện diện của Đức Giê-su Phục Sinh trong thế giới hôm nay. Sự phục sinh của Ngài mời gọi chúng ta hãy
để Ngài làm cho chúng ta những gì Ngài đã làm cho bao nhiêu người trước chúng
ta.
Mời gọi chúng
ta hãy yêu thương hơn nữa, dù tình yêu của chúng ta có bị chối từ và chúng ta
đang bị cám dỗ hãy ghen ghét người khác.
Mời gọi chúng
ta hãy hy vọng hơn nữa, dù niềm hy vọng của chúng ta đã tan nát và chúng ta
đang thất vọng ê chề.
Mời gọi chúng
ta hãy tin thêm, dù đức tin của chúng ta đã lung lay và chúng ta đang bị cám dỗ
nghi ngờ.
Mời gọi chúng
ta hãy nhặt lại từng mảnh vỡ mà tái thiết, dù thất vọng đã đè bẹp chúng ta và
chúng ta sắp sửa bỏ cuộc.
Sự phục sinh
của Đức Giê-su là tin mừng vì Ngài đã đánh bại sự chết và ma quỷ, cùng chia sẻ
với chúng ta quyền năng để chúng ta cũng làm được như Ngài. Khát vọng được sống đời đời không còn là một
điều viển vông nữa. Sự phục sinh là tin
mừng vì không gì có thể hủy diệt chúng ta được, dù là đau khổ, dù là ưu phiền,
dù là chối bỏ, dù là tội lỗi, và ngay cả đến cái chết.
Sự phục sinh
là tin mừng vì Đức Giê-su đang sống và thực sự hiện diện trong thế giới chúng
ta, sẵn sàng thực hiện những phép lạ của sự sống mới giữa chúng ta, qua chúng
ta và cho chúng ta – nếu chúng ta tin vào Ngài.
1. Gio-an 18-19 Đức
Giê-su bị bắt và chết
2. I-sai-a 52:13-53:8 Đấng chữa lành mang thương tích
3. 1 Cô-rin-tô 15:1-12 Hơn năm trăm người đã thấy Ngài
4. 1 Cô-rin-tô 15:35-58 Hạt giống và sao trời
5. Mác-cô 12:18-37 Bà ấy là vợ của người nào?
1. Phản ứng của các môn đệ khi thoạt trông thấy
Đức Giê-su phục sinh. Giải thích phản
ứng của họ.
2. Giải thích quan hệ mới của Đức Giê-su với
môn đệ sau khi Ngài sống lại.
3. Sự phục sinh của Đức Giê-su mời gọi bạn làm
gì?
1. Thảo luận những tư tưởng sau đây:
* “Ai chưa từng ăn bánh trong sầu muộn, chưa
từng trải qua những giờ phút đen tối, chưa từng khóc lóc và mong chờ ngày mai,
thì họ chưa biết các ngài, hỡi các vị quyền năng trên trời.” (Johann Wolfang von Goethe)
* “Sách Tin Mừng không giải thích sự phục
sinh, nhưng sự phục sinh giải thích sách Tin Mừng.” (J. S. Whale)
* “Chẳng bao lâu nữa bạn sẽ đọc trên báo loan
tin Moody đã chết. Nhưng bạn đừng tin,
vì tôi sẽ sống nhiều hơn là tôi đang sống bây giờ.” (Dwight L. Moody)
2. Môn đệ Đức Giê-su mai táng Ngài (Lc
23:52-53). Họ ăn thịt Ngài (Lc
22:19). Họ là thân thể Đức Ki-tô (1 Cr
12:27). Ba thứ thân thể của Đức Giê-su
nói về những điều gì? Bạn gọi tên của
từng thân thể ấy thế nào? Khi nào mỗi
thân thể ấy đã hiện diện?
3. Sau khi tổng thống Kennedy bị ám sát, một em
lớp mẫu giáo nói với cô giáo: “Tổng
thống chết rồi. Người ta chôn ông. Ông thực sự đã chết.” Cô giáo đưa em ra bên cửa sổ, chỗ các em để
những chậu nhỏ đã gieo hạt giống tuần trước.
Bới ở dưới đất lên một hạt giống đang nảy mầm, cô giáo nói với các
em: “Tổng thống chỉ tựa như là đã
chết; những gì đang xảy ra ra cho ông
thì cũng tựa như những gì đang xảy ra cho hạt giống này.” Cô giáo muốn nói gì? Làm sao ý tưởng về hạt giống có thể giúp
diễn tả ý tưởng về sự sống lại được nói đến trong Kinh Thánh?
4. Bạn hãy tả lại một lần nào đó bạn đã “chết
đi và sống lại” theo ý nghĩa được nói đến trong bài về lời mời gọi từng người
chúng ta.
Mark Link, S.J.
Chuyển ngữ: Lm
Trần đình Nhi
Về Trang Mục Lục
Trở về trang Giáo Lý
Công Giáo
Trở Về Trang Nhà