Phần II – Bài 17
Trước khi đọc
tiếp, bạn hãy suy nghĩ và hoàn tất hai câu sau đây:
1. Một trong những
lá thư yêu quý nhất tôi đã nhận được trong đời là…
2. Một câu hỏi
tôi có về sách Khải Huyền là…
Có lần một
nhà truyền giáo kia đã nói: “Người dễ
trở lại đạo nhất giữa một bộ lạc ngoại giáo, đó chính là ông thầy lang chữa
bệnh bằng bùa phép.” Lý do tại
sao? Vì ông thầy lang đã có cái nhìn về
thực tại rất sâu xa theo khía cạnh thiêng liêng. Bạn chỉ cần thay đổi lại hướng nhìn ấy thôi.
Lý luận trên
cũng có thể giải thích tại sao chỉ trong sáu tuần lễ, Phao-lô đã có thể dạy đạo
cho một nhóm người và giúp họ trở lại Công giáo. Người ngày xưa có một cái nhìn về thực tại rất thiêng liêng. Phao-lô chỉ cần đổi lại lối nhìn của họ.
Khi Phao-lô
rời bỏ một cộng đoàn để đi rao giảng Tin Mừng cho một nơi khác, ngài vẫn giữ
liên lạc với cộng đoàn ấy qua những sứ giả (Pl 2:19). Nếu cộng đoàn có vấn đề rắc rối, Phao-lô sẽ viết một lá thư để
bàn về điều ấy.
Người thời
xưa thường dùng thư ký để viết thư.
Phao-lô cũng vậy. Điều này rõ
ràng trong những thư của ngài. Thí dụ,
ngài kết thúc thư thứ hai gửi giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca như sau: “Chính tôi, Phao-lô, tự tay viết lời chào
này. Đó là chữ ký trong tất cả các thư
của tôi. Tôi viết như thế đó.” Nói khác đi, từ đầu thư cho tới khúc này đều
là do thư ký của ngài viết. Còn bây
giờ, Phao-lô cầm lấy cây viết từ tay thư ký và tự tay viết những lời chào hỏi
anh chị em tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
CÁC THƯ CỦA PHAO-LÔ
Trong số hai
mươi mốt Thư thuộc Tân Ước, có mười ba Thư được gán cho Phao-lô là tác
giả. Theo truyền thống, các Thư này
chia làm bốn nhóm:
Các Thư viết
trước nhất: Thê-xa-lô-ni-ca (hai thư)
Các Thư lớn: Ga-lát, Cô-rin-tô (hai
thư), Rô-ma
Các Thư viết
từ trong tù: Phi-líp-phê, Cô-lô-xê,
Ê-phê-xô, Phi-lê-môn
Các Thư mục
vụ: Ti-mô-thê (hai thư), Ti-tô.
Khoảng mùa hè
năm 50, Phao-lô giảng tại thành phố Thê-xa-lô-ni-ca. Hai năm sau, ngài được tin tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca có vấn đề lộn
xộn. Họ có cảm tưởng là Đức Giê-su sắp
trở lại. Họ cũng có cảm tưởng là hết
thảy tín hữu vẫn còn sống khi Đức Giê-su trở lại. Cho nên khi một số qua đời thì họ đâm ra bối rối. Điều này khiến Phao-lô phải viết cho họ.
Lá thư thứ
nhất của Phao-lô đã làm sáng tỏ những hiểu lầm về việc người ta chết trước khi
Đức Giê-su trở lại. Nhưng thư ấy vẫn
chưa đánh tan được thắc mắc việc Đức Giê-su đến lần thứ hai có sắp xảy tới hay
không. Hơn nữa xem ra chính thư ấy lại
làm cho họ hoang mang thêm. Do đó
Phao-lô viết thư thứ hai để sửa sai những lầm tưởng của họ.
Sở dĩ gọi là
“Thư lớn” vì chúng chứa đựng những giáo lý quan trọng. Thư đầu tiên gửi cho Ki-tô hữu tại
Ga-lát. Được viết khoảng năm 54, thư
nhắm tới những Ki-tô hữu gốc Do-thái thủ cựu.
Họ làm cho những tân tòng Dân ngoại (không phải gốc Do-thái) bối rối khi
họ bảo những tân tòng này phải tuân chỉ luật Do-thái và phải chịu cắt bì. Phao-lô đã sửa sai điều này, giải thích rằng
luật Do-thái không còn bó buộc nữa.
Ki-tô giáo đã vượt trên lề luật ấy.
Thư lớn thứ
hai và thứ ba gửi cho Ki-tô hữu tại Cô-rin-tô, Hy-lạp. Văn chương cổ Hy-lạp cho thấy những người
Cô-rin-tô là những kẻ say sưa, đồi trụy và phá rối. Theo hai Thư của Phao-lô cho thấy, một số tân tòng Cô-rin-tô mà
Phao-lô đã giúp trở lại vẫn quen thói cũ và lại chứng nào tật nấy. Phao-lô viết: “Đi đâu cũng chỉ nghe nói đến chuyện dâm ô xảy ra giữa anh
em… Anh em lại chẳng biết rằng thân xác
anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?
Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã
ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn
thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân
xác anh em” (1 Cr 5:1; 6:19-20).
Một vấn đề
khác nơi cộng đoàn Cô-rin-tô là việc chia rẽ nội bộ (1 Cr 1:10-13). Phao-lô thúc giục họ hãy chấm dứt ngay những
chia rẽ này. Ngài dùng hình ảnh sau đây
để nói lên sự hiệp nhất họ phải có:
“Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ
phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức
Ki-tô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng
ta, là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu một phép rửa
trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất… Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và
mỗi người là một bộ phận” (1 Cr 12:12-13,27).
Thư sau hết
trong bốn Thư lớn được gửi cho tín hữu Rô-ma.
Khảo luận sâu sắc này về Ki-tô giáo là bức thư dài nhất của
Phao-lô. Thư viết theo dàn bài sau đây:
Thế giới
trước Đức Ki-tô 1:18 –
3:20
Thế giới sau
Đức Ki-tô 3:21 – 5:21
Sự sống mới
trong Đức Ki-tô 6:1 –
8:39
Kế hoạch của
Thiên Chúa cho Ít-ra-en 9:1 – 11:36
Chứng nhân
cho Đức Ki-tô 12:1 –
15:13
Kết luận 15:14 –
16:27
Mối ưu tư của
Phao-lô về những người cùng khổ trong xã hội thường đưa ngài tới cảnh đau khổ
(Cv 16:16-24). Hậu quả thường là ngài
bị cầm tù (2 Cr 11:23). Một cách để
Phao-lô giết thì giờ trong tù là viết thư.
Lá thư đầu
tiên Phao-lô viết trong tù được gửi cho tín hữu Phi-líp-phê. Thư chứa đựng một tổng luận thật thơ mộng về
Tin Mừng: Đức Giê-su, Con Thiên Chúa,
đã mặc lấy thân xác chúng ta, chịu đau khổ, chịu chết, sống lại và lên trời về
với Chúa Cha. Bức thư kết thúc tổng
luận ấy như sau: “Chính vì thế, Thiên
Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh
hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh
Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải
mở miệng tuyên xưng rằng: ‘Đức Giê-su
Ki-tô là Chúa’” (Pl 2:9-11).
Tổng luận này
tuyệt diệu đến nỗi hầu hết các học giả Kinh Thánh đều nghĩ rằng đó chính là một
ca vịnh của Ki-tô hữu sơ khai mà Phao-lô đã trích dẫn. Dù sao đi nữa, Phao-lô cũng đã dùng nó như
ngôi sao dẫn đường cho cả đời ngài, như ngài nói tới trong phần sau: “Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất
là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những
đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của
Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11).
Thư thứ hai
Phao-lô viết trong tù gửi cho tín hữu Cô-lô-xê. Thư cũng có một đoạn thật hay về Đức Giê-su. Đây là một phần nhỏ: “Thánh Tử (Giê-su) là hình ảnh Thiên Chúa vô
hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo… Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong
Người. Người cũng là đầu của thân thể,
nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1:15-18).
Do đó,
Phao-lô “tiếp tục sống kết hợp với Người, bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên
nền tảng là Đức Ki-tô Giê-su” (Cl 2:6-7).
Thư thứ ba
trong tù Phao-lô gửi cho cộng đoàn Ki-tô hữu tại Ê-phê-xô. Thư này cũng nói đến Đức Ki-tô là Đầu Nhiệm
thể Hội Thánh: “Chính Người làm cho các
bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân
mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và
được xây dựng trong tình bác ái” (Ep 4:16).
Phao-lô viết
thư cuối cùng trong tù gửi cho một người tên là Phi-lê-môn. Đây là thư ngắn nhất của Phao-lô, tỏ ra mối
quan tâm tới một người nô lệ bỏ trốn tên là Ô-nê-xi-mô mà Phao-lô đã rửa tội
cho tại Rô-ma. Ô-nê-xi-mô trước kia
thuộc chủ quyền của Phi-lê-môn, một tín hữu tân tòng tại Cô-lô-xê. Phao-lô xin Phi-lê-môn hãy đón nhận Ô-nê-xi-mô
trở lại, không phải như tên nô lệ mà là một người anh em trong Đức Ki-tô.
Tựa như các
bức tranh thường nói lên những giai đoạn trưởng thành của một họa sĩ, cũng thế,
các thư của Phao-lô phản ảnh một sự trưởng thành về tư tưởng nơi ngài. Sự trưởng thành rõ rệt tới độ có người nghĩ
rằng những thư ấy là do một môn đệ của Phao-lô viết sau khi Phao-lô qua đời đã
nhiều năm. Nhiều người khác lại cho rằng
những thư này chỉ phản ảnh đà phát triển của Phao-lô cũng như của Giáo Hội sơ
khai. Hai thư gửi cho Ti-mô-thê và một
thư gửi cho Ti-tô.
Đối với
Phao-lô, Ti-mô-thê giống như con ruột của ngài. Ti-mô-thê còn trẻ và sức khỏe mong manh (1 Tm 5:23). Phao-lô khuyến khích Ti-mô-thê đừng để những
điều ấy ảnh hưởng trên việc làm người chủ chăn tốt cho cộng đoàn mình (1 Tm
4:12).
Còn Ti-tô
cũng làm việc sát cánh với Phao-lô ((2 Cr 7:6). Giống như hai thư gửi cho Ti-mô-thê, thư gửi cho Ti-tô nói về
những vấn đề mục vụ và làm sao đối phó với những vấn đề ấy.
Ngoài mười ba
thư do Phao-lô viết, còn tám thư khác trong Kinh Thánh Tân Ước. Những thư này chia làm hai loại: một thư đặc biệt gửi cho người Do-thái và
bảy thư còn lại được gọi là các Thư chung – gọi như vậy vì chúng không được
viết cho một người hoặc một cộng đoàn riêng biệt nào, nhưng cho mọi người.
Chúng ta
không biết rõ “những người Do-thái” là ai, nhưng một số học giả cho rằng đó là
một nhóm tư tế Do-thái đã trở lại Ki-tô giáo và giờ đây đang chịu bách hại vì
việc trở lại ấy. Hoàn cảnh họ đúng như
lời Đức Giê-su đã nói: “Nếu họ đã bắt
bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15:20).
Thư này cổ võ
người Do-thái hãy chống lại cơn cám dỗ lìa bỏ đức tin: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là
Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách
về mọi phương diện cũng như ta, chỉ trừ tội lỗi. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân
sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16).
Bảy Thư chung
gồm có ba thư của Gio-an, hai thư của Phê-rô, một thư của Gia-cô-bê và một thư
của Giu-đa.
Ít có thư nào
trong Tân Ước có thể sánh với phần mở đầu thật đẹp của Thư 1 Gio-an: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều
chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm
ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống… Chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa” (1 Ga
1:1,3).
Thư còn tiếp
tục nói rằng những thầy dạy giả mạo đã xâm nhập nhiều cộng đoàn Ki-tô hữu. Gio-an gọi họ là những “phản Ki-tô” (1 Ga
2:18), vì họ “chống lại Đức Ki-tô.” Họ
không nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế (1 Ga 2:22), là Con Thiên Chúa (1 Ga
2:23), là người (1 Ga 4:2). Họ cũng cho
là họ được Chúa ban cho sự hiểu biết đặc biệt (1 Ga 4:1-6).
Hai thư sau
của Gio-an gần giống như những điều ghi chú.
Một được gửi cho “Bà đã được Thiên Chúa tuyển chọn,” có lẽ là một giáo
đoàn tại Tiểu Á; còn thư kia gửi cho
Gai-ô. Thư trước kêu gọi các phần tử
trong cộng đoàn hãy tiếp tục yêu thương nhau và coi chừng thầy dạy giả
dối. Thư sau ca tụng anh Gai-ô và nhắc
nhở anh hãy đề phòng một người lãnh đạo bướng bỉnh trong cộng đoàn.
Tiếp đến là
hai thư của Phê-rô. Thư thứ nhất gửi
cho những Ki-tô hữu đang chịu bách hại vì đức tin. Thư nhắm nâng đỡ tinh thần sa sút của họ: “Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại
một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người” (1 Pr 2:21).
Thư thứ hai
của Phê-rô bàn về một số vấn đề, kể cả việc giải thích Kinh Thánh. Khi nhắc đến những thư của Phao-lô, thư thứ
hai của Phê-rô nói rằng có một số đoạn khó mà hiểu. Rồi thư tiếp tục nói phải coi chừng những kẻ rao giảng bừa bãi,
chuyên môn bẻ quặt ý nghĩa những đoạn Kinh Thánh này cho hợp với mục đích riêng
của họ (2 Pr 3:16).
Thư của
Gia-cô-bê là một trong những thư thực dụng và cụ thể nhất Tân Ước. Một đoạn hết sức quan trọng đề cập đến mối
tương quan giữa đức tin và hành động:
“Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17).
Sau hết là
thư của Giu-đa. Thư này rất ngắn và
khuyên người đọc hãy chống lại với “những kẻ vô luân đã biến ân sủng của Thiên
Chúa chúng ta thành lý do biện minh cho lối sống dâm ô” (Gđ 4).
Nhìn lại các
Thư trong Tân Ước, chúng ta thấy phản ảnh qua đó không hẳn chỉ có những vấn đề
của Giáo Hội sơ khai, nhưng còn chứa đựng tâm huyết của những vị lãnh đạo Giáo
Hội. Những thư này vẫn tiếp tục mời gọi
chúng ta qua mọi thế hệ với những lời lẽ như sau: “Đừng đọc những Thư này chỉ cốt để biết về những vấn đề của Giáo
Hội sơ khai. Hãy đọc để biết về chính
chúng ta nữa. Hãy đọc để biết rằng
chúng tôi đã có chính những vấn đề mà các bạn đang có. Hãy đọc để biết rằng chúng tôi đã phấn đấu để theo Chúa cũng như các bạn đang
phấn đấu.”
Không có cuốn
sách nào trong bộ Kinh Thánh đã bị hiểu sai hơn là sách Khải Huyền. Lý do khiến người ta lẫn lộn là vì sách đầy
những hình ảnh bí nhiệm.
Thí dụ, có
hai mãnh thú, một con mang số 666 (Kh 13:18).
Con số này thường được hiểu là Nê-rô, hoàng đế Rô-ma đầu tiên đã bách
hại Ki-tô hữu. (Người Rô-ma xác định
giá trị theo thứ tự chữ trong vần abc).
Những ai
trong chúng ta hy vọng tìm ra ý nghĩa rõ ràng về mọi hình ảnh trong sách thì
chỉ thêm thất vọng thôi. Ngay đến những
học giả cũng không thể hiểu hết.
Hầu hết, sách
Khải Huyền là một loạt những thị kiến được diễn tả bằng những hình ảnh khiến
cho Ki-tô hữu ngày nay bị lẫn lộn, nhưng Ki-tô hữu ngày xưa thì có thể hiểu
được.
Bí quyết để
hiểu sách Khải Huyền là hãy luôn nhớ tới giai đoạn lịch sử mà sách đã được
viết. Gio-an đã viết vào một thời điểm
khi các Ki-tô hữu đang bị bách hại khốc liệt vì đức tin.
Từ nhiều thế
kỷ đã có ba cách giải thích khác nhau về cuốn sách. Có thể tóm tắt ba phương thức ấy như sau:
Phương thức
lịch sử sơ khởi chủ trương rằng độc giả chính của cuốn sách là những Ki-tô hữu
bị bách hại thuộc thế kỷ thứ nhất tại Rô-ma.
Với những Ki-tô hữu này, sách Khải Huyền nói: Cứ yên tâm trong thời đau khổ.
Đức Ki-tô đã chiến thắng; anh
chị em cũng vậy.
Phương thức
lịch sử bao quát chủ trương rằng độc giả chính của sách là Ki-tô hữu sống trong
mọi thời. Với họ, sách Khải Huyền
dạy: Luôn luôn có những buổi thử thách
và đau khổ, nhưng cuối cùng việc tái tạo thế giới sẽ xảy đến theo kế hoạch của
Thiên Chúa.
Phương thức
lịch sử kết thúc chủ trương rằng độc giả chính của sách là Ki-tô hữu sống trong
những ngày cuối cùng. Để mô tả ngày tận
thế, sách dạy: Khi các ngươi thấy những
điều ấy xảy ra thì hãy ngửng đầu lên;
giờ vinh quang sau hết của các ngươi đã gần kề.
Mỗi phương
thức đều có giá trị riêng của nó. Với
phương thức thứ nhất, sách sẽ là kim chỉ nam cho Ki-tô hữu trong thời sơ khai,
phương thức thứ hai cho Ki-tô hữu trong mọi thời và phương thức thứ ba cho
Ki-tô hữu trong thời sau hết.
Có lẽ cách
tốt nhất để hiểu sách Khải Huyền đó là nhận thức sách muốn nói riêng với mỗi
người trong số các độc giả trên với một cách thức độc đáo.
1. 1 Cô-rin-tô 12:12-31 Thân thể Chúa Ki-tô
2. 2 Cô-rin-tô 4:1-15 Kho tàng giấu ẩn
3. Gia-cô-bê 2:14-26 Chị em song sinh của đức tin
4. 1 Gio-an 4:7-21 Mọi sự vì tình yêu
5. Khải Huyền 1:1-20 Thị kiến của Gio-an
1. Động lực nào khiến Phao-lô viết thư cho tín
hữu Thê-xa-lô-ni-ca? Cho tín hữu
Ga-lát?
2. Tại sao một số học giả đặt vấn đề không biết
các Thư mục vụ có phải là của Phao-lô viết không?
1. Phao-lô viết trong 2 Cr 9:7: “Ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa
yêu thương.” Bạn hãy chia sẻ về ý nghĩa
của mỗi nhận xét dưới đây về việc dâng hiến, và nói tại sao bạn đồng ý hay
không đồng ý.
- “Những gì bạn cho lúc mạnh khỏe là
vàng; những gì bạn cho lúc ốm đau là
bạc; những gì bạn cho lúc chết là chì.” (Châm ngôn Do-thái)
- “Bác ái đích thực đâu cần để ý tới được miễn
thuế hay không.” (Dan Bennett)
- “Ngay kẻ ăn xin sống nhờ của bố thí cũng cần
phải biết bố thí.” (Talmud)
- “Người đời hỏi: Ông ta cho bao nhiêu? Còn
Chúa Ki-tô hỏi: Tại sao ông ta cho?”
(John Raleigh Mott).
2. Nhân vật Charlie Brown trong hoạt họa
Peanuts khoái dùng từ “Good grief!”
(Buồn nhưng lại tốt!) Làm sao từ
ngữ này phản ảnh ý nghĩa của những lời Phao-lô viết trong 2 Cr 7:10: “Nỗi ưu phiền do ý Thiên Chúa làm cho chúng
ta hối cải để được cứu độ: đó là điều
không bao giờ phải hối tiếc; còn nỗi ưu
phiền của thế gian thì gây ra sự chết”?
3. Trong thị kiến thứ nhất, Gio-an được bảo hãy
viết bảy lá thư cho bảy giáo hội. Viết
cho giáo hội Ê-phê-xô, thư nói rằng:
“Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt
mỏi. Nhưng Ta trách ngươi điều
này: ngươi đã để mất tình yêu thuở ban
đầu. Vậy ngươi hãy nhớ lại xem ngươi đã
từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu” (Kh
2:3-5). Nếu Đức Giê-su viết một thư cho
cộng đoàn của bạn, Ngài sẽ ca tụng điều gì?
Hoặc trách cứ điều gì?
4. Phao-lô viết trong Rm 8:28: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho
những ai yêu mến Người.” Bạn hãy nhớ
lại một biến cố trong đời mình, bắt đầu là thánh giá, nhưng kết thúc là một ơn
lành.
Mark Link, S.J.
Chuyển ngữ: Lm
Trần đình Nhi
Về Trang Mục Lục
Trở về trang Giáo Lý
Công Giáo
Trở Về Trang Nhà