Phần III – Bài 18
Trước khi đọc
tiếp, bạn hãy suy nghĩ và hoàn tất hai câu sau đây:
1. Tôi hiểu từ
ngữ bí tích nghĩa là…
2. “Khi Giáo Hội
rửa tội, đó là chính Đức Ki-tô rửa tội.”
Tôi đồng ý hoặc không đồng ý, vì…
Thánh Phan-xi-cô
thường đi dạo bộ rồi gọi mặt trời là anh, mặt trăng là chị. Có phải Phan-xi-cô “mát dây” rồi chăng? Hay chúng ta kỳ dị vì không làm như vậy?
Học hỏi qua
khoa học Tây phương, chúng ta được dạy cần biết phân biệt muôn vật khác nhau
thế nào. Còn Phan-xi-cô, được đào tạo
trong một môi trường khác, lại thấy mọi vật giống nhau. Thí dụ Phan-xi-cô được huấn luyện để thấy
mặt trời và mặt trăng cùng do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng, giống như chúng ta
là công trình do bàn tay Chúa. Nơi
chúng, có một phần của Thiên Chúa, chúng ta cũng thế. Chúng là một phần tử trong gia đình Thiên Chúa, thì chúng ta cũng
vậy. Do đó chúng ta gọi chúng là anh và
chị. Chúng làm cho Thiên Chúa hiện diện
trong vũ trụ, chúng ta cũng làm như thế.
Mặt khác,
Phan-xi-cô nhận thấy loài người có một điều đặc biệt mà các tạo vật khác không
có. Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh
chúng ta, giống như chúng ta” (St 1:26).
Và Thiên Chúa đã làm như vậy.
Kết quả là
loài người có một chút đặc biệt của Thiên Chúa nơi họ mà mặt trời lẫn mặt trăng
đều không có. Vậy con người giúp cho sự
hiện diện của Thiên Chúa thể hiện một cách đặc biệt, khác với cách của mặt trời
mặt trăng.
Phan-xi-cô
còn nhận thấy một điều khác nữa. Cho dù
loài người giúp cho sự hiện diện của Thiên Chúa thể hiện một cách đặc biệt, thì
vẫn còn một cách đáng kể hơn, hết sức độc đáo và hoàn hảo để nói lên sự hiện
diện của Ngài.
Đức Giê-su là
sự hiện diện đầy đủ của Thiên Chúa trong thế giới. Đức Giê-su nói: “Ai thấy
Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Do
đó, cách Đức Giê-su làm cho Thiên Chúa hiện diện vượt trên mọi cách khác, thực
siêu việt không tưởng tượng nổi.
Chúng ta hãy
suy nghĩ như thế này: Tựa như tổng
thống đại diện cho quốc gia, hoặc như Đức Giáo Hoàng đại diện cho Giáo Hội, thì
cũng vậy, Đức Giê-su đại diện cho Thiên Chúa.
Chúng ta nói
“cũng vậy” là vì cả tổng thống lẫn Đức Giáo Hoàng chỉ là những vị đại diện có
giới hạn. Các ngài không thể hoàn toàn
giống như những thực tại mà các ngài thay mặt cho. Còn Đức Giê-su thì Ngài hoàn toàn ngang hàng với Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã nói về Đức Giê-su: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình”
(Cl 1:15). Do đó, Ngài làm cho Thiên
Chúa hiện diện một cách độc đáo và hoàn hảo nhất.
Khi sắp rời
trần gian để về cùng Chúa Cha, Đức Giê-su đã nói với môn đệ Ngài: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” (Ga 14:18). Rồi ngay trong ngày lên trời về cùng Chúa
Cha, Ngài đã an ủi họ: “Thầy ở cùng anh
em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Những lời này
của Đức Giê-su là những điều quan trọng nhất Ngài đã nói ra, bởi vì chúng cho
thấy một chân lý tuyệt diệu.
Những lời Đức
Giê-su cho chúng ta thấy ngay cả khi Ngài không còn hiện diện bằng thân xác tại
trần gian này thì Ngài sẽ hiện diện bằng một cách khác. Bản chất đích thực của sự hiện diện này vẫn
còn là một điều mầu nhiệm đối với các môn đệ Ngài cho đến ngày Chúa Thánh Thần
hiện xuống. Sau đó Chúa Thánh Thần
xuống trên họ và dẫn dắt họ hiểu hết sự thật (Ga 16:13).
Bỗng chốc tất
cả những gì Đức Giê-su đã nói với họ đều trở nên rõ ràng. Họ bắt đầu hiểu bản chất sự hiện diện mới
của Ngài nơi trần gian. Họ bắt đầu thấy
rõ Đức Giê-su hiện diện trong và qua các môn đệ Ngài – tức là Giáo Hội (Mt
16:18). Cùng với Đức Giê-su, họ làm
thành một thân thể (1 Cr 12:12-27). Hãy
nhớ lại sứ điệp gửi cho Phao-lô khi ông trở lại: “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Phao-lô hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”
Chúa trả lời: “Ta là Giê-su mà
ngươi đang bắt bớ” (Cv 9:4-5).
Điều mặc khải
ấy đã giúp Phao-lô ý thức sâu xa rằng Đức Giê-su và các môn đệ Ngài làm thành
một thân thể, với Đức Giê-su là đầu (Cl 1:18).
Bách hại môn đệ Ngài là bách hại chính Ngài.
Nhưng Đức
Giê-su không chỉ hiện diện trong Giáo Hội một cách thụ động đâu.
Vào ngày Chúa
Thánh Thần Hiện Xuống, Đức Giê-su còn đi xa hơn việc hiện diện trong thế giới
qua các môn đệ Ngài. Ngài bắt đầu hành
động qua họ. Họ trở nên cánh tay, đôi
chân, miệng lưỡi và trái tim mới của Ngài.
Họ trở thành phương thế để Đức Giê-su đến với mọi người.
Giờ đây các
môn đệ của Đức Giê-su bắt đầu hiểu ý nghĩa trọn vẹn những lời Ngài nói: “Ai nghe anh em là nghe Thầy” (Lc 10:16). Đức Giê-su muốn họ hiểu như vậy khi họ đi thi
hành lệnh truyền của Ngài để giảng dạy, bởi vì không phải là họ giảng dạy mà
chính Đức Giê-su giảng dạy. Không phải
là họ chữa lành mà chính Đức Giê-su chữa lành qua họ. Như vậy, thấy người ta bỡ ngỡ sau khi Phê-rô chữa lành một người
què, ông liền nói: “Thưa đồng bào
Ít-ra-en, sao lại ngạc nhiên về điều đó, sao lại nhìn chúng tôi chằm chằm, như
thể chúng tôi đã làm cho người này đi lại được, nhờ quyền năng riêng hay lòng
đạo đức của chúng tôi?” (Cv 3:12). Rồi
Phê-rô nói rằng chính do quyền năng của Đức Giê-su hoạt động qua các ngài mà
người què kia bước đi được ( xem Cv 3:16).
Như thế chúng
ta đi tới kết luận thứ hai. Bắt đầu từ
khi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Đức Giê-su không chỉ hiện diện trong thế giới
qua Giáo Hội, mà Người còn hành động qua Giáo Hội. Bởi vậy sau này thánh Augustinô có thể nói: “Khi Giáo Hội rửa tội
là chính Đức Ki-tô rửa tội.”
Trải qua thời
gian, các môn đệ Đức Giê-su nhận ra rằng một số hành động – như việc xức dầu
cho bệnh nhân (Mc 6:13), rửa tội bằng nước (Ga 3:5), và ăn bánh Thánh Thể (1 Cr
11:26) – là những hành động hết sức đặc biệt.
Rồi khi họ thực thi những hành động đó thì Đức Giê-su đã hành động trong
và qua Giáo Hội một cách hết sức đặc biệt.
Do đó các môn
đệ của Đức Giê-su bắt đầu gọi những hành đôäng đầy ý nghĩa ấy bằng một từ đặc
biệt: bí tích.
Việc sử dụng
từ này đầu tiên gặp thấy trong những tác phẩm của văn hào Tertulianô, một Ki-tô
hữu vào thế kỷ thứ ba. Ông so sánh việc
rửa tội với bí tích mà người Rô-ma dùng để nhận những người được tuyển mộ vào
quân đội Rô-ma. Cũng thế, bí tích rửa
tội đem Ki-tô hữu nhập vào thân thể mầu nhiệm Đức Ki-tô.
Từ này thật
là tuyệt diệu. Tuy nhiên lại bất hạnh
vì một số Ki-tô hữu bắt đầu áp dụng từ này một cách bừa bãi vào những hành động
ít quan trọng của Giáo Hội. Đã có thời
người ta soạn ra một danh sách gồm khoảng ba mươi hành động của Giáo Hội mà
người ta gọi là những bí tích.
Nhưng rồi
Giáo Hội đã giới hạn lại, chỉ dùng từ ấy cho “bảy bí tích” mà thôi.
Vậy từ bí
tích không phải là tiếng chính Đức Giê-su đã sử dụng. Ngay trong Kinh Thánh cũng không gặp từ ấy. Từ Ba Ngôi cũng không có trong Kinh Thánh. Những từ này chỉ dần dần xuất hiện nơi những
môn đệ của Đức Giê-su để diễn tả một số thực tại và chân lý quan trọng về đức
tin của họ.
Một người nào
đó đã nói: “Bí tích xóa đi thời gian và
cho chúng ta được gặp Đức Ki-tô ngay trong thời đại chúng ta, hệt như những
người trong thời Tin Mừng đã gặp Ngài.”
Qua bí tích,
Đức Giê-su tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta, tha thứ cho chúng ta, chữa lành chúng
ta, tựa như Ngài đã làm cho những người trong thời Tin Mừng. Đức Giê-su tiếp tục đến với dân chúng hôm
nay cũng như Ngài đã đến với những người ngày xưa trên các nẻo đường cát bụi xứ
Ga-li-lê.
Như Đức
Giê-su đã hành động trong thời Tin Mừng qua những hành vi trần thế của thân xác
Ngài, thì Ngài cũng hành động trong thời chúng ta qua những hành vi bí tích của
thân thể mầu nhiệm Ngài là Giáo Hội.
Cần minh định
tại sao Ki-tô hữu thời xưa lại sử dụng từ bí tích để nói về những hành động đặc
biệt này, chứ không dùng từ dấu hiệu hoặc biểu tượng.
Một dấu hiệu
chỉ nói lên được một chiều kích. Nó mới
nói về chính nó thôi. Thí dụ, một dấu
hiệu ngừng chỉ là một hình vẽ ra lệnh mà người ta đồng ý dùng làm phương tiện
thông đạt. Chúng ta dùng mầu đỏ để
thông đạt mệnh lệnh hãy dừng lại. Việc
chọn mầu đỏ nói lên tính cách nghiêm ngặt của mệnh lệnh. Tự bản chất chẳng có liên hệ gì giữa mầu đỏ
với từ hãy dừng lại. Không có gì là
tinh tế đối với một dấu hiệu. Nó chỉ về
chính nó và nó nói lên ý nghĩa chúng ta muốn nó nói lên thôi.
Một biểu
tượng có hai chiều kích. Biểu tượng chỉ
về một điều gì khác ngoài nó ra. Nó còn
hơn cả một hình vẽ ra lệnh để dùng thông đạt.
Biểu tượng tạo nên một móc nối tự nhiên giữa một vật và ý nghĩa nó nói
lên. Một họa sĩ vẽ giọt nước mắt trên
khuôn mặt của Đức Giê-su để tượng trưng cho sự buồn đau. Có mối liên hệ tự nhiên giữa giọt nước mắt
và sự buồn đau.
Giọt nước mắt
chỉ về con người yêu thương đằng sau khuôn mặt ấy. Theo nghĩa này, một biểu tượng có hai chiều kích.
Một bí tích
có ba chiều kích. Bí tích vượt ra ngoài
chính nó, đến vô cùng tận và không thể bị giới hạn trong tư tưởng. Một bí tích nói lên sự hiện diện của thực
tại nó chỉ về.
Thí dụ, một
biểu tượng vẽ trên khuôn mặt Đức Giê-su chỉ diễn tả một con người đầy yêu
thương và ưu ái. Nhưng bí tích thì đi
xa hơn nhiều. Nó diễn tả sự hiện diện
thực sự của con người Đức Giê-su đầy yêu thương và ưu ái. Do đó, nó có ba chiều kích.
Như đã nói
trước đây, từ bí tích đã từng bị sử dụng bừa bãi để nói về nhiều hành động của
Giáo Hội. Tuy nhiên dần dần từ ấy đã
được dành riêng cho “bảy bí tích.” Các
bí tích được sắp thành nhóm như sau:
Bí tích khai
tâm (dẫn nhập): Rửa tội, Thêm sức,
Thánh Thể
Bí tích chữa
lành: Giải tội (Hòa giải), Xức
dầu bệnh nhân
Bí tích ơn
gọi: Hôn phối, Truyền
chức.
Mỗi bí tích
đều đem chúng ta đến gặp gỡ Đức Giê-su trong một cách thế đặc biệt và để cho
Ngài đi vào cuộc đời chúng ta một cách độc đáo.
Bí tích Rửa
tội và Thêm sức đưa chúng ta nhập vào cộng đồng môn đệ Đức Giê-su. Bí tích Thánh Thể đưa tiến trình dẫn nhập
tới tột đỉnh và là cuộc gặp gỡ thân mật nhất với Đức Giê-su.
Bí tích Giải
tội cử hành việc Đức Giê-su tha thứ cho chúng ta sau khi chúng ta vấp phạm
nhưng biết đáp lại lời gọi đến với Chúa và anh chị em. Bí tích Xức dầu bệnh nhân đem lại cho chúng
ta quyền năng chữa lành đặc biệt của Đức Giê-su những khi chúng ta đau yếu
nặng.
Bí tích Hôn
phối nối kết hai người lại trong sự kết hợp phản ảnh sự kết hợp giữa Đức Giê-su
và các môn đệ Ngài (Ep 5:28-29). Đó
cũng là sự kết hợp giúp xây dựng Giáo Hội.
Sau cùng, bí tích Truyền chức tuyển chọn những giám mục, linh mục và phó
tế để đặc biệt phục vụ trong cộng đồng môn đệ Đức Giê-su.
Điều này đưa
chúng ta tới hai điểm minh định sau đây:
Trước hết
Giáo Hội thường được gọi là một bí tích.
Giáo Hội có cái tên như vậy vì đó chính là đường lối Đức Giê-su dùng để
tiếp tục hiện diện và hoạt động trong thế giới. “Bảy bí tích” chỉ là “bảy phương thức đặc biệt” Đức Giê-su hoạt
động qua Giáo Hội hôm nay.
Có lẽ để
tránh lẫn lộn nên Giáo Hội được gọi là bí tích “nền tảng” hoặc “căn bản” để
phân biệt với bảy bí tích kia.
Điều này đưa
chúng ta tới minh định thứ nhì.
Đôi khi bạn
nghe hoặc thấy định nghĩa bí tích là “dấu hiệu bề ngoài được Đức Ki-tô thiết
lập để ban ơn sủng.” Định nghĩa này sẽ
làm bạn hài lòng nếu được hiểu đúng cách.
Bí tích là
những dấu hiệu bề ngoài. Nói khác đi,
chúng là những hành động có thể cảm nhận được như việc đổ nước, xức dầu, hoặc
ăn uống.
Bí tích cũng
được Đức Ki-tô thiết lập. Tuy nhiên
chúng được thiết lập không theo cách một số người lầm tưởng. Đức Giê-su đã không dừng lại sau khi xức dầu
một bệnh nhân để nói: “Những gì Ta vừa
mới làm là để thiết lập bí tích Xức dầu bệnh nhân.”
Nhưng thực ra
Đức Giê-su đã dẫn các môn đệ Ngài đến việc dùng những cử chỉ thực tiễn như xức
dầu, đổ nước… để làm cho một thực tại vô hình, thiêng liêng trở nên thấy được,
sờ được, cảm nhận được bằng giác quan.
Việc Đức Giê-su đã thiết lập bí tích được hiểu theo nghĩa sự hiện diện
và năng lực của bí tích thể hiện tại đây và lúc này chính là do Đức Giê-su mà
tới.
Có người so
sánh việc Đức Giê-su thiết lập bí tích với việc Thiên Chúa tạo dựng vũ
trụ. Chúng ta không biết những chi tiết
của việc sắp đặt và tạo vật trong vũ trụ làm sao mà có. Nhưng chúng ta biết chắc mỗi tạo vật đều do
Thiên Chúa mà có. Hơn nữa chính Thiên
Chúa, tại đây và lúc này, đang tiếp tục cho mỗi tạo vật được hiện hữu. Cũng vậy, bí tích xuất phát và tồn tại từ
cuộc đời và hoạt động của Đức Giê-su.
Sau cùng, bí
tích ban ân sủng cho những ai trung thành lãnh nhận. Qua bí tích và qua đức tin cũng như sự cộng tác của người nhận
lãnh bí tích, các Ki-tô hữu trung thành được kết hợp chặt chẽ với Đức Ki-tô
trong một cách thức độc đáo và trao đổi sức sống.
1. Chúng ta là những tạo vật đặc biệt Thánh Vịnh 8
2. Nên một với Đức Giê-su Công Vụ Tông Đồ 9:1-9
3. Nguồn sống của chúng ta Gio-an 15:1-8
4. Chúng ta cần đến nhau 1 Cô-rin-tô 12:12-21
5. “Ngài xức lên mắt tôi.” Gio-an 9:1-12
1. Bạn hiểu thế nào về định nghĩa bí tích là
dấu hiệu bề ngoài do Đức Ki-tô thiết lập để ban ân sủng?
2. Giáo Hội là một bí tích. Bạn hiểu thế nào? Còn bạn, bạn có phải là một bí tích không? Nếu có thì bạn nói lên được những gì?
1. Hãy thảo luận những tư tưởng sau đây:
- “Sự hiện diện hữu hình của Đấng Cứu Thế đã
chuyển thành bí tích.” (Thánh Giáo
Hoàng Lê-ô I)
- “Chúa Ki-tô hiện diện trong Giáo Hội, nhất
là trong hành động phụng vụ.” (CĐ Vatican II)
- “Như hạt dẻ tuy che khuất nhưng lại nói lên
sự hiện diện của một cây dẻ, thì cũng vậy, bí tích che khuất nhưng tỏ lộ sự
hiện diện của Đức Ki-tô.” (Vô danh)
2. Bạn hãy để ý mặt sau của tờ giấy bạc một
Mỹ-kim. Con mắt ở bên trên kim tự tháp
là biểu tượng cho Thiên Chúa theo nghĩa nào?
Kim tự tháp biểu tượng cho Chúa Ba Ngôi theo nghĩa nào? Con phượng hoàng có ý nghĩa gì? Những mũi tên? Ngành ô-liu? Tại sao bạn
nghĩ rằng con phượng hoàng quay mặt về ngành ô-liu hơn là về những mũi tên?
3. Tại sao những cử chỉ như bắt tay, ôm hôn
hoặc cho quà tặng thường biểu lộ nhiều hơn là lời nói? Hiểu điều này thế nào về những bí tích mà
Đức Giê-su ban cho Giáo Hội?
4. Bạn muốn lãnh nhận bí tích nào nhất? Tại sao?
Hoặc không? Tại sao?
Mark Link, S.J.
Chuyển ngữ: Lm
Trần đình Nhi
Về Trang Mục Lục
Trở về trang Giáo Lý
Công Giáo
Trở Về Trang Nhà