Phần III - Bài 22
Trước khi đọc
thêm, bạn hãy suy nghĩ và hoàn tất hai câu hỏi sau:
1. Một trong
những buổi phụng tự đáng nhớ nhất mà tôi đã tham dự là…
2. Điều làm cho
đáng nhớ, đó là…
Cha Walter
Ciszek bị băét tại Nga-sô hồi đệ nhị thế chiến. Ngài bị giam trong tù hai mươi ba năm. Sau khi được thả, ngài viết cuốn sách nhan đề là Người đã dẫn dắt
tôi (He Leadeth Me). Ngài mô tả một
cộng đoàn tù nhân Công Giáo bé nhỏ thường bí mật tụ họp nhau mỗi khi có thể để
cử hành Thánh Thể.
Vào thời đó,
người Công Giáo nhịn ăn uống từ sau nửa đêm để được rước lễ ngày hôm sau. Trong những Thánh lễ bí mật này, cộng đoàn
thường để dành Mình Thánh lại để đem cho những tù nhân Công Giáo khác không thể
tham dự. Cha Ciszek viết: “Đôi khi chúng tôi chỉ gặp được họ khi chúng
tôi trở về nhà giam vào buổi tối trước bữa ăn.
Thế mà những người này vẫn nhịn đói cả ngày và lao động quần quật không
một miếng bỏ bụng từ tối hôm trước, chỉ vì họ muốn được rước Thánh Thể. Vậy mới biết Bí tích Thánh Thể đối với họ
quý trọng dường nào.”
Đối với người
Công Giáo, không có Bí tích nào quý trọng hơn là Bí tích Thánh Thể.
Có lẽ cách
đơn giản nhất để hiểu Phụng vụ Thánh Thể là hãy nhớ lại thánh sử Lu-ca mô tả
Phụng vụ ấy vào bữa Tiệc Ly:
“Khi giờ đã
đến, Đức Giê-su vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Người… Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra,
trao cho các ông và nói: ‘Đây là mình
Thầy, hy sinh vì anh em. Anh em hãy làm
việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.’ Và
tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: ‘Chén này là giao ước mới, lập bằng máu
Thầy, máu đổ ra vì anh em.’” (Lc 22:14,19-20).
Mô tả của
thánh Lu-ca cho thấy ba sự kiện quan trọng về Thánh Thể, đó là:
- một bữa ăn tưởng niệm,
- một bữa ăn hiến
tế, và
- một bữa ăn giao ước.
Khi nói: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến
Thầy,” thì Chúa Giê-su đã có một ý nghĩ độc đáo và đặc biệt.
Ý niệm tưởng
nhớ trong Kinh Thánh mang một ý nghĩa súc tích hơn là ý niệm tưởng nhớ hiện
thời. Đối với người Do-thái, tưởng nhớ
không chỉ có nghĩa là nhớ lại một biến cố quá khứ. Nhưng tưởng nhớ là đem một biến cố quá khứ đưa vào hiện tại và
sống lại biến cố ấy. Thí dụ, khi người
Do-thái cử hành (tưởng nhớ) biến cố Vượt qua thì họ tin rằng nhờ đức tin, họ đã
đem biến cố ấy về hiện tại và sống lại biến cố đó. Họ tham dự vào biến cố tựa như là đích thân hiện diện trong chính
biến cố xảy ra lúc ban đầu.
Chính phương
cách tưởng nhớ đặc biệt này Đức Giê-su đã muốn khi Ngài nói với cộng đoàn môn
đệ của Ngài: “Anh em hãy làm việc này,
mà tưởng nhớ đến Thầy.”
Trong Thánh
lễ, chúng ta tưởng nhớ cuộc sống, sự chết và sống lại của Đức Giê-su. Chúng ta tin rằng nhờ đức tin chúng ta đưa
những biến cố này vào hiện tại, để chúng ta có thể tham dự vào những biến cố ấy
thực sự như các tông đồ đã tham dự trong bữa Tiệc Ly.
Trong bữa
Tiệc Ly, Đức Giê-su nói: “Đây là mình
Thầy, hy sinh vì anh em” và “Đây là… máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.” Cả hai cách nói, “hy sinh vì anh em” và “đổ
ra vì anh em” đều ám chỉ về một hy tế.
Toàn thể khung cảnh bữa Tiệc Ly mang đặc tính hiến tế và trực tiếp liên
hệ với cái chết hy sinh của Đức Giê-su trên thập giá vào ngày hôm sau.
Khi cử hành
Thánh Thể, cộng đồng Công Giáo tham dự vào hy tế của Chúa Giê-su dâng lên Thiên
Chúa Cha. Thánh Phao-lô làm sáng tỏ
điều này khi ngài nói: “Khi ta nâng
chén tạ ơn mà cảm tạ Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải
là dự phần vào Thân Thể Người sao?” (1 Cr 10:16).
Hy tế Thánh
lễ không phải là một hy tế mới. Đó là
cùng một hy tế Đức Giê-su đã mở đầu tại bữa Tiệc Ly và hoàn tất ngày Thứ Sáu
Tuần Thánh. Chúng ta tham dự vào hy tế
ấy như các tông đồ đã tham dự trong bữa Tiệc Ly và như các môn đệ Đức Giê-su đã
tham dự khi đứng dưới chân thập giá ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Trong bữa
Tiệc Ly, Đức Giê-su nói: “Chén này là
giao ước mới, lập bằng máu Thầy.” Chúng
ta nhận thấy hai điểm ở đây:
Trước hết,
những lời của Đức Giê-su nhắc lại giao ước Thiên Chúa đã ký kết với dân
Ít-ra-en tại chân núi Si-nai. Giao ước
ấy được đóng ấn bằng máu những con vật được dâng hiến. Nói đến việc “đóng ấn” này, sách Xuất Hành
viết: “Ông Mô-sê lấy cuốn sách giao ước
đọc cho dân nghe. Họ thưa: ‘Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi
sẽ thi hành và tuân theo.’ Bấy giờ, ông
Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói: ‘Đây
là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh
24:7-8). Còn giao ước mới thì được
“đóng ấn” bằng chính máu của Đức Giê-su.
Thứ đến,
những lời của Đức Giê-su “Chén này là giao ước mới” cũng nhắc lại lời Thiên
Chúa hứa qua ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Ta
sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới… Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm
khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là
Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta… Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của
chúng nữa” (Gr 31:31-34). Đây là giao
ước mới Đức Giê-su đã khai mạc trong bữa Tiệc Ly. Đó cũng là giao ước mới mà chúng ta cử hành trong Thánh lễ. Chúng ta cử hành một thực tại không thể tin
được, đó là qua Đức Giê-su, Thiên Chúa đã trở thành Cha chúng ta và chúng ta
được trở nên con cái Người.
Trong bữa
Tiệc Ly, Đức Giê-su “cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông
(tông đồ) và nói: ‘Đây là mình Thầy…’ Tới tuần rượu cuối bữa ăn, Ngài cũng làm như
vậy.” Đây cũng chính là những gì chúng
ta làm trong Phụng vụ Thánh Thể.
Linh mục,
hành động như người đại diện cho toàn thể cộng đoàn, nhận lấy bánh và rượu rồi
chuẩn bị dâng lên. Chúng ta gọi đó là
phần Tiến lễ.
Tiếp đến,
linh mục làm phép bánh và rượu. Chúng
ta gọi phần này là Kinh Tạ ơn.
Sau hết, linh
mục trao bánh và rượu (giờ đây đã trở thành Mình và Máu Chúa Ki-tô) cho cộng
đoàn. Chúng ta gọi phần này là Hiệp lễ.
Những gì Đức
Giê-su đã làm trong bữa Tiệc Ly đều phù hợp với ba phần chính của Phụng vụ
Thánh Thể:
Trong bữa
Tiệc Ly Trong Phụng vụ
Thánh Thể
Đức Giê-su
cầm lấy Tiến lễ
Đức Giê-su
làm phép Kinh Tạ ơn
Đức Giê-su
trao cho Hiệp lễ
Phụng vụ Lời
Chúa bắt đầu với việc rước Sách Thánh lên cung thánh. Phụng vụ Thánh Thể cũng bắt đầu với việc rước đem của lễ (bánh và
rượu) lên Bàn Tiệc của Chúa (bàn thờ).
Sau khi đặt
của lễ trên bàn thờ, linh mục chuẩn bị của lễ khi đọc lời nguyện trên bánh. Lời nguyện dựa theo một lời nguyện ở bàn ăn
của người Do-thái:
“Lạy Chúa là
Chúa Tể càn khôn, chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa màu
ruộng đất và công lao của con người, xin dâng lên Chúa để bánh này trở nên bánh
trường sinh nuôi dưỡng chúng con.”Cũng cùng một cách như thế, linh mục cầu
nguyện trên rượu.
Thánh Lu-ca nói rằng sau khi Đức Giê-su đã chuẩn bị của
lễ, Ngài đọc lời chúc lành trên của lễ.
Ngày nay việc chúc lành này được gọi là Kinh Tạ ơn.
Để giản dị hơn,
chúng ta có thể chia Kinh Tạ ơn ra làm ba phần:
Lời
Tiền tụng,
Trình
thuật bữa Tiệc Ly, và
Kết
thúc.
Linh mục bắt
đầu lời Tiền tụng bằng cách mời gọi mọi người hãy “nâng cao” tâm hồn để “tạ ơn
Chúa.” Rồi tùy theo từng mùa, linh mục
đọc những lời như sau:
“Lạy Cha chí
thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc,
thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con, khi Đức Ki-tô tự
hiến tế làm Chiên Vượt Qua của chúng con.
Chính Người là Chiên thật đã xóa tội trần gian. Người đã chết để diệt trừ sự chết nơi chúng
con, và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng con.”
Lời Tiền tụng
kết thúc với việc giáo dân cầu nguyện rằng:
“Thánh!
Thánh! Chí Thánh! Thiên Chúa, Chúa Tể
càn khôn là Đấng Thánh. Trời đất rạng
ngời vinh quang Chúa. Hoan hô Chúa trên
các tầng trời. Chúc tụng Đấng ngự đến
nhân danh Chúa. Hoan hô Chúa trên các
tầng trời.”
Những lời
“Thánh! Thánh! Chí Thánh!” trích từ sách ngôn sứ I-sai-a khi ngài kể lại thị
kiến về các tạo vật trên trời đứng trước nhan thánh Chúa và hô lên “Thánh!
Thánh! Chí Thánh!”
Lời “Hoan hô”
(Hosanna) gặêp thấy đôi chỗ trong Kinh Thánh.
Đầu tiên, Hosanna là lời kêu xin Thiên Chúa tới cứu giúp. Sau này, nó biến thành lời chúc tụng Thiên
Chúa và được sử dụng trong lời Tiền tụng theo ý nghĩa đó.
Tiếp đến,
linh mục sang phần chính của Kinh Tạ ơn là phần thuật lại bữa Tiệc Ly, nói về
Đức Giê-su:
“Trong đêm bị
trao nộp, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn Cha, bẻ ra, trao cho các
môn đệ và nói: ‘Tất cả các con cầm lấy
mà ăn: Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì
các con.’
“Cùng một thể
thức ấy, vào cuối bữa ăn, Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các môn đệ và
nói: ‘Tất cả các con cầm lấy mà
uống: Này là chén Máu Thầy, máu giao
ước mới, giao ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.’”
Linh mục kết
thúc Kinh Tạ ơn bằng cách gợi lại sự chết và sống lại của Đức Giê-su. Rồi linh mục dâng lên Chúa Cha mình và máu
Đức Giê-su với những lời sau đây:
“Chính nhờ
Đức Ki-tô, cùng với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, hiệp nhâát với Chúa Thánh
Thần, mọi vinh quang và danh dự đều thuộc về Cha là Thiên Chúa toàn năng đến
muôn thuở muôn đời.”
Cộng đoàn
đồng thanh đáp lại với lời “A-men”. Từ
thời xưa, lời đáp này đã được gọi là “Amen trọng thể.” Ở nhiều nhà thờ người ta đệm nhạc rộn ràng
khi hát lời đáp này.
Linh mục mở
đầu phần hiệp lễ bằng cách mời cộng đoàn cùng đọc kinh Lạy Cha. Những lời “Xin Cha cho chúng con hôm nay
lương thực hằng ngày” mang ý nghĩa đặc biệt trong lúc này. Bởi vì một lát nữa các phần tử trong cộng
đoàn sẽ lãnh nhận Mình Thánh Chúa Ki-tô là “bánh ban sự sống” (Ga 6:35).
Tiếp theo
kinh Lạy Cha là nghi thức chúc bình an.
Lúc này linh mục mời cộng đoàn chúc bình an cho nhau. Thường thường chúc bình an bằng cách bắt tay
hoặc ôm hôn kèm theo lời “Bình an Chúa Ki-tô ở cùng…”
Từ bình an
trong tiếng Do-thái là Shalom. Khó mà
dịch ra cho đúng nghĩa, nhưng nói chung là chúng ta chúc cho nhau được đầy tràn
mọi điều tốt lành do Đức Giê-su đem tới, tức là sự tha thứ, tình yêu thương và
sự vui mừng.
Tiếp theo
nghi thức chúc bình an là “bẻ bánh.”
Thời xưa, việc bẻ bánh mất nhiều thì giờ hơn vì người ta dùng các ổ bánh
mì trong Thánh lễ. Điều này cũng giúp
chúng ta hiểu tại sao người ta hát kinh “Lạy Chiên Thiên Chúa.” Trong khi chờ đợi đang bẻ bánh thì người ta
hát kinh này. Ngày nay, chúng ta vẫn
còn hát kinh Lạy Chiên Thiên Chúa, nhưng bánh lễ là những tấm bánh nhỏ, thay vì
dùng cả ổ bánh lớn.
Thánh Phao-lô
viết: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và
tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng
chỉ là một thân thể” (1 Cr 10:17). Bữa
ăn Thánh Thể là cao điểm trong Thánh lễ.
Đó là nguồn cội và biểu lộ sự hiệp nhất của cộng đoàn trong Chúa Ki-tô.
Bữa Tiệc
Thánh Thể ngược lại với bữa ăn hằng ngày.
Trong bữa ăn hằng ngày, nhũng gì chúng ta ăn sẽ biến thành một phần của
con người chúng ta. Còn trong Bữa Tiệc
Thánh Thể, chúng ta trở thành một phần của những gì chúng ta ăn, đó là thân
mình Chúa Ki-tô.
Cách thức
chúng ta thường làm khi rước lễ là để cho thừa tác viên Thánh Thể đặt Mình
Thánh vào miệng chúng ta hoặc vào lòng bàn tay chúng ta. Khi làm như thế, thừa tác viên sẽ nói: “Mình Thánh Chúa Ki-tô.” Chúng ta sẽ đáp lại: “A-men.”
Nếu đôi khi có cho rước Máu Thánh Chúa, thì thừa tác viên sẽ đưa chén
cho chúng ta và nói: “Máu Thánh Chúa Ki-tô.” Chúng ta cũng đáp lại: “A-men,” rồi cầm lấy chén và uống.
Phần Hiệp lễ
kết thúc với một phút thinh lặng và lời nguyện do linh mục đọc.
Thánh lễ kết
thúc với việc linh mục giải tán cộng đoàn.
Có người đã nói về lúc này như sau:
“Lúc thánh thiện nhất của phụng vụ là khi dân Chúa, sau khi đã được Lời
Chúa và Thánh Thể ban cho sức mạnh, thì bước ra khỏi cửa nhà thờ mà đi vào thế
giới để đích thực làm Giáo Hội.” Sứ
mệnh của cộng đoàn là đáp lại Lời Chúa.
Việc giải tán gồm hai động tác ngắn.
Trước hết,
linh mục chúc lành cho dân chúng, ngài nói:
“Xin Thiên Chúa toàn năng là Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần
ban phúc lành cho anh chị em.”
Tiếp đến, để
sai dân chúng đi làm Giáo Hội, linh mục nói:
“Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về trong bình an và yêu thương để phụng
sự Chúa.” Cộng đoàn đáp: “Tạ ơn Chúa.”
1. Hình bóng về Bí tích Thánh Thể Gio-an 2:1-12
2. Lời hứa về Bí tích Thánh Thể Gio-an 6:35-59
3. Thiết lập Bí tích Thánh Thể Lu-ca 22:14-20
4. Cử hành Bí tích Thánh Thể Lu-ca 24:13-35
5. Thánh Phao-lô với Bí tích Thánh Thể 1 Cô-rin-tô 11:17-29
1. Ôn lại những ý nghĩa Thánh Thể là một bữa
ăn: tưởng niệm, hiến tế và giao ước.
2. Ba phần chính của Kinh Tạ Ơn.
3. Giải tán sau khi Thánh lễ kết thúc là giây
phút “thánh thiện” được hiểu thế nào?
1. Một phụ nữ Tin Lành viết trong một tạp chí
quốc gia: “Những người bạn Công Giáo
của tôi làm cho tôi thắc mắc. Họ nói
rằng Thánh lễ thực sự cùng là Bữa Tiệc Ly, thực sự cùng là Hy tế Thập giá… Vậy, nếu tôi tin Chúa Ki-tô hiện diện trên
bàn thờ, thì tại sao tôi lại không có mặt ở đó mỗi ngày?” Bạn trả lời người ấy thế nào?
2. Cha Ciszek viết
trong cuốn Người đã dẫn dắt tôi :
“Chúng tôi đã dâng Thánh lễ trong những kho chứa đồ, hoặc tụm lại giữa
chỗ bùn lầy hoặc tuyết tan của một góc nền nhà sắp xây… Vậy mà trong những hoàn cảnh thô sơ ấy,
Thánh lễ đã đưa chúng tôi đến gần Chúa hơn là người ta tưởng.” Tại sao?
Điều gì đã làm cho Thánh lễ thành một kinh nghiệm đầy ý nghĩa và một
biểu lộ đức tin của cộng đoàn như Đức Giê-su đã muốn?
3. Trong cuốn
Chuyển hướng (Turning), Emilie Griffin viết:
“Việc sùng kính Bí tích Thánh Thể - tức là tin vào sự hiện diện đích
thực của Chúa Ki-tô - đã đưa tôi đến
với những nhà thờ Công giáo… Riêng tôi,
càng sùng kính Bí tích Thánh Thể, tôi càng bị lôi cuốn tới đạo Công giáo
hơn.” Bà muốn nói gì khi nhắc đến việc
“tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa Ki-tô”? Bí tích Thánh Thể có tầm quan trọng nào trong việc lôi cuốn bạn
tới Giáo Hội Công Giáo?
The Catholic Vision III – 22
Mark Link, S.J.
Chuyển ngữ: Lm
Trần đình Nhi
Về Trang Mục Lục
Trở về trang Giáo Lý
Công Giáo
Trở Về Trang Nhà