Mục 12
“Tôi tin hằng
sống vậy”
Articulus 12
“Credo vitam aeternam”
1020. Kitô hữu nào
kết hợp sự chết riêng của mình với sự chết của Chúa Giêsu, thì coi sự chết như
việc đến với Chúa và đi vào sự sống muôn đời. Khi Hội Thánh, lần cuối cùng, đọc
lời xá giải của Đức Kitô để tha thứ cho Kitô hữu hấp hối, xức dầu ban sức mạnh
và trao Chúa Kitô là của ăn đàng như lương thực cho cuộc hành trình, Hội Thánh
dịu dàng trấn an người ấy:
“Hỡi linh hồn Kitô
hữu, hãy ra đi khỏi trần gian này, nhân danh Chúa Cha toàn năng, Đấng đã tạo
dựng nên con, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã chịu
khổ hình vì con, nhân danh Chúa Thánh Thần, Đấng đã được tuôn đổ trên con; hôm
nay xin cho con được bình an đến chỗ của con và nơi lưu ngụ của con bên Thiên
Chúa trong thành thánh Sion, cùng với Đức thánh Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
với thánh Giuse, với tất cả các Thiên thần và các Thánh của Thiên Chúa... Xin
cho con được trở về cùng Đấng đã lấy bùn đất tạo dựng nên con. Khi con lìa bỏ
đời này, xin thánh Maria, các Thiên thần và toàn thể các Thánh đón tiếp con…
Xin cho con được nhìn thấy mặt giáp mặt Đấng Cứu Chuộc con và con được chiêm
ngưỡng Thiên Chúa đến muôn đời”[1].
I. PHÁN XÉT RIÊNG
IUDICIUM
PARTICULARE
1021. Sự chết kết
thúc đời sống con người, xét như quãng thời gian mở ngỏ để đón nhận hay khước
từ ân sủng của Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Kitô[2].
Tân Ước nói về sự phán xét chủ yếu trong viễn tượng một cuộc gặp gỡ sau cùng
với Đức Kitô khi Người ngự đến lần thứ hai, nhưng cũng nhiều lần khẳng định sự
thưởng phạt mỗi người ngay sau khi họ chết, tùy theo công việc và đức tin của
họ. Dụ ngôn về người nghèo khó Lazarô[3],
và lời Đức Kitô trên thập giá nói với người trộm lành[4],
cũng như những bản văn khác trong Tân Ước[5] nói
đến số phận cuối cùng của linh hồn[6],
một số phận có thể khác nhau giữa người này với người khác.
1022. Mỗi người,
ngay sau khi chết, lãnh nhận trong linh hồn bất tử của mình sự trả công muôn
đời cho mình trong một cuộc phán xét riêng, cuộc phán xét đó quy chiếu đời sống
họ với Đức Kitô để hoặc họ phải trải qua việc thanh luyện[7],
hoặc họ lập tức được vào hưởng vinh phúc trên trời[8] hoặc
họ lập tức bị luận phạt muôn đời[9].
“Vào lúc đời xế
bóng, bạn sẽ bị xét xử về tình yêu”[10].
II. THIÊN ĐÀNG
CAELUM
1023. Những ai chết
trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa, và những ai đã được thanh luyện
trọn vẹn, thì được sống muôn đời với Đức Kitô. Muôn đời họ sẽ giống như Thiên
Chúa, bởi vì họ thấy Ngài “như Ngài là” (1 Ga 3,2), “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12)[11]:
“Bằng thẩm quyền
tông đồ, chúng tôi định tín rằng: Theo sự an bài chung của Thiên Chúa, từ sau
cuộc Thăng thiên của Đấng Cứu Độ chúng ta là Chúa Giêsu Kitô, linh hồn của tất
cả các Thánh … và của mọi Kitô hữu đã chết sau khi lãnh nhận Phép Rửa thánh
thiêng của Đức Kitô, nếu họ không có gì phải thanh luyện, sau khi họ chết, …
hoặc nếu lúc đó nơi họ đã hoặc sẽ có gì phải thanh luyện, mà đã thanh luyện
xong sau khi chết… thì ngay cả trước khi họ đảm nhận lại thân xác của mình và
trước cuộc phán xét chung, các linh hồn này đã, đang và sẽ được ở trên trời,
trên Nước Trời và trên Thiên Đàng cùng với Đức Kitô, được nhập đoàn các thánh
Thiên thần, và sau cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu Kitô, các linh hồn
này đã và đang được xem thấy bản tính thần linh bằng sự hưởng kiến trực tiếp và
giáp mặt, không qua trung gian một thụ tạo nào”[12].
1024. Đời sống trọn
hảo này với Ba Ngôi Chí Thánh, việc hiệp thông sự sống với Ngài, với Đức Trinh
Nữ Maria, với các Thiên thần và tất cả các Thánh, được gọi là “thiên đàng”.
Thiên đàng là mục đích tối hậu và là sự hoàn thành các nguyện vọng sâu xa nhất
của con người, là tình trạng vinh phúc tuyệt hảo và vĩnh viễn.
1025. Sống trên
thiên đàng là “ở với Đức Kitô”[13].
Những người được tuyển chọn sống “trong Người”, nhưng ở đó họ vẫn giữ, thậm chí
họ tìm được, căn tính riêng của mình, danh xưng riêng của mình[14].
“Quả vậy, sự sống
là được ở với Đức Kitô, bởi vì ở đâu có Đức Kitô, ở đó là Nước Trời”[15].
1026. Chúa Giêsu
Kitô, nhờ sự chết và sự sống lại của Người, đã “mở cửa” thiên đàng cho chúng
ta. Sự sống của các Thánh cốt tại việc sở hữu sung mãn các hoa trái của ơn Cứu
Chuộc mà Đức Kitô đã hoàn thành, Người là Đấng kết hợp vào vinh quang thiên
quốc của Người những ai đã tin vào Người và đã trung thành với thánh ý Người.
Thiên Đàng là cộng đồng vinh phúc của tất cả những người đã được tháp nhập trọn
vẹn vào Đức Kitô.
1027. Mầu nhiệm
hiệp thông vinh phúc với Thiên Chúa và với tất cả những người ở trong Đức Kitô,
vượt quá mọi hiểu biết và mọi trình bày. Thánh Kinh nói với chúng ta về mầu
nhiệm này bằng các hình ảnh: sự sống, ánh sáng, sự bình an, tiệc cưới, rượu
Nước Trời, nhà Cha, thành Giêrusalem thiên quốc, thiên đàng: “Điều mắt chẳng hề
thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên
Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Ngài” (1 Cr 2,9).
1028. Thiên Chúa,
vì sự siêu việt của Ngài, không ai có thể trông thấy Ngài như Ngài là, nếu
chính Ngài không mở mầu nhiệm của Ngài cho con người chiêm ngưỡng trực tiếp, và
nếu chính Ngài không ban cho con người khả năng đó. Việc chiêm ngưỡng Thiên
Chúa như vậy trong vinh quang thiên quốc của Ngài, được Hội Thánh gọi là “sự
hưởng kiến vinh phúc” (visio beatifica):
“Bạn sẽ vinh quang
và hạnh phúc biết bao vì được phép nhìn thấy Chúa, được hân hạnh hưởng niềm vui
cứu độ và ánh sáng vĩnh cửu cùng với Chúa Kitô, Thiên Chúa của bạn, … bạn sẽ
hưởng niềm vui của sự bất tử cùng với những người công chính và các bạn hữu của
Thiên Chúa trong Nước Trời”[16].
1029. Trong vinh
quang trên trời, các Thánh vẫn tiếp tục thi hành thánh ý của Thiên Chúa một
cách hân hoan đối với những người khác và đối với toàn thể các thụ tạo. Các
ngài đã hiển trị cùng với Đức Kitô; cùng với Người, các ngài “sẽ hiển trị đến
muôn thuở muôn đời” (Kh 22,5)[17].
III. SỰ THANH LUYỆN
CUỐI CÙNG HOẶC LUYỆN NGỤC
FINALIS PURIFICATIO
SEU PURGATORIUM
1030. Những người
chết trong ân sủng và tình thân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh
luyện hoàn toàn, thì tuy họ chắc chắn sẽ được cứu độ muôn đời, họ còn phải chịu
thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết hầu tiến vào
hưởng niềm vui thiên đàng.
1031. Hội Thánh gọi
sự thanh luyện cuối cùng này của những người được chọn là Luyện ngục,
sự thanh luyện này khác hẳn với hình phạt của những kẻ bị luận phạt. Hội Thánh
công bố đạo lý đức tin liên quan đến luyện ngục, chủ yếu trong các Công đồng
Florentinô[18] và
Triđentinô[19].
Truyền thống của Hội Thánh, dựa trên một số bản văn của Thánh Kinh[20],
nói đến lửa thanh luyện:
“Đối với một số tội
nhẹ, phải tin là trước phán xét chung có lửa thanh luyện, theo điều Đấng là
Chân lý đã nói rằng nếu ai nói phạm đến Chúa Thánh Thần, người đó sẽ chẳng được
tha cả đời này lẫn đời sau (Mt 12,32). Trong lời đó, chúng ta có thể hiểu là
một số tội có thể được tha ở đời này, còn một số tội có thể được tha ở đời sau”[21].
1032. Đạo lý này
cũng dựa trên tập quán cầu nguyện cho những người quá cố, điều này đã được
Thánh Kinh nói đến: “Bởi đó ông Giuđa Maccabêô đã dâng hy lễ đền tội cho những
người quá cố, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12,46). Ngay những
thời đầu, Hội Thánh vẫn kính nhớ người quá cố và dâng lời cầu nguyện cho họ,
nhất là dâng Hy lễ Thánh Thể[22],
để một khi đã được thanh luyện họ có thể được vinh phúc hưởng kiến Thiên Chúa.
Hội Thánh cũng khuyên làm việc bố thí, hưởng các ân xá và làm các việc đền tạ
để cầu cho những người đã qua đời:
“Vậy chúng ta hãy
giúp đỡ họ và hãy nhớ đến họ. Nếu hy lễ của ông Job đã đền được tội cho các con
ông[23]:
tại sao bạn lại hồ nghi, là liệu những lễ tế chúng ta dâng lên để cầu cho người
quá cố có đem đến cho họ một an ủi nào không?… Chúng ta đừng ngần ngại giúp đỡ
những người đã qua đời, và dâng lời cầu nguyện cho họ”[24].
IV. HỎA NGỤC
INFERNUS
1033. Chúng ta
không thể được kết hợp với Thiên Chúa, nếu chúng ta không tự nguyện yêu mến
Ngài. Nhưng chúng ta không thể yêu mến Ngài, nếu chúng ta phạm tội trọng chống
lại Ngài, chống lại người lân cận của chúng ta hoặc chống lại chính chúng ta:
“Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là
kẻ sát nhân, và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại
trong nó” (1 Ga 3,15). Chúa chúng ta cảnh cáo rằng chúng ta sẽ bị tách biệt
khỏi Người, nếu chúng ta bỏ qua không đáp ứng những nhu cầu khẩn thiết của
người nghèo và những người bé mọn, là các anh em của Người[25].
Chết trong tội trọng mà chúng ta không thống hối và không đón nhận tình yêu
thương xót của Thiên Chúa, có nghĩa là chúng ta bị tách biệt khỏi Ngài đến muôn
đời, vì sự chọn lựa tự do riêng của chúng ta. Tình trạng chính mình tự loại trừ
mình cách vĩnh viễn như vậy (“auto-exclusio”) khỏi sự hiệp thông với
Thiên Chúa và với các Thánh, được gọi bằng từ “hoả ngục”.
1034. Chúa Giêsu
thường nói về lửa không hề tắt của “hoả ngục”[26],
dành cho những ai cho đến chết vẫn không tin và không chịu hối cải, ở đó cả
linh hồn và thân xác có thể bị hư mất[27].
Chúa Giêsu dùng những lời nghiêm khắc loan báo: “Con Người sẽ sai các Thiên
thần của Người tập trung… mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của
Người, rồi quăng chúng vào lò lửa” (Mt 13,41-42), và chính Người sẽ công bố lời
kết án: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời!”
(Mt 25,41).
1035. Đạo lý của
Hội Thánh khẳng định có hỏa ngục và tính vĩnh cửu của hoả ngục. Linh hồn của
những kẻ chết trong tình trạng tội lỗi, ngay sau khi chết, sẽ xuống chịu hình
phạt hoả ngục, chịu “lửa muôn đời”[28].
Hình phạt chủ yếu của hoả ngục cốt tại việc muôn đời bị tách biệt khỏi Thiên
Chúa, Đấng mà chỉ nơi Ngài con người mới có thể có sự sống và sự vinh phúc, là
những mục đích của việc con người được tạo dựng, và là những điều con người
hằng khát vọng.
1036. Những khẳng
định của Thánh Kinh và đạo lý của Hội Thánh về hỏa ngục là lời kêu gọi
lãnh trách nhiệm qua đó con người phải sử dụng sự tự do của mình liên
quan đến số phận muôn đời của mình. Đồng thời là lời kêu gọi khẩn thiết
phải hối cải: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì
đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó; còn cửa hẹp và đường chật thì
đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14):
“Vì chúng ta không
biết ngày và giờ, nên theo lời Chúa dạy, chúng ta luôn phải tỉnh thức, để, khi
dòng đời độc nhất của sự sống trần thế của chúng ta chấm dứt, chúng ta xứng
đáng vào dự tiệc cưới với Người và được liệt kê vào số người được chúc phúc (x.
Mt 25,31-46), kẻo cũng như những tôi tớ xấu xa và lười biếng (x. Mt 25,26)
chúng ta được lệnh phải vào lửa muôn đời (x. Mt 25,41), vào chốn tối tăm bên
ngoài, nơi khóc lóc và nghiến răng”[29].
1037. Thiên Chúa
không tiền định cho ai xuống hỏa ngục[30];
điều này đòi sự tự ý thù ghét Thiên Chúa (tội trọng) và cố chấp trong tình
trạng đó đến cùng. Hội Thánh, trong phụng vụ Thánh Thể và trong kinh nguyện
hằng ngày của các tín hữu, khẩn cầu lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng không
muốn “cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối
cải” (2 Pr 3,9):
“Vì vậy, lạy Chúa,
xin vui lòng chấp nhận lễ vật của chúng con là tôi tớ Chúa, và của toàn thể gia
đình Chúa… Xin an bài cho đời chúng con được sống trong bình an của Chúa, cứu
chúng con thoát khỏi án phạt đời đời và nhận chúng con vào đoàn những người
Chúa chọn”[31].
V. PHÁN XÉT CUỐI
CÙNG
ULTIMUM IUDICIUM
1038. Việc phục
sinh của tất cả mọi người đã chết, “người lành và kẻ dữ” (Cv 24,15), đi trước
cuộc Phán Xét cuối cùng. Đó sẽ là “giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng… Con
Người và sẽ ra khỏi đó: ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai
đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,28-29). Lúc đó Đức Kitô sẽ
đến “trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu… Các dân thiên
hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người; và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục
tử tách biệt chiên với dê, Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên
trái… Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra
đi để hưởng sự sống muôn đời” (Mt 25,31.32.46).
1039. Đối diện với
Đức Kitô, Đấng là Chân lý, chân lý về mối tương quan của từng người với Thiên
Chúa sẽ được biểu lộ một cách vĩnh viễn[32].
Việc Phán Xét cuối cùng sẽ mạc khải, đến tận những hậu quả cuối cùng của nó,
điều thiện hảo mà mỗi người đã làm, hoặc đã bỏ không làm, trong suốt đời sống
trần thế của họ:
“Bất cứ điều gì
những kẻ dữ làm, đều bị ghi lại, mà họ không biết, khi ‘Thiên Chúa ta ngự đến,
Ngài không nín lặng’ (Tv 50,3)… Rồi Ngài quay sang những kẻ ở bên trái và nói:
Ta đã đặt những người nghèo khó bé mọn của Ta trên trần thế cho các ngươi. Ta
như là Đầu, Ta đang ngự bên hữu Chúa Cha trên trời, nhưng các chi thể của Ta
nơi trần thế phải đau khổ, túng thiếu. Nếu các ngươi cho các chi thể của Ta bất
cứ cái gì, thì cái đó đã lên tới Đầu. Các ngươi phải biết rằng, Ta đã đặt những
người nghèo khó bé mọn của Ta cho các ngươi khi còn ở trần thế, Ta đặt họ làm
những người phục vụ các ngươi để đem các việc làm của các ngươi vào kho tàng
của Ta. Và các ngươi đã chẳng đặt gì vào tay họ, vì vậy các ngươi chẳng gặp
được gì ở nơi Ta”[33].
1040. Cuộc Phán Xét
cuối cùng sẽ diễn ra khi Đức Kitô trở lại một cách vinh quang. Chỉ có Chúa Cha
mới biết ngày giờ; chỉ một mình Ngài quyết định việc Ngự đến của Đức Kitô. Lúc
đó, qua Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Chúa Cha sẽ công bố phán quyết chung
thẩm của Ngài về toàn thể lịch sử. Chúng ta sẽ nhận biết ý nghĩa tối hậu của
toàn bộ công trình tạo dựng và của toàn bộ Nhiệm cục cứu độ và chúng ta sẽ hiểu
những đường lối kỳ diệu qua đó sự quan phòng của Thiên Chúa đã dẫn đưa mọi sự
đến mục đích tối hậu của chúng. Cuộc Phán Xét cuối cùng sẽ mạc khải đức công
chính của Thiên Chúa chiến thắng mọi sự bất chính mà các thụ tạo của Ngài đã
lỗi phạm, và tình yêu của Ngài mạnh hơn sự chết[34].
1041. Sứ điệp của
việc Phán Xét cuối cùng là kêu gọi hối cải, trong khi Thiên Chúa còn cho người
ta “thời gian thuận tiện” và “ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Sứ điệp này gợi lên sự
kính sợ thánh thiện đối với Thiên Chúa. Nó thúc đẩy người ta đến sự công chính
của Nước Trời. Sứ điệp này loan báo “ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi” (Tt
2,13), tức là ngày trở lại của Chúa, Đấng sẽ đến “để được tôn vinh giữa các
thần thánh của Người và được ngưỡng mộ giữa mọi kẻ đã tin” (2 Tx 1,10).
VI. HY VỌNG TRỜI
MỚI ĐẤT MỚI
CAELORUM NOVORUM ET
TERRAE NOVAE SPES
1042. Lúc cùng tận
thời gian, Nước Thiên Chúa sẽ đạt tới sự viên mãn của mình. Sau cuộc Phán Xét
chung, những người công chính, được tôn vinh cả xác cả hồn, sẽ hiển trị muôn
đời với Đức Kitô, và chính toàn thể trần gian sẽ được đổi mới:
Lúc đó Hội Thánh
“sẽ được hoàn tất trong vinh quang thiên quốc, khi… cùng với nhân loại, cả toàn
thể trần gian, được kết hợp mật thiết với con người và nhờ con người mà đạt tới
mục đích của mình, cũng được canh tân trọn vẹn trong Đức Kitô”[35]
1043. Thánh Kinh
gọi sự canh tân huyền diệu này, nó sẽ biến đổi nhân loại và trần gian, là “trời
mới đất mới” (2 Pr 3,13)[36].
Đó sẽ là sự hoàn thành chung cuộc kế hoạch của Thiên Chúa: “Quy tụ muôn loài
trong trời đất… trong Đức Kitô” (Ep 1,10).
1044. Trong trần
gian mới[37],
trong thành Giêrusalem thiên quốc, Thiên Chúa sẽ có nơi cư ngự của Ngài giữa
con người. “Ngài sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn
tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4)[38].
1045. Đối với con
người, sự hoàn tất này sẽ là sự thực hiện vĩnh viễn việc hợp nhất
nhân loại mà Thiên Chúa đã muốn từ tạo thiên lập địa, và Hội Thánh lữ hành đã
“như là bí tích” của sự hợp nhất ấy[39].
Những ai được kết hợp với Đức Kitô sẽ làm thành cộng đoàn những người được cứu
chuộc, “Thành thánh” của Thiên Chúa (Kh 21,2), “Hiền thê của Con Chiên” (Kh
21,9). Cộng đoàn này sẽ không còn bị tổn thương bởi tội lỗi, bởi các điều ô uế[40],
bởi tính ích kỷ từng hủy diệt hoặc làm tổn thương cộng đồng nhân loại nơi trần
thế. Sự hưởng kiến vinh phúc (visio beatifica) trong đó Thiên Chúa tỏ
mình ra cách vô tận cho những người được chọn, sẽ là nguồn mạch vĩnh cửu của
vinh phúc, của bình an và của sự hiệp thông với nhau.
1046. Đối với vũ
trụ, Mạc khải khẳng định rằng nhân loại và vũ trụ vật chất có chung
một vận mệnh sâu xa:
“Muôn loài thụ tạo
những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Ngài…
Vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc
vào cảnh hư nát… Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thụ
tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi,
cả chúng ta cũng rên siết trong lòng … khi trông đợi sự cứu chuộc thân xác
chúng ta” (Rm 8,19-23).
1047. Vì vậy, vũ
trụ hữu hình được tiền định để chính nó được biến đổi: “Chính nó phải được phục
hồi như tình trạng ban đầu, không có trở ngại nào, mà phục vụ những người công
chính”[41],
trong khi tham dự vào sự tôn vinh họ trong Chúa Giêsu Kitô phục sinh.
1048. “Chúng ta
không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta
cũng chẳng biết cách thức vũ trụ sẽ biến đổi ra sao. Quả thật bộ mặt biến dạng
vì tội lỗi của trần gian này sẽ qua đi, nhưng chúng ta được dạy rằng Thiên Chúa
đã chuẩn bị một nơi lưu ngụ mới và một trần thế mới, trong đó sự công chính lưu
ngụ, và vinh phúc của nó sẽ thỏa mãn và vượt quá mọi khát vọng về bình an, vốn
đã trào lên trong trái tim con người”[42].
1049. “Tuy nhiên,
sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải khích động hơn sự
quan tâm phát triển trái đất này, nơi mà thân thể gia đình nhân loại mới đang
tăng trưởng và đã có khả năng đưa ra một nét phác hoạ nào đó của thời đại mới.
Vì vậy, tuy phải phân biệt rõ rệt sự tiến bộ trần thế với sự tăng trưởng Nước
Đức Kitô, nhưng tiến bộ này trở thành rất quan trọng đối với Nước Thiên Chúa
tùy theo mức độ nó có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội nhân loại một cách
tốt đẹp hơn”[43].
1050. “Thật vậy,
sau khi chúng ta đã theo lệnh Chúa, và trong Thần Khí của Người, truyền bá khắp
cõi đất những sự tốt lành của phẩm giá nhân loại, của sự hiệp thông huynh đệ và
của sự tự do, nghĩa là tất cả những hoa trái tốt đẹp của bản tính và sự nghiệp
của chúng ta, thì sau đó chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng trong tình trạng đã
được thanh luyện khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và được biến hình, khi Đức Kitô
trao lại cho Chúa Cha Nước vĩnh cửu và phổ quát”[44].
Lúc đó, trong đời sống vĩnh cửu, Thiên Chúa “có toàn quyền
trên muôn loài” (1 Cr 15,28):
“Sự sống thật và
theo bản chất cốt tại điều này: Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa
Thánh Thần, đổ tràn các hồng ân thiên quốc trên tất cả không trừ ai. Nhờ lòng
thương xót của Ngài, cả chúng ta là những con người, chúng ta cũng đã lãnh nhận
lời hứa vĩnh viễn là được sống muôn đời”[45].
TÓM LƯỢC
1051. Ngay sau khi
qua đời, mỗi người trong linh hồn bất tử của mình, trong cuộc phán xét riêng,
nhận lấy sự thưởng phạt muôn đời của mình từ nơi Đức Kitô, Đấng phán xét kẻ
sống và kẻ chết.
1052. “Chúng tôi
tin là linh hồn của tất cả những ai đã chết trong ơn nghĩa của Đức Kitô… đều là
thành phần dân Thiên Chúa sau khi chết, cái chết sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt
trong ngày phục sinh, ngày mà những linh hồn này được kết hợp với thân xác của
mình”[46].
1053. “Chúng tôi
tin rằng đoàn ngũ đông đảo các linh hồn, được quy tụ với Chúa Giêsu và Đức
Maria trên thiên đàng, họp thành Hội Thánh thiên quốc, nơi các vị, khi hưởng
vinh phúc vĩnh cửu, được thấy Thiên Chúa như Ngài là, và theo cấp độ và cách
thức khác nhau, các vị cũng được dự phần với các Thánh Thiên thần vào quyền cai
quản thần linh mà Đức Kitô vinh hiển đang thực thi, khi các vị chuyển cầu cho
chúng ta và bằng sự quan tâm huynh đệ, các vị giúp đỡ rất nhiều cho sự yếu hèn
của chúng ta”[47].
1054. Những người
chết trong ân sủng và tình thân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh
luyện hoàn toàn, thì tuy họ chắc chắn sẽ được cứu độ muôn đời, họ còn phải chịu
thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết hầu tiến vào
hưởng niềm vui của Thiên Chúa.
1055. Do mầu nhiệm
“các Thánh thông công”, Hội Thánh trao phó những người quá cố cho lòng thương
xót của Thiên Chúa và dâng những lời cầu khẩn, nhất là dâng Hy lễ Thánh Thể cầu
cho họ.
1056. Hội Thánh,
theo gương Đức Kitô, luôn khuyến cáo các tín hữu về một thực tại đáng buồn và
bi thảm là sự chết muôn đời[48], còn được gọi là “hỏa ngục”.
1057. Hình phạt chủ
yếu của hỏa ngục cốt tại việc muôn đời bị tách biệt khỏi Thiên Chúa, Đấng mà
chỉ nơi Ngài con người mới có thể có sự sống và sự vinh phúc, là những mục đích
của việc con người được tạo dựng, và là những điều con người hằng khát vọng.
1058. Hội Thánh cầu
nguyện để không ai bị hư mất: “Lạy Chúa,… xin… đừng để con lìa xa Chúa bao giờ”[49]. Nếu thật sự là không ai có thể tự cứu
được mình, thì cũng thật sự là, Thiên Chúa muốn “cho mọi người được cứu độ” (1
Tm 2,4) và đối với Thiên Chúa, “mọi sự đều có thể được” (Mt 19,26).
1059. “Hội Thánh
Rôma tin và tuyên xưng cách chắc chắn rằng,… vào ngày Phán xét chung, tất cả
mọi người cùng với thân xác của mình, sẽ trình diện trước tòa án của Đức Kitô
để trả lẽ về các hành vi của mình”[50].
1060. Nước Thiên
Chúa, lúc cùng tận thời gian, sẽ đạt tới sự viên mãn của mình. Lúc đó, những
người công chính sẽ hiển trị muôn đời với Đức Kitô, bằng cả thân xác và linh
hồn đã được tôn vinh, và chính toàn thể vũ trụ vật chất cũng sẽ được biến đổi.
Lúc đó, trong cuộc sống vĩnh cửu, Thiên Chúa “có toàn quyền trên muôn loài” (1
Cr 15,28).
“AMEN”
1061. Tín biểu,
cũng như quyển cuối cùng của Thánh Kinh[51],
kết thúc bằng một từ Do thái: Amen. Chúng ta thường gặp chính từ
này ở cuối các kinh nguyện của Tân Ước. Cũng vậy, Hội Thánh cũng chấm dứt các
kinh nguyện của mình bằng Amen.
1062. Trong tiếng
Do thái, từ Amen có cùng ngữ căn với từ “tin”. Ngữ căn này
diễn tả sự vững bền, sự đáng tin, sự trung tín. Như vậy, chúng ta hiểu tại sao
từ “Amen” có thể được dùng để nói về sự trung tín của Thiên Chúa đối với chúng
ta, và về lòng tin cậy của chúng ta vào Ngài.
1063. Trong sách
tiên tri Isaia, chúng ta thấy có kiểu nói “Thiên Chúa chân thật”, sát chữ là
“Thiên Chúa Amen”, nghĩa là, Thiên Chúa trung tín với các lời Ngài đã hứa:
“Trong xứ, ai cầu phúc cho mình, sẽ nhân danh Thiên Chúa chân thật mà cầu phúc”
(Is 65,16). Chúa chúng ta thường dùng từ “Amen”[52],
đôi khi với hình thức lặp lại[53],
để nhấn mạnh sự đáng tin của giáo huấn của Người, và quyền bính của Người dựa
trên chân lý của Thiên Chúa.
1064. Vì vậy, từ
“Amen” ở cuối Tín biểu lặp lại và xác nhận thuật ngữ đầu tiên của Tín biểu:
“Tôi tin”. Tin là thưa “Amen” đối với các lời, các lời hứa và các điều răn của
Thiên Chúa, và là phó thác bản thân một cách tuyệt đối cho Đấng là “Amen” của
tình yêu vô tận và của sự trung tín trọn vẹn. Vậy đời sống Kitô hữu mỗi ngày sẽ
là “Amen” cho lời “Tôi tin” trong bản Tuyên xưng đức tin khi chúng ta lãnh nhận
Phép Rửa:
“Tín biểu của bạn
phải là như gương soi cho bạn. Hãy ngắm nhìn bạn trong đó, để xem bạn có tin
tất cả những gì bạn tuyên xưng là bạn tin hay không, và hằng ngày hãy vui mừng
trong đức tin của bạn”[54].
1065. Chính Chúa
Giêsu Kitô là “Amen” (Kh 3,14). Chính Người là “Amen” vĩnh viễn của tình yêu
của Chúa Cha đối với chúng ta. Chính Người đảm nhận và thực hiện “Amen” của
chúng ta dâng lên Chúa Cha: “Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là ‘Có’
nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên ‘Amen’ để tôn vinh Thiên
Chúa” (2 Cr 1,20):
“Chính nhờ Người,
với Người, và trong Người,
mà mọi danh dự và vinh quang
đều quy về Chúa là Cha toàn năng
trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
AMEN”[55].
Nguồn: http://giaolyductin.net
[1] Ordo Unctionis infirmorum eorumque pastoralis
curae, Ordo commendationis morientium, 146-147, editio typica (Typis
Polyglottis Vaticanis 1972) 60-61.
[2] X. 2 Tm 1,9-10.
[3] X. Lc 16,22.
[4] X. Lc 23,43.
[5] X. 2 Cr 5,8; Pl 1,23; Dt 9,27; 12,23.
[6] X. Mt 16,26.
[7] X. CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis
Palaeologi imperatoris: DS 856; CĐ Florentinô, Decretum pro Graecis:
DS 1304; CĐ Triđentinô, Sess. 25a, Decretum de purgatorio: DS 1820.
[8] X. CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis
Palaeologi imperatoris: DS 857; ĐGH Gioan XXII, Tông sắc Ne super
his: DS 991; ĐGH Bênêđictô XII, Hiến chế Beneditus Deus: DS
1000-1001; CĐ Florentinô, Decretum pro Graecis: DS 1305.
[9] X. CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis
Palaeologi imperatoris: DS 858; ĐGH Bênêđictô XII, Hiến chế Benedictus
Deus: DS 1002; CĐ Florentinô, Decretum pro Graecis: DS 1306.
[10] Thánh Gioan Thánh Giá, Avisos y sentencias, 57:
Biblioteca Mística Carmelitana, v. 13 (Burgos 1931) 238.
[11] X. Kh 22,4.
[12] ĐGH Bênêđictô XII, Hiến chế Benedictus Deus:
DS 1000; x. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 49:
AAS 57 (1965) 54.
[13] X. Ga 14,3; Pl 1,23; 1 Tx 4,17.
[14] X. Kh 2,17.
[15] Thánh Ambrôsiô, Expositio evangelii secumdum
Lucam, 10, 121: CCL 14, 379 (PL 15, 1927).
[16] Thánh Cyprianô, Epistula 58, 10:
CSEL 3/2, 665 (56, 10: PL 4, 367-368).
[17] X. Mt 25,21.23.
[18] X. CĐ Florentinô, Decretum pro Graecis:
DS 1304.
[19] X. CĐ Triđentinô, Sess. 25a, Decretum de
purgatorio: DS 1820; Sess. 6a, Decretum de iustificatione,
canon 30: DS 1580.
[20] Thí dụ: 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7.
[21] Thánh Grêgôriô Cả, Dialogi, 4, 41,
3: SC 265, 148 (4, 39; PL 77, 396).
[22] CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis
Palaeologi imperatoris: DS 856.
[23] X. G 1,5.
[24] Thánh Gioan Kim Khẩu, In epistulam I ad
Corinthios homilia 41, 5: PG 61, 361.
[25] X. Mt 25,31-46.
[26] X. Mt 5,22.29; 13,42.50; Mc 9,43-48.
[27] X. Mt 10,28.
[28] X. Symbolum Quicumque: DS 76; Synodus
Constantinopolitana (năm 543), Anathematismi contra Origenem, 7: DS
409; Ibid., 9: DS 411; CĐ Latêranô IV, Cap.1, De fide
catholica: DS 801; CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis Palaeologi
imperatoris: DS 858; ĐGH Bênêđictô XII, Hiến chế Benedictus Deus:
DS 1002; CĐ Florentinô, Decretum pro Iacobitis: DS 1351; CĐ Triđentinô,
Sess. 6a, Decretum de iustificatione, canon 25: DS 1575; ĐGH Phaolô
VI, Sollemnis Professio fidei, 12: AAS 60 (1968) 438.
[29] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 48: AAS 57 (1965) 54.
[30] X. CĐ Arausicanô II, Conclusio: DS 397;
CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, canon 17: DS
1567.
[31] Kinh Nguyện Thánh Thể I, hoặc Lễ Quy Rôma, 88: Sách
Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 450.
[32] X. Ga 12,48.
[33] Thánh Augustinô, Sermo 18, 4, 4:
CCL 41, 247-249 (PL 38, 130-131).
[34] X. Dc 8,6.
[35] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
[36] X. Kh 21,1.
[37] X. Kh 21,5.
[38] X. Kh 21,27.
[39] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 1: AAS 57 (1965) 5.
[40] X. Kh 21,27.
[41] Thánh Irênê, Adversus haereses, 5,
32, 1: SC 153, 398 (PG 7, 1210).
[42] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
Spes, 39: AAS 58 (1966) 1056-1057.
[43] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
Spes, 39: AAS 58 (1966) 1057.
[44] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
Spes, 39: AAS 58 (1966) 1057; x. Id., Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 2: AAS 57 (1965) 5-6.
[45] Thánh Cyrillô Giêrusalem, Catecheses
illuminandorum, 18, 29: Opera, v. 2, ed. J. Rupp (Monaci
1870) 332 (PG 33, 1049).
[46] ĐGH Phaolô VI, Sollemnis Professio fidei, 28:
AAS 60 (1968) 444.
[47] ĐGH Phaolô VI, Sollemnis Professio fidei,
29: AAS 60 (1968) 444.
[48] X. Sacra Congregatio pro Clericis, Directorium
catechisticum generale, 69: AAS 64 (1972) 141.
[49] Lời nguyện trước Hiệp Lễ, 132: Sách
Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 474.
[50] CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis
Palaeologi imperatoris: DS 859; CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum
de iustificatione, c. 16: DS 1549.
[51] X. Kh 22,21.
[52] X. Mt 6,2.5.16.
[53] X. Ga 5,19.
[54] Thánh Augustinô, Sermo 58, 11, 13:
PL 38, 399.
[55] Vinh tụng ca kết thúc Kinh Nguyện Thánh Thể: Sách
Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 455, 460, 464, et
471.